-
CHÙA HÀN SAN TÔ CHÂU,
-
NHỮNG GIAI THOẠI
-
VĂN CHƯƠNG & LỊCH SỬ
-
Nguyễn Mộng Khôi
-
--o0o--
-
-
Trong chuyến du lịch Trung Quốc, mùa hè năm ngoái, tôi có dịp
thăm chùa Hàn San. Chùa ở một vị trí đặc biệt, phía trước là
sông đào Ðại Vận Hà, bờ sông trồng toàn dương liễu, phía sau
là một lạch nhỏ, nước trong xanh. Chùa thuộc thành phố Tô
Châu, tỉnh Giang Tô. Ðông giáp Thượng Hải, Tây giáp Thái Hồ,
phía Nam là Hàng Châu và sông Trường Giang ở phía Bắc. Chùa có
một lịch sử lâu dài và thăng trầm... Nó được xây vào thời
Thiên Giám nhà Lương(502-519) có tên là Diệu Lợi Phổ Minh Tháp
Viện. Hơn 200 năm sau, ngài Hàn San tu ở đây nên đổi là Hàn
San tự. Tới đời Tống, niên hiệu Thái Bình Hưng Quốc, Tiết đô
sứ Tôn Thừa Hữu xây thêm một cái tháp 7 từng. Ðến cuối đời
Nguyên, chùa và tháp đều đổ nát. Vào niên hiệu Hồng Vũ đời
Minh, chùa được xây lại. Sau nầy, mấy vua đầu nhà Thanh không
chú ý tới đạo Phật. Chùa Hàn San không được bảo trì, nên hư
hoại nhiều. Mãi tới năm Quang Tự 32, quan Tuần Vũ Trần Loan
Long cho sửa sang lại và năm Tuyên Thống thứ hai, quan đầu
tỉnh Trịnh Ðức Toàn tu bổ thêm. Nhưng thời Mao Trạch Ðông,
những toán Vệ Binh Ðỏ(1972-1975) đến phá chùa, bắt Tăng đồ
hoàn tục. Sau năm 1980 thời Ðặng Tiểu Bình, Chùa Hàn San mới
trùng tu đẹp đẽ như bây giờ.
-
Chúng tôi vào chùa bằng một cổng nhỏ(không có Tam quan như
những cổ tự xưa ở Việt Nam) Hai dãy nhà dài, nằm xoay lưng ra
cổng. Ba chữ Hàn San Tự lớn khắc sâu vào tường sau của dãy nhà
bên trái, nên du khách thấy ngay tên chùa khi mới bước qua
cổng. Giữa hai dãy nhà có một lối đi dẫn vào điện thờ Phật Di
Lặc, rồi qua một khu vườn nhỏ tới chánh điện. Ở giữa thờ Phật
Thích Ca và hai ngài Ca Diếp, A Nan. Hai bên có Thập Bát La
Hán(đúc vào niên hiệu Thành Hóa đời Minh). Trên bức tường phía
sau treo một thạch bản có bốn chữ Hàn San Thập Ðắc của danh
họa đời Thanh La Sính Sở. Phía bên phải treo một chuông đồng
do người Nhật đúc đời Minh Trị. Hàn San Tự cũng như hầu hết
các chùa Trung Quốc có thờ Tứ Ðại Thiên Vương, đứng ở hai bên
cửa, trước khi bước vào chánh điện. Người mê tín tin tưởng vào
bốn vị Thần sẽ mang lại Mưa Thuận Gió Hoà(Phong Ðiều Vũ Thuận)
cho họ. Ðó cũng là những ước mong, những lời cầu xin Trời Phật
của người dân ở những nước lấy nông nghiệp làm căn bản.
-
Bên
ngoài chánh điện, phía tay mặt là Lầu Chuông(Chung lâu).
Chuông treo ở một lầu cao, xây gạch, có bốn mái cong. Trước
lầu có một phiến đá lớn khắc ba chữ Thính Chung Thạch(Ðá Nghe
Chuông). Người hướng dẫn viên du lịch(Tour guide)nhắc lại lịch
sử của cái chuông. Ông bảo, xưa kia tiếng chuông chùa vang xa
hàng chục dậm, vì chuông được đúc bằng một hợp chất của kim
loại như vàng, đồng, thiếc v.. v.. theo một tỷ lệ bí mật, bởi
vậy, tiếng ngân như có một huyền lực và nhờ tiếng chuông mầu
nhiệm mà chúng ta mới có giai thoại văn chương kỳ thú giữa Thi
sĩ Trương Kế cùng thầy trò Sư Cụ Hàn San.
-
Chuông nầy đã hư và được cất giữ ở điện Ðại Hùng(Ðại Hùng
Ðiện), coi như một cổ vật vô giá của quốc gia. Chuông bây giờ
là từ đời Vua Càn Long.
-
Thăm
chùa Hàn San, chúng tôi còn có dịp viếng Tàng Kinh Lâu(Lầu
chứa kinh). Trên lầu để một Ðại Tạng Kinh, chữ khắc in đời
Thanh. Dưới lầu, trên hai vách đều có khắc đá toàn bộ Kinh Kim
Cương do chữ viết nổi danh của Trương Xư Liêu đời Tống, nét
bút rắn rỏi, độc đáo, thật là một di tích qúy giá, rồi Bi
Lang(hành lang để bia) với những tấm bia khắc thi văn của các
văn nhân nổi tiếng, trong đó có bài thơ bất hủ Phong Kiều Dạ
Bạc của Trương Kế do thư pháp của học giả Khang Hữu Vi. Cách
Hàn San tự không xa là Cô Tô Thành, bây giờ không còn nữa, mà
chỉ là vang bóng trong lịch sử. Thuở đó Cô Tô là thủ phủ của
Tô Châu, và là kinh đô của vua Hạp Lư đời Xuân Thu Chiến Quốc.
Sau nầy nhà Tần gọi Tô Châu là Ngô huyện, thời Ðông Hán gọi là
Ngô Quận. Mãi đến 1276 mới có tên Tô Châu. Nhiều du khách Tây
Phương bảo đây là Venise của Trung Quốc vì thành phố được xây
trên những sông ngòi chằng chịt. Xưa kia có 1000 chiếc cầu,
ngày nay còn giữ 168 cái. Phía Tây Nam chùa Hàn San có núi
Linh Nham. Núi cao chừng một ngàn bộ, có Linh Nham Sơn Tự. Chỗ
này xưa là cung đình của vua Ngô Phù Sai. Lên núi Linh Nham,
chúng tôi được nghe người hướng dẫn kể lại mối tình của Tây
Thi, Phạm Lãi. Quan Ðại Phu nước Việt là Phạm Lãi, nhân một
hôm đi vãn cảnh, gặp Tây Thi, trai tài gái sắc tương ngộ, rồi
họ yêu nhau và muốn sống bên nhau đến đầu bạc răng long. Tình
yêu đang mặn nồng thì bổng vua Ngô Phù Sai khởi quân đánh nước
Việt để báo thù cho ông nội là Hạp Lư. Nước Việt bại trận. Vua
Việt là Câu Tiễn phải đầu hàng và bị đưa sang Ngô làm tù binh
cùng với quan đại phu Phạm Lãi. Tây Thi vô cùng thương nhớ.
Trong ba năm trời vua tôi nước Việt bị hầu hạ vua Ngô cực khổ,
từ những việc hèn mọn như chăn ngựa, cắt cỏ, cho tới những
việc nhơ bẩn như hốt phân, đổ thùng, cuối cùng Phù Sai trả tự
do cho vợ chồng Câu Tiễn và Phạm Lãi. Về nước tuy được sống
yên thân nhưng Câu Tiễn vẫn không quên cái nhục mất nước, cái
hèn mọn của kẻ tôi đòi. Ông chiêu binh mãi mã, tích thảo, tồn
lương, ròng rã mười năm vất vả, nằm gai nếm mật. Mặt khác ông
dùng kế mỹ nhân do Phạm Lãi chủ trương để dọ thám và làm suy
yếu nước Ngô. Người đàn bà như thế phải có sắc đẹp và phải
thông minh! Tây Thi được giao cho công tác này. Tuy vẫn yêu
thương Phạm Lãi như xưa nhưng nàng biết Phạm Lãi tin tưởng
nàng, nên đã vì quốc gia đại sự mà giao phó. Tạm chia tay với
người yêu, sang nước Ngô làm nhiệm vụ. Phù Sai thấy Tây Thi là
một trang tuyệt thế giai nhân, lại tinh thông âm nhạc và biết
ca múa nên vô cùng yêu qúi. Nhưng lúc nào nhà Vua cũng thấy
mặt nàng buồn vời vợi, nên xây Ngoạn Nguyệt Trì( hồ ngắm
trăng), Ngoạn Hoa Trì(Hồ ngắm hoa) để nàng vui, lại sai cất
Cầm đài để nàng đánh đàn, Sơ Trang Ðài là chỗ trang điểm và
giếng Nguyệt Tĩnh để tắm. Những di tích lịch sử này hãy còn
dấu vết trên núi Linh Nham. Ở Ngô tuy có cảnh đẹp, có kẻ hầu
người hạ, đời sống vật chất dư thừa mà Tây Thi không thấy vui
mà càng nhớ nhà, nhớ nước. Tuy vậy nàng vẫn âm thầm gửi tin
tức nước Ngô về cho Việt Vương Câu Tiễn và Phạm Lãi, từ những
sinh hoạt hàng ngày của nhà vua cho đến tình hình quân cơ,
quốc sự. Nhờ thế mà khi khởi binh, quân Việt đã đánh thắng
quân Ngô một cách dễ dàng và mau chóng, khi đại quân nước Việt
vào được Cô Tô thành. Vua Phù Sai bị giết Phạm Lãi gặp lại Tây
Thi. Họ không ở lại để hưởng giàu sang phú qúi mà lặng lẽ cùng
nhau lên một chiếc thuyền nan đi chu du miền Ngũ Hồ...
-
Phía
Nam chùa Hàn San có những vườn hoa nổi tiếng như Thương Lăng
Ðình, Chuyết Chính Viên và Lưu Viên. Ðặc biệt khu phía Tây của
Lưu Viên là ngọn Giả Sơn, trên núi nhân tạo này có một rừng
phong, mỗi độ thu về màu vàng choán cả một góc vườn, rất nên
thơ như trong truyện Kiều, Nguyễn Du từng tả:
-
-
Rừng phong thu đã nhuộm màu quan san.
-
Chùa
Hàn San được nổi tiếng nhờ vị trí ở gần những danh lam thắng
cảnh, nhưng chùa thật sự được nhiều người trong nước và ngoại
quốc biết tới là từ khi sư cụ Hàn San trụ trì; rồi một giai
thoại văn chương tuyệt vời giữa sư cụ và thi hào Trương Kế.
Người ta không rõ nhà sư sinh và mất năm nào, chỉ biết ngài là
vị chân tu, học rộng cùng tu với sư huynh Thập Ðắc và một chú
tiểu thông minh, hay chữ. Tuy không rõ tuổi tác, nhưng Sư Cụ
Hàn San sống cùng thời với Trương Kế mà Trương Kế làm quan vào
niên hiệu Ðại Lịch, Ðường Ðại Tôn(khoảng năm 756). Ông đỗ Tiến
Sĩ rồi được phong chức Kiêm Hiệu Viên Ngoại Lang. Tuy chức
trọng quyền cao, nhưng tính tình phóng khoáng. Ông thường ngao
du sơn thủy để làm thơ và ngâm vịnh. Truyện kể, vào một đêm
trăng đầu tháng. Sư cụ trằn trọc mãi không ngủ được, bèn đánh
thức chú tiểu rồi hai thày trò đi dạo quanh chùa Hàn San. Xúc
cảnh trăng non trên trời, in bóng lung linh dưới hồ nước xanh.
Nhà Sư ngâm khẽ:
-
- Sơ
tam sơ tứ nguyệt mung lung
-
Bán
tự ngân câu bán tự cung.
-
Tản
Ðà dịch :
-
-
Mồng ba mồng bốn trăng mờ
-
Nửa
như móc bạc, nửa ngờ vành cung.
-
Nhưng sư cụ chỉ làm được hai câu rồi hết tứ luôn. Chú tiểu
theo sau, thấy thầy mình lúng túng mãi không nghĩ tiếp được
thêm hai câu nữa cho đủ một bài thơ Thất Ngôn Tứ Tuyệt. Chú
thấy thơ của Thầy hay quá mà ngưng ở đây thật đáng tiếc. Bỗng
như một tia chớp lóe trong đầu, chú Tiểu xuất thần ngâm to:
-
-
Nhất phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn
-
Bán
trầm thủy để bán phù không.
-
Tản
Ðà dịch:
-
- Hồ
xanh ai xẻ đôi vùng
-
Nửa
chìm đáy nước nửa lồng chân mây.
-
Sư
cụ nhẩm lại bài thơ Thất Ngôn Tứ Tuyệt
-
- Sơ
tam sơ tứ, nguyệt mung lung
-
Bán
tự ngân câu bán tự cung
-
Nhất
phiến ngọc hồ phân lưỡng đoạn
-
Bán
trầm thủy để bán phù không.
-
Và
khen hay và bảo chú Tiểu lên lầu chuông gióng ba tiếng để tạ
ơn Chư Phật.
-
Cũng
tối hôm đó, Thi Sĩ Trương Kế đậu thuyền ở bến Phong Kiều, nhìn
sương đêm trắng xóa khắp nơi, mặt trăng mờ ảo đang từ từ lặn.
Có ánh lửa thuyền chài xa xa... đối cảnh mà buột miệng làm
thơ:
-
-
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
-
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
-
Tản
Ðà dịch:
-
-
Trăng tà chiếc quạ kêu sương
-
Lửa
chài cây bến sầu vương giấc hồ.
-
Ngâm
xong hai câu, Trương Kế cũng cụt hứng. Nghĩ mãi mà không thêm
được câu nào. Ông chập chờn vào giấc ngủ... Bỗng Ông giật mình
vì hồi chuông chùa Hàn San, ngoài thành Cô Tô. Nhờ tiếng
chuông của Chú Tiểu mà Trương Kế làm xong bài thơ:
-
- Cô
Tô thành ngoại Hàn San Tự
-
Dạ
bán chung thanh đáo khách thuyền
-
Tản
Ðà dịch:
-
-
Thuyền ai đậu bến Cô Tô
-
Nửa
đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San
-
Trương Kế ngâm khẽ bài thơ
vừa sáng tác:
-
-
Nguyệt lạc Ô Ðề sương mãn thiên
-
Giang phong ngư hỏa đối Sầu Miên
-
Cô Tô thành ngoại Hàn Sơn Tự
-
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
-
Rồi
đặt tên bài thơ là Phong Kiều Dạ Bạc(Ðêm Trăng Ðậu Thuyền Ở
Bến Phong Kiều)
-
Cho
đến ngày nay, nhiều học giả thích bài thơ này. Giáo Sư Trần
Trọng San dịch:
-
-
Quạ kêu trăng lẩn sương trời
-
Buồn hiu giấc ngủ lửa chài Bến Phong
-
Ðêm Cô Tô vẳng tiếng chuông
-
Chùa Hàn San đến thuyền sông Phong Kiều.
-
Một
thi sĩ Tây Phương, Ông Writter Bynner dịch sang tiếng Anh:
-
- A
night mooring near maple bridge
-
While I watch the moon go down, a crow caws through the frost
-
Under the shadows of maple tree a fisherman moves with his
torch
-
And
I hear, from beyond Su Chou, from the temple on Cold Mountain
-
Ringing for me, here in my boat, the midnight bell
-
Tuy
bài PKDB được nhiều người khen ngợi, nhưng một số không ít,
vẫn tìm thấy khuyết điểm của bài thơ. Chỉ cần đọc câu đầu và
câu cuối là có sự mâu thuẩn về thời gian rồi:
-
-
Nguyệt Lạc Ô Ðề là mặt trăng bắt đầu lặn và đàn quạ kêu là
cảnh gần sáng.
-
Dạ
bán chung thanh đáo khách thuyền là tiếng chuông chùa vọng đến
nửa đêm.
-
Có
nghĩa là Trương Kế bắt đầu làm thơ khi trời gần sáng mà lúc
làm xong là nửa đêm. Như vậy thì không hợp lý! Nhưng vì lời
hay ý đẹp nên vẫn có người bênh vực, họ bảo rằng:
-
- Sự
thực thì nguyệt lạc(trăng lặn) đã là cảnh lúc về sáng. Tác giả
đi nằm lúc đó, song cứ mơ màng, đến khi chợt tỉnh và bị cái ảo
tưởng của thời gian nên cho là mới nửa đêm. Thực ra thì trăng
lặn lúc trời về sáng rồi. Nhà học giả nổi danh đời Tống Âu
Dương Tu cũng đồng ý là:
-
-
Nhà thơ, vì mê câu văn hay, đã làm cho ý văn không được thông;
đó là ngữ bịnh vậy. Nhưng chúng ta cũng không nên bới lông tìm
vết làm gì.
-
Dù
Cho Âu Dương Tu không quan tâm đến ngữ bịnh của Trương Kế thì
một số học giả Nhật Bản vẫn thắc mắc về thời gian của hai bài
thơ. Sư Cụ Hàn San làm thơ khi trăng mồng ba, mồng bốn( Sơ
tam, sơ tứ) mới mọc. Khoảng nửa đêm, chú Tiểu gióng ba tiếng
chuông. Như vậy, nếu hiểu chữ Ô Ðề là Quạ Kêu( về sáng) thì
mất hết cái hay của cả hai bài thơ. Nhưng nếu không hay thì
tại sao nó tồn tại được cho tới ngày nay? Hơn hai mươi thế kỷ
mà vẫn được nhiều người nhắc tới. Chắc chắn nó phải có một giá
trị vượt thời gian? Vì vậy một đoàn khảo cổ và một số giáo sư
người Nhật đã tới Tô Châu để nghiên cứu. Họ tìm đọc những sách
vở trong thư viện. Họ duyệt lãm nhiều nơi. Phái đoàn đã làm
việc vất vả gần một năm, và cuối cùng họ giải nghi về thời
gian của hai bài thơ vì họ đã tìm được Ðịa Danh của một làng
đánh cá xưa có tên là Ô Ðề Thôn, và một ngọn núi cổ có tên Sầu
Miên Sơn. Thời gian của hơn ngàn năm đã thay đổi tên làng, tên
núi. Vì vậy chúng ta không còn thấy sự mâu thuẫn về thời gian
của bài PKDB nữa, vì Ô Ðề không là Tiếng Quạ kêu buổi sáng mà
là tên Làng Ô Ðề. Vì vậy, bài này là một bài thơ tuyệt tác,
một bức tranh sơn thủy tuyệt vời:
-
-
Một lữ khách ngồi trên thuyền, ngắm trăng. Trăng từ từ lặn ở
làng Ô Ðề. Có hàng cây phong bên sông. Có ánh lửa chài chập
chờn in hình vào sườn núi Sầu Miên. Sương lạnh giăng đầy trời.
Khách bỗng sực tỉnh khi tiếng chuông chùa Hàn San ngoài thành
Cô Tô vọng lại.
-
Trong chuyến du lịch này, chúng tôi có dịp thăm nhiều nơi. Từ
Vạn Lý Trường Thành hùng vĩ, vắt ngang 6 tỉnh Trung Quốc dài
bằng bán kính Ðịa Cầu. Từ Cấm Thành lớn rộng có 9000 phòng ốc.
Cung Ðiện Mùa Hạ tráng lệ mà Từ Hi Thái Hậu đã lấy hết Ngân
sách của Bộ Hải Quân để xây nhà nghỉ mát ở Bắc Kinh. Cố Ðô
Trường An của 11 triều vua có Tần Thủy Hoàng tàn ngược; Ðường
Minh Hoàng đa tình; Dương Qúi Phi yêu kiều; chùa Từ Ân cổ
kính, nơi Trần Huyền Trang ngồi dịch kinh Bát Nhã. Rồi Hàng
Châu thơ mộng, chỗ Tô Ðông Pha làm thơ trên Tây Hồ và sông
Tiền Ðường, chỗ Thúy Kiều trầm mình. Quảng Châu hào khí của 72
Liệt Sĩ, trong đó có Phạm Hồng Thái được chôn ở Hoàng Hoa
Cương mà ngay cổng vào nghĩa trang trên hai trụ có bốn chữ Hào
khí Trường Tồn; và Quảng Châu còn có mộ Triệu Văn Vương(cháu
Triệu Ðà, con của Trọng Thủy và một người vợ, trước khi lấy Mỵ
Châu con gái An Dương Vương) Vũ Hán có lầu Hoàng Hạc với bài
thơ bất hủ Hoàng Hạc Lâu v...v...
-
Còn
nhiều địa danh nổi tiếng khác. Nhưng riêng tôi, Tô Châu đã gợi
cho niềm hứng cảm để viết. Có thể vì Tô Châu có nhiều danh lam
thắng cảnh, có chuyện tình Tây Thi Phạm Lãi. Có huyền thoại
văn chương giữa Sư Cụ Hàn San và Trương kế... Vì vậy tôi đã
bắt đầu viết bài này khi ở trên phi cơ từ lúc rời Hoa Lục để
trở về Hoa Kỳ.
|