-
Sự Quán Tưởng Trong Đạo Phật
-
Nghiêm Thủy
-
--o0o--
-
Thế
Tôn lời dạy tinh tường
-
Năm
điều quán tưởng phải thường xét ra
-
- Ta
đây phải có sự già
-
Thế
nào tránh thoát lúc qua canh tàn.
-
- Ta
đây bệnh tật phải mang
-
Thế
nào tránh thoát được an mạnh lành.
-
- Ta
đây sự chết sẳn dành
-
Thế
nào tránh thoát tử sanh đến kỳ.
-
- Ta
đây phải chịu phân ly
-
Nhân
vật yêu quý ta đi miệt mài.
-
- Ta
đi với nghiệp của ta
-
Dù
cho tốt xấu tạo ra tự mình
-
Theo
ta như bóng với hình
-
Ta
tạo họa phước phân minh rõ ràng.
-
Sinh
lão bệnh tử là một định luật tự nhiên không ai tránh khỏi
được, và đây cũng là nguyên nhân chính tác động mãnh liệt đã
thúc đẩy Thái tử Sddhattha (Sĩ Ðạt Ta) từ bỏ cung vàng điện
ngọc, vật chất thế gian để đi tìm cuộc đời an nhiên tịch tịnh.
Mặc dù sau khi tu tập, Ngài đã chứng ngộ đạo quả, trở thành
bậc Chánh Ðẳng Chánh giác, nhưng vì vẫn còn mang xác thân ngũ
uẩn(kinh điển gọi là Ngài thọ hưởng Hữu dư Niết Bàn) nên Ngài
vẫn phải chịu sự chi phối của định luật vô thường Sinh Trụ
Họai Không này.
-
Do vậy trước khi từ giã cõi Ta Bà để nhập Niết Bàn
là nơi an vui tuyệt đối, Ðức Phật cũng phải thọ bệnh như tất
cả mọi người. Nhưng với Ðức Phật, trước giờ phút mà những
người thường như chúng ta lo âu, hốt hoảng thì trái lại Ngài
an nhiên, bình tĩnh đến độ không bỏ phí những giây phút còn
lại để tiếp độ thêm một người đệ tử sau cùng. Ðó là Tôn giả
Subhadda(Tu Bạt Ðà La). Và dù rằng lúc bấy giờ Ngài đã 80
tuổi, vẫn còn sáng suốt dặn dò Tăng chúng những lời di huấn
tối hậu.
-
-
Này Tăng chúng chớ sờn tấc dạ
-
Giờ Niết Bàn nay đã đến nơi
-
Nay ta vắn tắt mấy lời
-
Các ngươi hãy nhớ trọn đời đừng quên
-
Vì tạo ác, sanh lên ba cõi
-
Dù thú, người chẳng khỏi một phen
-
Rã tan, chẳng luận sang hèn
-
Hữu sanh, hữu diệt, thế gian thường tình.
-
Con người khi ở vào độ tuổi 70- 80 thừơng được xem
như ngọn đèn treo trước gió, hay mạng sống như chỉ mành treo
chuông. Nhưng thực tế đâu phải đợi đến đó mới nhìn thấy vực
thẳm của sự chết gần kề. Trong bộ sách Thanh Tịnh Ðạo có câu:
-
-
Ngay từ lúc một con người vừa tượng hình trong bào thai là nó
chỉ còn có nước tiến tới trước, không thể dù một lần quay trở
lại (Jà i.v, 494),
-
Hoặc
là:
-
-
Ngày đêm trôi qua
-
Mạng sống tàn dần
-
Cho đến kết thúc
-
Như sông dần khô
-
Như trái đã chín
-
Ðợi kỳ rơi rụng
-
Cũng thế, hữu tình
-
Khi đã sinh ra
-
Nơm nớp lo sợ
-
Cái chết sẽ đến
-
Như chiếc bình đất
-
Dù lớn dù nhỏ
-
Dù nung, không nung
-
Ðều phải tan vỡ
-
Cũng thế đời người
-
Dẫn đến cái chết
-
Sương đầu ngọn cỏ
-
Tan dưới mặt trời
-
Cũng thế đời người
-
Mong manh hư ảo... (Jà.i.v.122)
-
Vì vậy chúng ta phải hiểu rằng ngay khi có sự hiện
hữu trong bào thai có nghĩa là đã thắp ngọn đèn lên và đem
treo trước gió rồi. Bằng chứng có những chúng sanh chỉ thành
tựu kiếp người trong chừng vài tháng, vài ngày, thậm chí có kẻ
vừa lọt lòng mẹ đã không còn tuổi thọ nữa. Vấn đề thọ mạng hay
yểu mạng được Ðức Phật dạy rằng:
-
-
Tất cả đều do sự sát sanh, hay không sát sanh mà con người có
tuổi thọ khác nhau.
-
Có nhiều chúng sanh sống suốt cả đời ốm đau bệnh
tật, khổ lụy triền miên, muốn chết cũng không sao chết được,
mà vẫn phải sống để trả nghiệp quả không giữ giới sát sanh
trong quá khứ. Do đó sống hay chết là lẽ tự nhiên:
-
-
Thương tiếc làm chi hoa vẫn rụng
-
Chán ghét nào ngăn cỏ phát sinh.
-
Thế
nhưng trong cuộc sống do trăm ngàn thứ ràng buộc mà ta thường
ít nghĩ đến sự quán tưởng, chúng ta chỉ giật mình khi đối diện
với sự ra đi của những người thân yêu, nhưng rồi lại quên
ngay, rồi lại lao vào đời sống để rồi lại hốt hoảng lo sợ khi
nhìn thấy cái chết gần kề khi sắp phải xa lìa những điều
thương mến. Thực sự nếu mỗi ngày chúng ta dành ra ít thời gian
giữ tâm tĩnh lặng để quán tưởng đến những lời dạy của đức Phật
về Tứ Niệm Xứ :
-
-
Quán Thân bất tịnh
-
Quán Thọ thị khổ
-
Quán
Tâm vô thường
-
Quán
Pháp vô ngã.
-
Quán tưởng đến sự chết, đến hơi thở chẳng thường
còn để nhận chân sự vô thường của vạn pháp, có lẽ chúng ta sẽ
sống được thanh thản hơn, bớt khổ hơn, dù rằng:
-
- Ðời là khổ muôn vàn cảnh khổ
-
Bệnh, chết, già, thêm chỗ biệt ly.
-
Thân người nào có ra chi
-
Phải chi cõi tạm khi đi lúc về.
-
Hoặc như bài thơ của Quốc sư Vạn Hạnh đời Lý:
-
- Thân như ánh chớp chiều tà
-
Cỏ Xuân tươi tốt, Thu qua rụng rời
-
Sá chi suy thạnh ở đời
-
Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành
-
Hay như Nguyễn Công Trứ đã cảm nhận:
-
- Mới sinh ra miệng đà khóc chóe
-
Ðời
có vui sao chẳng cười khì.
-
Cuộc đời rỏ ràng là vậy nhưng hiểu được nguyên lý
sống, chúng ta có thể chuyển khổ đau thành những hạnh phúc
ngọt ngào, bằng cách sống bớt ưu tư, không lo lắng, không xây
đắp những ảo mộng xa vời như quan niệm của các nhà nho xưa:
-
-
Tri túc, tiện túc. Ðãi túc hà túc.
-
Nghĩa là:
-
-
Biết đủ là đủ, chờ đủ biết bao giờ đủ
-
Quán
chiếu như vậy, có thể giúp chúng ta tìm được những phút giây
hạnh phúc an lạc như một vị Thiền sư nhìn cuộc đời tự tại vô
ngại:
-
- Sống ngày nay biết ngày nay
-
Còn xuân thu cũ ai hay làm gì!
-
Chúng ta càng bỏ công sức để xây dựng đời sống vật
chất kiên cố cho mình bao nhiêu, cũng chẳng khác nào xây nhà
trên cát. Như nàng công chúa trong truyện ngụ ngôn đòi kết
những bong bóng nước thành chuỗi để đeo vậy. Bớt ái dục thì
bớt phiền não, bớt phiền não thì hạnh phúc càng tăng:
-
- Chiến thắng sinh oán thù
-
Thất bại sinh đau khổ
-
Hạnh phúc thay ! Kẻ Trí sống an vui không màng
thắng bại. ( Kinh Pháp Cú)
-
Vậy thì biên giới của hạnh phúc và đau khổ nằm ở
đâu? Phải chăng không thể lấy vật chất để đo lường được. Nếu
chúng ta quán thấy mọi thứ đều không, thì sự mất mát chẳng có
nghĩa lý gì ngay cả thân tứ đại mà ta hằng yêu quý. Nghĩ cho
cùng, kiếp sống con người là một nỗi cô đơn tuyệt đối, cho dù
đến hay đi cũng chỉ có mình với mình ở chặng đường cuối cùng
hoàn toàn cô quạnh. Ðã sống trong cuộc đời thì khó ai tránh
được những phiền lụy thế gian. Nhưng nếu chúng ta biết dùng sự
quán tưởng, biết xử dụng tâm lực sáng suốt, ta có thể chế ngự,
hay có thể cởi bỏ được những phiền não ra khỏi đời mình.
-
Người sống có quán tưởng là người biết nhìn xa, là
người sống có chuẩn bị, chắc chắn sẽ không bị hụt hẫng, đau
khổ, khi gặp những điều bất trắc xảy ra. Ngay bây giờ dù đang
ở trong cảnh giàu sang sung sướng, hãy luôn quán nghĩ đến
những cảnh đời bất hạnh, thiếu thốn, chúng ta sẽ dễ dàng thích
nghi hơn trong mọi tình huống. Quán về sự chết trong bộ Thanh
Tịnh Ðạo có viết:
-
-
Chết có hai loại, nghiã là chết đúng thời hạn và chết phi
thời. Chết đúng thời hạn xảy đến do hết phước đức, hết thọ
mạng hay cả hai phước và thọ. Chết phi thời là chết xảy ra do
nghiệp đến làm gián đoạn sinh nghiệp.
-
Như vậy chúng ta phải sống thế nào để chọn lấy cái
chết đúng thời hạn, không nên để chết vì phải trả nghiệp trong
quá khứ. Muốn được như vậy phải thực hành một điều đơn giản mà
đức Phật thường dạy:
-
-
Tránh tất cả các việc ác
-
Làm tất cả các việc lành
-
Giữ tâm ý trong sạch.
-
Theo đạo Phật, để có một đời sống an lành cho
chính mình thì phải tạo những Thiện Nghiệp, và loại trừ những
Ác Nghiệp ngay cả trong tư tưởng cũng không để cho ác ý dấy
lên. Trong Nho giáo cũng khuyên con người nên tích lũy phước
đức, cũng là những thiện nghiệp để dành, chẳng những cho mình
mà còn cho các đời con cháu về sau. Ðó là Nhân sinh quan lưu
ấm:
-
-
Tích kim dĩ vị tử tôn, tử tôn vị tất năng thụ
-
Tích
thư dĩ vị tử tôn, tử tôn vị tất năng độc.
-
Bất
như tích âm đức, ư minh minh chi trung, trường cửu chi kế.
-
Minh
Tâm Bửu Giám
-
Nghĩa là:
-
- Ðể vàng bạc cho con cháu, chưa chắc con cháu đã
giữ được.
-
Ðể
sách cho con cháu, chưa chắc con cháu đã học.
-
Không bằng để lại âm đức, tuy không thấy nhưng lại là kế lâu
dài.
-
Cho dù sau khi thân hoại mạng chung, chúng ta
không biết chắc sẽ đi về đâu, nhưng hy vọng quả lành sẽ đến
nếu trong khi còn sống chúng ta không tạo ác nghiệp. Chúng ta
phải luôn luôn giữ giới thanh tịnh để có được một cuộc đời an
vui, hạnh phúc như các vị giới sư thường dạy:
-
- Các chúng sanh được sanh về cõi trời cũng nhờ
giữ giới, các chúng sanh được giàu sang cũng nhờ giữ giới. Các
chúng sanh được giải thoát nhập Niết Bàn cũng nhờ giữ giới.
Bởi các cớ ấy nên chư thiện tín phải ráng thọ trì giới luật
cho được trong sạch, đừng để lấm nhơ.
-
Nói tóm lại, Ðức Phật dạy chúng ta về sự quán
tưởng đem lại rất nhiều điều lợi lạc. Với những ai chuyên về
pháp hành thiền đều phải chọn những đề mục để quán tưởng cho
đến khi an định. Riêng chúng ta dùng pháp quán tưởng về vô
thường, khổ não, vô ngã để dễ dàng kết tụ những nghiệp lành,
đem Tâm Từ vô lượng rải khắp muôn loại chúng sanh:
-
- Nguyện cho tất cả chúng sanh đừng có oan trái
lẫn nhau. Hãy cho được an vui. Ðừng có làm hại lẫn nhau. Ðừng
có hẹp lượng. Hãy cho được sống lâu. Ðừng có bệnh hoạn. Hãy
cho được thành tựu đầy đủ. Hãy giữ mình cho được an vui. Tất
cả chúng sanh đến khổ rồi, xin đừng cho có khổ. Ðến sự kinh sợ
rồi, xin đừng kinh sợ. Ðến sự thương tiếc rồi, xin đừng cho
thương tiếc.
-
-
Chicago, 10 tháng 3 năm 2000
-
Nghiêm Thủy
|