-
NGUYỄN CÔNG TRỨ
-
UY VIỄN TƯỚNG QUÂN
-
Nguyễn Mộng Khôi
-
--o0o--
-
-
- Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc
-
Nợ tang bồng vay trả, trả vay
-
Chí làm trai Nam Bắc Ðông Tây
-
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể
-
-
A- ÐÔI DÒNG TIỂU SỬ
-
Nguyễn Công Trứ (1778-1858) hiệu là Ngộ Trai, tự là Hy Văn,
quê quán tại làng Uy Viễn, huyện Nghi xuân, tỉnh Nghệ Tĩnh.
Ông xuất thân trong một gia đình khoa bảng. Cụ thân sinh là
Nguyễn Công Tấn, và cụ bà Cảnh Thị con quan nội thị Cảnh Bá
Nhạc. Buổi thiếu thời dù sống trong cảnh hàn vi, ông luôn cố
công trau dồi kinh sử để mong thi đỗ ra làm quan giúp dân giúp
nước. Sau nhiều lần thi hỏng, ông cuối cùng đậu Tú Tài năm
1813 và đậu Giải Nguyên năm 1819. Hoạn lộ của ông lắm bước
thăng trầm: Ông làm quan ở nhiều tỉnh, nhiều vùng, có khi lên
đến Binh Bộ Thượng Thư, nhưng cũng có lắm lần bị gièm pha
giáng chức. Ông giúp triêu đình nhà Nguyễn đàn áp nhiều cuộc
khởi nghĩa lớn(Lê Duy Lương, Nồng Văn Vân, Phan Bá Vành...)
làm Doanh Ðiều Sứ, giúp dân khai khẩn đất hoang(1828). Ông mất
ngày 7 tháng 12 năm 1858 tại chính quán, thọ 81 tuổi, được
phong tước Dinh Bình Hầu.
-
Nguyễn Công Trứ để lại nhiều tác phẩm chữ Hán(Câu đối sớ) cũng
như chữ Nôm( thơ, hát nói, phú, câu đối, ca trù...) Thơ văn
Nguyễn Công Trứ phản ảnh khá trung thực sự biến chuyển tâm lý
của một nhà nho cổ điển qua từng giai đoạn đời sống. Phần lớn
các tác phẩm hào hùng và ngạo nghễ, biểu lộ một bản lĩnh vững
chắc, một chí khí mạnh mẽ, và thái độ cầu tiến, vươn lên. Lúc
về già, sáng tác của ông lại tìm về tư tưởng an nhàn, hưởng
lạc.
-
B- TÁC PHẨM CHỌN LỌC
-
- Than Nghèo
-
- Ði Thi Tự Vịnh
-
C- ÐỜi & ÐẠO
-
Trong lịch sử danh nhân Việt Nam, chưa có ai có cuộc đời nhiều
thăng trầm như Uy Viễn Tướng Quân Nguyễn Công Trứ là Bình Tây
Ðại Tướng có cả chục vạn quân dưới cờ:
-
- Lúc Bình Tây cờ đại tướng
-
Có khi về Phủ Doản Thừa Thiên...
-
Nguyễn Công Trứ
-
Và có khi bị giáng xuống làm lính trơn ở Quảng Ngải, với lời
phê của vua Thiệu Trị còn được ghi lại trong Ðại
Nam
thực lục:
-
- Nguyễn Công Trứ, trước kia phái qua Trấn Tây, lo việc quân
lữ, lâu ngày không làm nên công trạng gì, Trẫm đã ngơ cho, lại
cho làm Tuần phủ An Giang, gần đây chỉ ngồi yên một chỗ, không
quan tâm việc gì. Tuy rằng cái việc thuyền buôn chở đồ gian,
vẫn là người khác bịa đặt vu cho, nhưng xét ra việc của viên
quan ấy làm đại để mượn công làm tư, cái tính giống như không
sao che được.
-
Rồi, trong suốt hoan lộ, Ông được thăng, bị giáng tới năm lần.
Uy Viễn Tướng Quân còn là một thi sĩ nổi tiếng. Những năm
cuối, Ông thường lui tới chùa để nghiên cứu Ðạo và Ông đã để
lại cho chúng ta những bài thơ, những tư tưởng rất cao của
Phật Giáo.
-
Tuy là dòng dõi thế phiệt trâm anh. Nguyễn Công Trứ đã phải
chịu một cảnh nghèo xơ xác, vì gia sản bị cuộc nội chiến tàn
phá. Sống gần nửa đời người trong cảnh túng thiếu. Bằng những
lời lẽ chân thành, Ông vẽ lên một bức tranh nghèo, đầy đủ chi
tiết:
-
- Kìa ai: bốn vách tường mo, ba gian nhà cỏ
-
Ðầu hèo mọt tại vẽ sao, trước cửa nhện chặng màn gió
-
Phên trúc che nửa bếp nửa buồng, ống nứa đựng đầu kê đầu đỗ
-
Ðầu giường tre mối duỗi quanh co, góc tường đất giun đùn lỗ
chỗ
-
Nguyễn Công Trứ-Hàn Nho
Phong Vị Phú
-
Năm 1804, lúc đó Nguyễn Công Trứ 26 tuổi, không một chút công
danh, nhưng vẫn mong vua biết đến. Nhân lúc vua Gia Long thăm
Bắc Hà. Ông trải chiếu nằm đường để dâng lên tập: Thái
BìnhThập sách, bàn về kế hoạch bình định xứ sở sau bao nhiêu
năm loạn lạc. Vua nhận sách nhưng chẳng thèm để mắt tới.
-
Năm Ðinh Mão, lúc đó Nguyễn Công Trứ 30 tuổi, triều đình mở
thi Hương. Ông dự thi, nhưng bị rớt. Ðến năm Qúy Dậu 1813, Ông
đỗ Sinh Ðồ(Tú Tài). Mãi đến khoa Kỷ Mão 1819, Gia Long thứ 18,
Ông đậu Giải Nguyên(cử nhân), trường Nghệ, lúc đó Nguyễn Công
Trứ đã 42 tuổi. Năm 43 tuổi mới bắt đầu tham chính, với chức
vụ khiêm tốn Hành Tẩu Sử Quan, một chức quan nhỏ, công việc
chỉ lo chuyển công văn, giấy tờ. Lương khoảng 20 quan tiền và
16 phương gạo mỗi năm. Thật chưa xứng với tài ông! Nhưng ông
vẫn làm việc chuyên cần và tỏ ra hiểu biết nhiều lãnh vực. Vua
Minh Mạng nhận ra chân tài. Từ chức Hành Tẩu bé nhỏ, thăng lên
Tri Huyện rồi về Lang Trung, lên TƯ NGHIỆP(giáo sư trường Quốc
Tử Giám), lên Thừa Thiên Phủ Thừa rồi điều ra Tổng Trấn Bắc
Thành Hà Nội. Tại đây Ông được giao luôn mấy việc, vừa làm
Binh Bộ Thị Lang, lại coi sóc Tào Binh (cơ quan đại diện của
Bộ Hình ở kinh đô). Thế là Nguyễn Công Trứ đã lên chức Thị
Lang hàng Chánh Tam Phẩm, vừa coi việc VõÕ lẫn việc Văn,
(lương hàng năm 150 quan tiền, 120 phương gạo và 20 quan xuân
phục). Nhân bấy giờ có giặc Phan Bá Vành, nên Ông phải trực
tiếp dẹp loạn.
-
Phan Bá Vành, xuất thân là nông dân, có võ nghệ. Thuở nhỏ sống
nghèo khổ. Khoảng năm 1821-1822, vùng châu thổ sông Hồng bị
nạn đói. Dân Nam Ðịnh, Thái Bình, Hải Dương nổi dậy chống
Triều đình do Vành cầm đầu. Trong bộ tham mưu của Vành có:
danh sĩ, võ tướng, con cháu các quan cũ nhà Hậu Lê theo giúp
rầt đông, lại được dân chúng ủng hộ. Họ thường hát:
-
- Trên trời có ông sao rua
-
Giữa làng Minh Giám có vua Bá Vành
-
Cuối năm 1825 Phan Bá Vành chỉ huy đánh đồn Trà Lí, giết trấn
thủ Ðặng Ðình Miễn, Nguyễn Trung Ðiền... Quan trấn thủ Nam
Ðịnh là Lê Mậu Cúc đem quân xuống đánh nhưng bị thua và tử
trận.
-
Vua Minh Mạng thấy thế giặc lớn bèn sai Tham biện Nghệ An
Nguyễn Ðức Nhuận, Hiệp trấn Ðức Thành Nguyễn Hữu Thận cùng
Binh Bộ Thi Lang Nguyễn Công Trứ đi đánh giặc.
-
Ðược chỉ huy trận đánh Nguyễn Công Trứ án binh bất động để
điều nghiên tình hình, quân cơ của giặc. Ông cứ cho Bá Vành
chiêu binh mãi mã. Chính điều sơ hở có tính cách chiến lược
này của Phan Bá Vành mà Nguyễn Công Trứ cài được nhiều lính
triều đình gốc Nam Ðịnh, Thái Bình, Hải Dương vào hàng ngũ
giặc để do thám và rỉ tai làm lung lạc tinh thần quân lính của
Bá Vành. Khi đã biết rõ cơ cấu tổ chức của giặc(biết người
biết ta), Ông ra lệnh đánh và chỉ một trận có cả nội công
ngoại kích. Bá Vành bị bắt và bị giết ở Trà Lũ. Giặc tan,
Nguyễn Công Trứ được thăng chức Hình Bộ Tham Tri(tương đương
với thứ trưởng )
-
Nhờ kinh nghiệm dẹp giặc Phan Bá Vành này Nguyễn Công Trứ nhận
ra cái nguyên nhân của giặc là cái nghèo đói của dân. Muốn
chống đói phải cho dân chúng có cơ hội làm ruộng để tự sản
xuất lấy lúa gạo mà ăn. Nhưng ruộng đất ở đâu mà cấp phát cho
dân? Chỉ có tiền bạc, nhân lực của Triều đình mới có thể khai
khẩn đất hoang mà cấp phát. Ông dâng sớ:
-
- Ðời xưa chia ruộng, lương của để dân có nghề, cho nên dân
yên phận làm ăn nơi thôn ấp, không sinh lòng gian vậy. Hiện
nay những dân đói nghèo, rong ăn, rong chơi, lúc cùng lại rủ
nhau trộm cướp, tệ ấy khó ngăn hết được. Trước kia Thần đã đi
qua tỉnh Nam Ðịnh, thấy về phần đất huyện Yên Ðịnh, đất đai
hoang phế kể tới hàng ngàn mẫu. Dân muốn khai hoang mà không
đủ sức. Nay nếu được cấp phát của công cho thì có thể chiêu
tập dân nghèo mà khẩn trị được. Làm như thế Triều đình không
tốn bao nhiêu mà cái lợi lâu dài mãi mãi....
-
Công trình đã thành công, Ông muốn để lại kỷ niệm cho vùng đất
này và đặt tên là huyện Tiền Hải(bể bạc), để ghi nhớ vùng biển
ngày xưa, vùng này rộng đến 18970 mẫu ruộng. Vùng Kim Sơn (núi
vàng) cũng khẩn được 14600 mẫu.
-
Sự thành công quá lớn lao của Nguyễn Công Trứ đã khiến cho một
số quan trong Triều ganh ghét. Một văn quan tên Hoàng Quýnh
dâng sớ lên vua:
-
- Nguyễn Công Trứ đã lợi dụng địa vị mà đề bạt chức Tri huyện
cho một viên đội trưởng thân tín tên là Phi Quí Tại. Phi Quí
Tại không đỗ khoa gì, nếu cho làm huyện thừa thì các nhà khoa
mục phải xấu hổ!
-
Thế là vua Minh Mạng giáng Nguyễn Công Trứ 4 cấp,
từ hàng Nhị phẩm(hình bộ tham tri) xuống Lục phẩm(lương hàng
năm 25 quan tiền, 22 phương gạo và xuân phục 7 quan) và điều
về Kinh với chức Tri huyện. Dân chúng huyện Kim Sơn, Tiền Hải
thương kính Nguyễn Công Trứ như cha ruột. Ngày tiễn Ông về
kinh, họ đứng hai bên đường, người mang con gà, kẻ thúng gạo.
Có người không có gì, họ ôm lấy ông mà khóc. Vì Ông mà họ được
no đủ!
-
Làm Tri huyện ở kinh không lâu, tới năm 1832, lúc đó Ông 54
tuổi, lại được thăng làm Lang Trung (dưới chức Thị Lang) rồi
lại được cử làm Bố Chánh, coi việc dinh điền, lính tráng....ở
Hải Dương rồi ít tháng sau lại được thăng Binh Bộ Hữu Tham
Tri, kiêm thư Tổng Ðốc Hải An(gồm tỉnh Hải Dương và Ðông
Triều) rồi chính thức Tổng Ðốc Hải An. Ở đây, Nguyễn Công Trứ
làm bản đấu về kinh:
-
- Tại Hải Dương, ruộng hoang kể hàng nghìn mẫu, xem địa thế
thì khai khẩn cũng dễ, xin sai mộ lính ở các vệ chia ban mà
khẩn thị, khi thành điền thì cấp cho làm ruộng thế nghiệp,
theo lệ ruộng tư trưng thuế, còn ngưu canh điền khí thì theo
lệ dinh điền năm trước, lấy của công mà cấp phát..... Ðược
Triều đình ưng thuận.
-
Nguyễn Công Trứ bắt tay vào việc ngay. Ông huy động lính
thú(lính biên phòng) ở Quảng Yên, lính cơ(lính gác dinh thự) ở
Hải Dương, và lính lệ (lính hầu ở các dinh quan). Nhờ một số
quân đông đảo như vậy mà một loạt làng mới xuất hiện, một số
đồn điền được hình thành. Ðất đai canh tác được mở rộng. Ở Hải
Dương là làng Minh Liễn; ở Quảng Yên, làng Lưu Khê, Vị Dương,
An Phong...v..v...
-
Vua xuống chiếu khen thưởng rồi lại sai đi Tuyên Quang cùng
với Tổng đốc Lê Văn Ðức đi dẹp loạn Nồng Văn Vân.
-
Nồng Văn Vân, người Thượng du, tỉnh Cao Bằng có họ hàng rất
nhiều và tập hợp được khá đông dân miền núi. Tỉnh Cao Bằng bị
thất thủ đầu tiên rồi Tuyên Quang. Thái Nguyên, Lạng Sơn bị
huy hiếp nặng. Quan sở tại chống không nổi phải xin viện binh.
Vua Minh Mạng được tin này bèn sai Sơn Hưng Tuyên Tổng Ðốc Lê
Văn Ðức là Tam Tuyên Tổng Ðốc quân vụ, Hải An Thự Tổng Ðốc
Nguyễn Công Trứ làm Tham Tá đem quân đi tiễu trừ giặc. Ông chỉ
là chức Tham Tá(phụ giúp) nên mọi kế hoạch điều quân đều do
Tổng Ðốc Lê văn Ðức quyết định. Ngay trận đầu, quân Triều đình
thua to vì Nồng văn Vân là một người cầm quân giỏi, lại có địa
lợi là núi rừng quen thuộc. Hễ quân Triều đình đánh mạnh thì
giặc ẩn núp, hễ quân Triều đình sơ suất thì đột kích mãnh
liệt. Nguyễn Công Trứ tâu thật sự bất lợi này về Triều đình
nên Ta Quang Tư, Tổng Ðốc Nghệ An, Hà Tĩnh mang đại quân lên
tăng viện. Việc quân bây giờ đều do Nguyễn Công Trứ sắp đặt.
Ông biết rằng đánh với Vân phải dùng mưu. Nguyễn Công Trứ tâu
về kinh:
-
- Thần lần đầu mới đến đất này, chưa am tường chỗ bằng chỗ
hiểm, không giám vội hành động....
-
Thay vì tấn công giặc Nguyễn Công Trứ cho quân lính nghỉ ngơi,
lại tổ chức hát xướng để dân địa phương vui chơi. Quan Tuần
phủ Trần Văn Sơn mật tấu về kinh:
-
- Nguyễn Công Trứ lo ăn lo chơi, say sưa đàn hát, không chịu
giao chiến, thậm chí không chịu giúp đỡ các đạo quân bạn diệt
giặc.
-
Nhưng vua Minh Mạng tin ở tài điều binh khiển tướng của Nguyễn
Công Trứ nên đã châu phê vào sớ của Tuần phủ Trần văn Sơn:
-
- Nguyễn Công Trứ tự thử sở hành, tất hữu biệt toán. Quân lữ
chi gian, bất khả dỉ phù ngôn giao động tướng tâm, thích y xử
trí.
-
Nghĩa Là:
-
- Nguyễn Công Trứ làm như vậy chắc là có tính toán riêng.
Trong quân không được bàn phiếm làm cho lòng tướng băn khoăn.
Cứ để yên như vậy xem.
-
Ðúng như vua dự đoán. Việc quân triều đình án binh bất động,
làm cho Nồng văn Vân kiêu căng, vì Vân cho rằng sự thua trận
làm cho binh Triều Ðình sợ hải. Chính vì sự kiêu căng của Vân
và việc tổ chức hát xướng hàng đêm mới có thì giờ gài từng đội
quân nhỏ của Triều Ðình vào dân bản xứ để dò la rồi ém quân
chờ lệnh. Nhờ vậy mà những chỗ đóng quân, những nơi phòng thủ
của Nồng Văn Vân như núi Pu Ðôn, rừng Thẩm Bát, Bế Linh, Vân
Trung... không còn bí mật nữa. Sau gần một năm điều nghiên
chiến trận, tháng Chạp năm Quí Tị (1833) đạo quân của Tạ Quang
Tự giải vây tỉnh Lạng Sơn và lấy lại được thành Cao Bằng, đồng
thời quân của Nguyễn Công Trứ và Lê văn Ðức tiến vào sào huyệt
Vân Trung của giặc, nhưng Vân đã chạy thoát tới rừng Thẩm Bát.
Nguyễn Công Trứ không cho quân sĩ tiến sâu vì biết địa thế
hiểm trở, đường đi chập chùng nhiều ngã. Ông sai bao vây bốn
mặt, đến mùa Hạ, rừng lá khô rồi phóng hỏa. Trận hỏa công mùa
Hạ năm Ất Mùi 1835 đã đốt chết Nồng văn Vân và đồng đảng ở
rừng Thẩm Bát.
-
Ðánh thắng Nồng Văn Vân, Nguyễn Công Trứ mới thực sự được vua
Minh Mạng công nhận là con người văn võ toàn tài. Nhà vua
thăng Ông chức Binh Bộ Thượng Thư mà vẫn kiêm nhiệm Tổng Ðốc
Hải An để dẹp giặc ở Tràng Sơn. Là một trong tứ trụ triều
đình, thỉnh thoảng được hầu rượu nhà vua ngay giữa điện Càn
Thành. Cả giòng họ và bạn bè chưa có ai được như Ông! Nhưng
niềm vui không bao lâu Nguyễn Công Trứ lại bị giáng 4 cấp vì
để xổng một trọng tù và thuyên chuyển về kinh lúc này Ông đã
60 tuổi. Cái chức Thượng Thư mà Nguyễn Công Trứ được giữ không
đầy ba năm liền đi xuống làm Binh Bộ Tham Tri. Mặc dầu bị
giáng, nhưng con người đa tài Nguyễn Công Trứ vẫn được dùng
triệt để. Chỉ trong vòng một năm ông phải làm việc ở Bộ Binh
rồi chạy sang Ðô Sát Viện, Tả Ðô Ngự Sử, rồi lại ra Hà nội làm
Chủ Khảo kỳ thi Hương. Tuy công việc đa đoan, nhưng Ông đã
hoàn tất mỹ mãn. Năm Minh Mạng thứ 21(1840) nhà vua lại cần
đến Ông:
-
- Khanh là Nho Tướng. Việc quân vốn đã quen. Cần phải xem xét
cơ hội nên làm, để sớm lập công lớn, cho xứng với trách nhiệm.
Ta ủy cho. Thế là Uy Viễn Tướng Quân được đưa sang Trấn Tây(
Căm Bốt bây giờ) để bình định:
-
- Lúc Bình Tây cờ Ðại Tướng
-
Có khi về Phủ Doãn Thừa Thiên...
-
Trương Minh Giảng, Nguyễn Công Trứ đổi Chân Lạp(Căm Bốt) ra
làm Trấn Tây Thành thuộc Việt Nam, chia ra làm 32 phủ và 2
huyện. Ðặt một Tướng Quân, một Tham Tán Ðại Thần, một Ðề Ðốc,
một Hiệp Tán và bốn Chánh Phó Lãnh Binh để coi việc dân. Phải
công nhận, dưới triều vua Minh Mạng, nước ta có một lãnh thổ
rộng nhất trong lịch sử(kể từ Tự Chủ Thời Ðại Ngô Quyền, Tiền
Ngô Vương tới ngày nay). Những năm đầu, đất Trấn Tây yên ổn,
dân địa phương chăm chỉ làm ăn, Triều đình bội thu thuế khóa,
từ miền đất mới này. Nhưng đến đời Thiệu Trị, dân Chân Lạp bắt
đầu nổi loạn, phần vì được quân Xiêm giúp đỡ và xúi giục, phần
vì quan lại Việt Nam tham nhũng, làm nhiều điều trái lẽ, như
bắt Ngọc Vân Công Chúa (Angmey) đang làm vua Chân Lạp về Gia
Ðịnh(và nhất là người Pháp can thiệp, muốn Triều đình trả lại
đất này cho Chân Lạp). Trương Minh Giảng và Nguyễn Công Trứ
chống không nổi, phải rút về An Giang. Nguyễn Công Trứ bị
giáng xuống Binh Bộ Lang Trung, ít lâu sau lại được thăng Tuần
Phủ An Giang vì có công giết được tướng giặc là Phiên Tăng,
rồi được đề bạt Binh Bộ Tham Tri. Nhưng tới năm Thiệu Trị thứ
tư 1844, Ông bị Nguyễn Công Nhàn vu cáo: chở thuyền gian, buôn
hàng lậu. Nguyễn Công Trứ bị cách hết chức tước, phát làm lính
biên phòng ở Quảng Ngãi.
-
Trên đường sung quân đi Quảng Ngãi, không có ngựa xe, Ông mặc
cái áo cộc màu chàm, chiếc nón dấu, ruột tượng quàng trên vai
và chiếc dao kè kè bên hông. Ði đến đâu Ông tìm vào nhà một số
quan lại xin ghé ngủ nhờ. Nhiều vị quan phủ, quan huyện nhìn
ra Ông thì đích thân tiếp rước như thời Ông còn làm Thượng
Thư, Tổng đốc. Nhưng có một số quan chức giả bộ không biết
người lính già lang thang kia là ai, Ông chỉ mỉm cười chớ
không buồn bực.
-
Tới nơi, Ông thản nhiên vào trình diện quan Tổng Ðốc Quảng
Ngãi. Quan Ðầu tỉnh tiếp đãi Ông tử tế vì trước kia đã có lần
chịu ơn Ông. Lúc ấy Nguyễn Công Trứ vừa 65 tuổi. Cái lối sống,
lúc làm Ðại tướng không lấy làm vinh, khi làm lính không lấy
làm nhục càng khiến Quan Ðầu tỉnh kính phục. Ông tâu vua, xin
cho Nguyễn Công Trứ được miễn mặc quần áo lính và sai phái như
một binh sĩ. Vua cho xét lại vụ án buôn lậu ở An Giang. Quan
Án Sát Trần Ngọc Ðao được lệnh điều tra đầy đủ chi tiết, khi
trở về kinh, Trần Ngọc Ðao tâu trình lại với vua:
-
- Nguyễn Công Nhàn là thủ phạm tội vu cáo.
-
Nhàn bị trị tội nặng và Nguyễn Công Trứ lại được bổ nhiệm chức
Chủ Sự ở Bộ Hình rồi lại Án Sát Quảng Ngãi, kế đến Thự Phủ
Thừa Thiên. Cuối đời vua Thiệu Trị(1847)Ông được thăng Thự Phủ
Doãn (chức quan đứng đầu ở ngay trong kinh). Sau khi Vua Thiệu
Trị mất, Vua Tự Ðức kế vị. Nguyễn Công Trứ xin về nghỉ. Năm ấy
ông đúng 70 tuổi. Nhà Vua chấp thuận và ban cho một ân huệ:
được thực thụ Hàm Thừa Thiên Phủ Doãn nghĩa là quan hưu xếp
vào hàng Tam Phẩm lương hàng năm 150 quan, 120 phương gạo và
20 quan tiền xuân phục.
-
Thế là, sau gần ba mươi năm tham chánh, năm lần thăng giáng.
Ông đã trả xong:
-
- Nợ tang bồng trăng trắng vỗ tay reo.
-
Nhưng sự nghiệp sáng chói của Nguyễn Công Trứ không phải chỉ ở
hoạn lộ mà còn trên văn học. Ông đã để lại cho chúng ta hơn
trăm bài đủ các loại: Tứ tuyệt, Thất ngôn bát cú, Lục bát,
Phú, Câu đối, Tuồng và nhất là Hát nói v...v..ông rất sở
trường về loại này, vì qui luật của Hát nói không chặt chẻ lắm
và phù hợp với tính tình phóng khoáng của ông.
-
Ông viết từ lúc còn trẻ, thời hàn bi, trên bước thăng trầm của
công danh và ở cuối cuộc đời Ông đã để lại những vần thơ có tư
tưởng Phật Giáo thật thâm sâu. Mấy ai hiểu được kinh Kim Cang
như Ông:
-
- Thiên thượng, thiên hạ vô như Phật
-
Nhỏ không trong, lớn cũng không ngoài.
-
Vì trên đời này không ai có Tri kiến như Phật. Chúng sanh chỉ
chấp vào hình tướng bên ngoài để thấy cái lớn, cái nhỏ. Với
Tri kiến của Phật thì dù vật lớn như Ðại Ðịa, vật nhỏ như đầu
sợi lông đều là giả tướng do duyên hợp mà có, đã là giả thì
không còn hơn, thua, lớn nhỏ nữa.
-
Thuật dụng chữ của Ông cũng chịu ảnh hưởng nặng nề trong kinh
sách Phật. Từ ngữ Tám Vạn Tư(bát vạn tứ thiên) được nhắc tới
nhiều lần trong thơ Ông:
-
- Hay tám vạn tư mặc kệ
-
Chẳng quân thần phụ tử đếch ra người
-
Tuy uyên thâm giáo lý, Nguyễn Công Trứ chỉ là một Phật tử tại
gia. Thỉnh thoảng cỡi bò vàng đi chùa với vài cô nàng hầu(một
đôi dì)theo sau:
-
- Ðạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
-
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
-
Tay kiếm cung mà nên dạng Từ bi
-
Gót tiên đủng đỉnh một đôi dì
-
Bụt cũng cười ông ngất ngưởng.
-
Không xuất gia, nhưng hạnh nhẫn nhục của Ông thực đáng ca
ngợi. Năm lần thăng biếm mà không oán vua, không ghét kẻ đã vu
oan cho mình. Cao Bá Quát chỉ một lần bị giáng là phẩn trí,
theo Lê Duy Cự làm loạn, chống lại Triều đình. Hạnh tri túc
cũng đáng làm gương cho hậu thế. Ðáng lẽ sống sung mãn như
những vị Thượng Thư, Tổng Ðốc khác, Ông bảo:
-
- Tri túc, tiện túc, đãi túc, hà thời túc
-
Nghĩa Là:
-
- Biết đủ là đủ đợi đủ chẳng bao giờ tới
-
Có lẽ Ông được sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống
Phật giáo, nên thơ của Ông bàng bạc có dấu vết của Tam Ấn nhà
Phật là Khổ, Vô Thường, Vô Ngã. Trước cảnh Vô Thường của kiếp
người Ông viết:
-
- Ôi nhân sinh là thế ấy
-
Như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm
bao ...
-
(Vịnh Nhân sinh quan)
-
Ông cũng phủ nhận luôn cái Ngã của mình. Sở dĩ có
chút công danh là do bởi trời che, đất chở và giang san hun
đúc:
-
- Thiên phú ngô, địa tải ngô
-
Thiên địa sinh ngô nguyên hữu ý
-
Dã thị giang san chung tú khí
-
Quả nhiên đài các xuất danh công
-
Dấu ấn thứ ba là Khổ được Ông nói tới rất nhiều lúc chưa có
công danh, sự nghiệp thì Khổ vì nghèo hổ thẹn vì nợ nần nhiều
quá:
-
- Quân tử lúc cùng thêm thẹn mặt.
-
Nhưng có công danh rồi vẫn bị chèn ép. Mấy ai hiểu mặt trái
của danh vọng, mặt trái của nụ cười là Khổ Ðau và nước mắt:
-
- Trên đường danh lợi, vinh liền nhục
-
Trong cuộc trần ai khóc lộn cười.
-
Cuối cuộc đời, ngồi nghĩ lại, Ông thấy, gần ba mươi năm làm
quan đâu có được hưởng thụ bao nhiêu!
-
- Ba mươi năm hưởng thụ biết chừng nào?
-
Vừa tỉnh giấc nồi kê chưa chín.
-
Mà chỉ gặp những chuyện điên ruột, ứa gan:
-
- Nghe như chọc ruột, tai làm điếc
-
Giận dẫu căm gan, miệng mỉm cười.
-
Nguyễn Công Trứ, một con người uyên thâm Ðạo Phật, biết đời là
bể khổ, một con người sinh trong danh gia vọng tộc: thân phụ
và nhạc phụ đều làm quan và biết rằng: Trên con đường danh
lợi, vinh ít nhục nhiều, nhưng tại sao Ông lại hăm hở ra tài
kinh tế hoặc quyết ra tay buồm lái với cuồng phong?
-
Vâng, Ðạo Phật không phải là Ðạo Yếm Thế, Vua Trần Nhân Tôn,
Nguyễn Trải, Nguyễn Công Trứ... đều là những Phật Tử Nhập Thế.
Trước hiểm họa bị diệt vong của dân tộc. Vua Trần Nhân
Tôn(1279-1293) đã hai lần chỉ huy đánh tan quân xâm lăng Mông
Cổ, một đạo quân hùng mạnh nhất và khát máu nhất thời bấy giờ.
Giặc tan, Ngài đi tu và trở thành Ðệ Nhất Tổ Trúc Lâm
-
Nguyễn Trãi (1380-1442), đỗ Tiến sĩ( Thái học sinh) năm 21
tuổi. Khi quân Minh cai trị, dân Việt vô cùng khổ sở và có
nguy cơ bị đồng hóa. Ông vào Lam Sơn, giúp vua Lê Lợi. Với tài
kiêm văn võ, sau mười năm đánh giặc cứu nước. Quân Minh đại
bại phải chạy về Tàu. Lúc đó Ông làm tới Tể Tứớng, nhưng không
ở địa vị mà xin về trí sĩ ở Côn Sơn huyện Chí Linh, tỉnh Hải
Dương để dạy học, viết sách và làm thơ. Bài Côn Sơn Ca, gói
ghém tư tưởng ở giai đoạn cuối đời của Ông:
-
- Sống chay tịnh, sống tri túc, không ham muôn chung nghìn
quí, vì biết đời là bể dâu là Vô Thường:
-
- Sao không về, phắt đi nào
-
Ðời người vất vưởng xiết bao cái lầm
-
Cơm rau nước lã yên thân
-
Muôn chung nghìn quí có cần quyền chi
-
.....
-
- Trăm năm trong cuộc bể dâu
-
Người cùng cây cỏ khác nhau chút nào
-
Khóc cười mừng rỡ xôn xao
-
Ðang tươi bỗng héo biết bao nhiêu lần...
-
Ðồ Nam Tứ Nguyễn Trọng
Thuật dịch nôm
-
Vua Trần Nhân Tôn, Tể tướng Nguyễn Tẵi là tấm gương lớn cho
Nguyễn Công Trứ, vì vậy Ông phải Tham Chính, để thực hành Thái
Bình Thập Sách của Ông. Hơn ai hết, Ông biết cái khổ là loạn
lạc, vì Ông sinh ra trong thời kỳ nhiễu nhương nhất trong lịch
sử Việt Nam. Vua Quang Trung vào Nam diệt chúa Nguyễn, ra Bắc
diệt chúa Trịnh rồi đại phá quân Xiêm, quân Thanh. Vua Gia
Long tuy đã thống nhất đất nước(1802) nhưng dân còn quá nghèo,
nước còn chưa yên. Lòng dân chưa phục nhà Nguyễn, mầm nội loạn
chỉ chờ cơ hội là bùng nổ. Ông lăn xả vào hoạn lộ để chỉ hy
vọng thực hành ý nguyện Dân No Nước Mạnh. Vì vậy Ông: hăm hở
ra tài kinh tế. Làm cho dân no, Ông đã giúp dân khai phá được
hơn ba chục ngàn mẫu ruộng ở Kim Sơn, Tiền Hải, Hải Dương; và
muốn nước mạnh thì chủ quyền quốc gia phải thâu về một mối.
Ông không thể để Phan Bá Vành làm vua ở làng Minh Giám, không
cho phép Nông Văn Vân lập một nước tự trị ở Cao Bằng rồi hàng
chục trận giặc nhỏ đều bị dẹp tan.
-
Nước đã mạnh, dân đã no Ông xin về hưu( năm Tự Ðức Nguyên niên
1848). Về quê Ông sống như một Phật tử tại gia không tên tuổi.
Thơ Ông còn ghi lại:
-
- Tri ngã giả, bất tri ngã giả,
-
Người có biết ta hay thì chớ
-
Chẳng biết ta, ta vẫn là ta ...
-
Nhưng là một Phật tử có tâm thảnh thơi tự tại. Ðời không bị
trói buộc là đời thần tiên và tâm ta mà ăn lạc thì cõi trời
cũng thanh tịnh
-
- Ngang tàng lạc ngã tịnh thiên...
-
Như vậy bảo Nguyễn Công Trứ là môt Nho Tướng chưa đủ, mà phải
nói thêm: NGUYỄN CÔNG TRỨ là một Chính Trị Gia Lỗi Lạc một Nhà
Kinh Tế Tài Ba và một Phật Tử quyền biến Nhập Thế.
-
-
Sách tham khảo:
-
- Nguyễn Công Trứ: Vũ Gia
-
- Việt Nam sử lược: Trần Trọng Kim
-
- Việt Nam Văn Học Sử Yếu: Dương Quảng Hàm
-
- Danh Nhân Tự Ðiển: Nguyễn Vân Thanh.
|