- Vu Lan & Văn
Học Dân Tộc
- Nguyễn Mộng
Khôi
- --o0o--
-
-
- Tháng sáu buôn nhãn bán
trâm
-
Tháng bảy Mười rằm xá tội vong
nhân.
-
Ca
dao
-
-
Rằm tháng bảy âm lịch là ngày
lễ Vu Lan, ngày kỷ niệm Ngài Mục Kiều Liên cầu nguyện cho mẹ
thoát khỏi đường ngạ quỷ; và cũng là ngày tết Trung
Nguyên(cúng cô hồn) để cầu siêu cho những hương linh không
người thờ cúng. Vậy hai ngày lễ nầy khác nhau hay là một?
Những sự cầu nguyện nầy có phải là sự mê tín, phản khoa học
không?
-
LỄ VU LAN hay Vu Lan Bồn hội
là tên một pháp hội để cứu khổ cho cha mẹ đã mất. Kinh Vu
Lan(Ullambana sultra) được đức Phật nói cho ngài Mục Kiền Liên
cách nay hơn 25 thế kỷ; và do vị cao tăng Ấn Ðộ là Dharmaksa
dịch từ Phạn ngữ sang Hán tự ở thế kỷ thứ ba đời Tây Tấn Trung
quốc.
-
Theo truyền thuyết, đệ tử Phật
Thích Ca là Mục Kiền Liên sau khi đắc đạo, Ngài dùng thần
thông nhìn xuống các cõi khổ, thấy mẹ là bà Thanh Ðề đang bị
treo ngược và ở chung với loài quỷ đói. Ngài thương quá, cầm
lòng không được, liền dùng thần thông đem bát cơm đến dâng cho
mẹ. Nhưng bà Thanh Ðề vừa thấy cơm, lòng tham bộc phát, nên
vừa mới để vào miệng thì hoá thành lửa than hồng, bỏng cháy cả
miệng lẫn tay. Mục Kiền Liên thấy cảnh bi ai như vậy, đứng
trân người ra, không thốt nên lời, nước mắt dòng dòng, Ngài
chào mẹ rồi trở về gặp Phật. Ngài đảnh lễ Phật và bày tỏ đầu
đuôi tự sự, mong Phật từ bi chỉ bày phương pháp cứu độ.
-
Nghe xong đức Phật nói với
Ngài Mục Kiền Liên: Mẹ Ông khi còn sống, lòng tham lam, tính
ích kỷ gian dối, khinh khi Tam Bảo, đố kỵ các bậc chân tu, gây
nhiều tội ác nặng nề, vì thế phúc đức một mình Ông không thể
cứu độ được, mà phải nhờ thêm uy lực của chư tăng. Vậy, nhân
ngày Rằm tháng Bảy, ngày chư tăng tròn ba tháng an cư thân tâm
thanh tịnh, ngày chư Tăng tự tứ, ngày chư Phật mười phương
hoan hỉ, Ông nên nhân ngày đó mà thiết lập chay đàn, nhờ công
đức của các vị chân tăng đồng tâm nhất niệm mà nguyện cầu thì
sẽ cảm hoá lòng mẹ Ông, cảm thông đến mười phương pháp giới
chư Phật, như thế mới mong giải thoát được tội khổ. Ðức Phật
nói tiếp: mẹ Ông tội căn sâu nặng như tảng đá lớn mà công đức
tu hành của Ông chỉ như chiếc thuyền nhỏ, nên phải cần nhiều
chiếc thuyền kết lại thành bè mới có thể đưa được tảng đá to
nặng kia qua sông ngạ quỷ, thoát vòng trầm luân..
-
Mục Kiền Liên tuân lời Phật
dạy, đem bán hết gia sản của bà Thanh Ðề, tập trung tài lực để
lo việc trai tăng. Khi việc cúng dường trai tăng xong, bà
Thanh Ðề nhờ công đức đó liền thoát khỏi cảnh ngã quỷ và được
vãng sanh lên Trời.
-
Từ độ ấy đến nay, mỗi năm đến
ngày Rằm Tháng Bảy, người con thảo cháu hiền làm sống lại ý
nghiã Vu Lan, rộng mở pháp hội Vu Lan Bồn để nhờ gia lực cầu
siêu cho những thân nhân quá vãng từ thế hệ nầy đến thế hệ
khác, trải qua mấy ngàn năm vẫn chưa phai mờ.
-
Tết Trung Nguyên là lễ để bố
thí cho những vong hồn không ai thờ cúng. Ngày xưa ở các chùa
thường lấy lá đa cuộn lại như cái bù đài, đem cắm ở những nơi
tha ma mộ địa rồi nấu cháo đổ vào đó để mời các vong hồn tới
hưởng.
-
Phong tục Việt Nam có nhiền
tết như tết Nguyên Ðán, tết Ðoan Ngọ, tết Trung Thu... Và ba
cái tết nữa mà ảnh hưởng Phật giáo rõ rệt là tết Thượng
Nguyên(rằm tháng giêng), Trung Nguyên(rằm tháng Bảy) và Hạ
nguyên( rằm tháng mười), riêng tết Trung Nguyên có thí thực
nên gọi là lễ cúng Cô Hồn..
-
Sự việc cúng cháo thí ở tha ma
mộ địa không được Phật dạy trong Vu Lan Bồn, nhưng thực ra nó
bắt nguồn từ nhà Phật. Vì; người Phật tử tin rằng những vong
linh vô thừa nhận kia có liên quan mật thiết với những người
đang sống như chúng ta. Trong kinh Báo Phụ Mẫu Ân còn ghi lại:
-
- Một hôm Ðức Phật cùng Thánh
chúng đi du hóa thì thấy một đống xương khô ở đường, Ðức Phật
khóc rồi xụp lạy đống xương ấy.
-
Tôn Giả A Nan lấy làm ngạc
nhiên hỏi Phật:
-
- Thầy là bậc từ phụ của ba
cõi, bốn loại, cớ sao lại lạy đống xương khô vô danh như vậy?
-
Ðức Phật bảo Tôn Giả A Nan:
-
- Dưới mắt phàm phu thì đống
xương vô thừa nhân kia không có một giá trị nào, nhưng theo
tuệ nhãn của Phật thì đống xương khô đó chính là của ông, bà,
cha, mẹ, của người thân hoặc chính xương của chúng ta trong vô
lượng kiếp theo cái vòng quay của sinh tử luân hồi vô tận.
-
Vì vậy cầu, cúng cô hồn cũng
là cầu cúng cho ông bà cha mẹ chúng ta vậy:
-
... Bây giờ, Phật lại lên
đường
-
Cùng hàng đại chúng Nam phương
tiến hành
-
Ðến giữa đường, dành dành mắt
thấy
-
Núi xương khô bỏ đấy lâu đời
-
Thế Tôn bèn vội đến nơi
-
Lạy liền ba lạy rồi rơi giọt
hồng
-
Ðức A Nan tủi lòng ái ngại
-
Chẳng hiểu sao Phật lạy đống
xương ?
-
Vội vàng xin Phật dạy tường
-
Thầy là Từ Phụ ba phương, bốn
loài
-
Ai ai cũng kính Thầy dường ấy
-
Cớ sao Thầy lại lạy xương khô
?
-
Phật rằng trong các môn đồ
-
Người là đệ tử đứng đầu dày
công
-
Bởi chưa biết đục trong cho rõ
-
Nên vì ngươi ta tỏ đuôi đầu
-
Ðống xương dồn dập bấy lâu
-
Cho nên trong đó biết bao cốt
hài
-
Chắc cũng có ông bà cha mẹ
-
Hoặc thân ta hoặc kẻ ta sinh
-
Luân hồi sinh tử, tử sinh.
-
Lục thân đời trước thi hài còn
đây...
-
Vì vậy; lễ Vu Lan
và lễ cúng Cô Hồn mang cùng một ý nghĩa và trở thành lễ lớn
truyền thống lễ hội của dân tộc với cùng một mục đích là cầu
siêu cho thân nhân quá vãng được ân xá những tội lỗi tiền
khiên. Nhưng ngày lễ nầy không chỉ trong phạm vi tín ngưỡng mà
còn có mặt trong sinh hoạt văn học. Những câu ca dao, những
bài thơ nổi tiếng còn được truyền tụng đến ngày nay.
-
Những câu ca dao,
trong văn chương bình dân đã có mặt rất sớm ở nước ta như câu:
-
- Tháng sáu buôn nhãn bán trâm
-
Tháng Bảy ngày rằm
xá tội vong nhân
-
Câu ca dao trên
được dân gian ghi nhớ nằm lòng trong cái lịch trình sinh hoạt
hàng năm của họ. Dù cho buôn bán bận rộn thế nào thì cũng dành
thì giờ cho ngày Rằm tháng Bảy để cầu siêu cho vong nhân(hương
linh người quá cố) để được xá tội(ân xá tội lỗi).
-
Giới trí thức khoa bảng như
Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm(1491-1585) cũng tin vào uy lực
của chư Phật, sức mạnh của cầu nguyện, có khả năng cứu vớt
những vong linh đang chịu khổ đau ở địa ngục. Cụ đã sáng tác
nhiều bài thơ chữ nôm có tư tưởng Phật Giáo. Bài Trung Nguyên
Xá Tội được viết lúc cụ đi thăm chùa Phổ Minh nhân ngày Vu
Lan:
-
- Cớ sao còn có Vu Lan?
-
Từ Bi ta muốn nhờ công sức
-
Cứu được bao người chịu khổ
đau.
-
Ðinh Gia Khánh dịch
-
Nguyên Bản chữ hán:
-
- Thị hà xá tội hữu hương thần
-
Ngã kim dục trượng Từ Bi lực
-
Cứu đắc vô cô đồ thán nhân.
-
Từ trước tới nay, đã có nhiều
bài thơ viết về ngày lễ Vu Lan, nhưng có lẽ bài Văn Tế Thập
Loại Chúng Sinh(VTTLCS) của Thi Hào Nguyễn Du là diễn tả được
ý nghĩa của lễ Vu Lan trong tinh thần văn học dân tộc là bởi
từ cách dùng chữ, cách diễn đạt tư tưởng rất phù hợp với phong
tục nhân gian và giáo lý nhà Phật. Thời trước các nhà chùa
thường dùng áng văn nầy để tụng niệm vào ngày Rằm tháng Bảy,
vì vậy nếu không biết rõ tông tích tác giả, người ta dễ sai
lầm cho là do một vị cao tăng uyên bác nào viết:
-
- Nam mô Phật, Nam mô Pháp,
Nam mô Tăng
-
Nam mô nhất thiết siêu thăng
thượng đài.
-
Bài VTTLCS gồm 184 câu, thơ
song thất lục bát. Tác giả gọi là Thập Loại là để chỉ số
nhiều, chứ không phải đủ mười loại; và chúng sinh trong bài
chỉ nói về con người. Những cái chết thật đáng thương của
những con người đó: Kẻ tranh bá đồ vương bị thua mà chết. Phu
nhân quyền quí của các công hầu khanh tướng gặp phen sa cơ
phải tự vận. Người làm chính trị lỡ vận bị giết. Những danh
tướng nhất tướng công thành vạn cốt khô cuối cùng bị chết.
Những hạng tham lam làm giầu buôn bán dọc sông ngang biển,
chẳng quản đường xa. Những chiến sĩ vô danh tử trận. Gái lỡ
làng buôn nguyệt bán hoa. Kẻ ăn mày. Người mắc vòng lao lý.
Ðứa sơ sinh yểu tử. Những vong linh nầy dưới tuệ giác của Phật
đều có liên hệ mật thiết với chúng ta. Ngài đã dạy cho các
khất sĩ:
-
- Nầy các Tỳ Kheo, các thầy
không dễ gì tìm được một chúng sanh chưa từng là mẹ, là cha,
là anh, là chị, là con trai, con gái của các thầy trong bước
đường dài của tái sanh.
-
Chính vì hiểu được giáo lý nầy
mà cụ Nguyễn Du khi viết VTTLCS đã ngậm ngùi cho thập loại vì
biết thập loại đó là thân nhân ruột thịt của Cụ trong nhiều
tiền kiếp xa xưa.
-
Dưới ngòi bút tài tình, Cụ đã
mở đầu bài văn bằng cảnh một buổi chiều mùa Thu, tháng Bảy, có
sương màu trắng đục đang rơi lác đác trên ngọn bạch dương bên
con đường đê dẫn tới bãi tha ma, có khí thiêng phản phất đâu
đây. Cụ trạnh lòng nghĩ tới những chúng sanh quá vãng:
-
- Trời tháng Bảy mưa dầm sùi
sụt
-
Toát hơi mây lạnh ngắt xương
khô
-
Não người thay buổi chiều thu
-
Ngàn lau nhuốm bạc, lá ngô
rụng vàng
-
Ðường bạch dương bóng chiều
man mác
-
Dịp đường lê lác đác sương sa
-
Lòng nào lòng chẳng thiết tha
-
Cõi dương còn thế nữa là cõi
âm
-
Trong trường dạ tối tăm trời
đất
-
Có khí thiêng phảng phất u
minh
-
Thương thay thập loại chúng
sinh.
-
Hồn dơn phách chiếc lênh đênh
quê người...
-
Và, sau đó từng loại chúng
sinh được Cụ nhắc tới những người tranh bá đồ vương, khi còn
tại thế, nuôi mộng cao khí lớn, tính khí kiêu mạn:
-
- Chí những lăm cướp gánh non
sông
-
Nói chi đang thuở thị hùng
-
Tưởng khi thất thế vân cùng mà
đau.
-
Ðến khi thất thế vận cùng:
-
- Bỗng đâu phút tro bay ngói
lở
-
Khôn đem mình làm đứa thất phu
-
Cả giàu sang, nặng oán thù
-
Máu tươi lai láng, xương khô
rã rời
-
Có những phu nhân kiều diễm
kiêu sa:
-
... màn lan trướng huệ
-
Những cậy mình cung quế Hằng
Nga,
-
Mà không hiểu lý vô thường nên
đã quá lo lắng trước những biến cố của cuộc đời:
-
- Một phen thay đổi sơn hà
-
Tấm thân chiếc lá biết là làm
sao!
-
Gió mưa sấm sét đùng đùng
-
Phơi thây trăm họ
nên công một người,
-
Mà gặp cảnh sa cơ
mạt vận, thì cũng chết, cũng hành trình đơn độc, vô định:
-
- Bơ vơ góc bể
chân trời
-
Bó thân da ngựa
biết vùi nơi nao ?
-
Những loại cô hồn
nầy thật đáng thương:
-
- Trời xâm xẩm mưa
gào gió thét
-
Khí âm huyền mờ
mịt trước sau
-
Năm năm xương
trắng dãi dầu
-
Nào đâu điếu tế,
nào đâu chưng thường!
-
Có những người
suốt cuộc đời chỉ ham làm giàu, làm việc quên ăn bỏ ngủ, sống
tha hương để lo kiếm tiền, đến khi chết không có lấy một
người thân bên cạnh:
-
... tính đường trí
phú
-
Làm tội mình nhịn
ngủ, bớt ăn
-
Ruột rà không kẻ
chí thân
-
Dẫu làm nên nữa
dành phần về ai ?
-
Khi nằm xuống
không người nhắn nhủ
-
Của phù vân dẫu có
như không
-
Sống thời tiền
chảy bạc ròng
-
Thác không đem
được một đồng nào đi.
-
Ðám tang nơi quê
người, được chôn cất vội vàng lúc đêm khuya, có bó đóm leo lét
đẫn tới nghĩa địa là cánh đồng chiêm nước trũng:
-
- Hòm gỗ đa bó đóm
đưa đêm
-
Ngẫn ngơ nội rộc
đồng chiêm
-
Tàn hương giọt
nước biết tìm về đâu !
-
Những hạng chết về
lợi đã nhiều, mà chết về danh cũng lắm. Say sưa với mộng công
danh, bỏ làng mạc quê hương lên thành thị theo đòi nghiên bút
để mong có cơ hội tiến thân
-
... muốn cầu chữ
quý
-
Dấn thân vào thành
thị lân la
-
Mấy thu lià cửa
lià nhà
-
Văn chương đã chắc
đâu mà trí thân,
-
Ðến khi thời tiết
thay đổi mưa nắng bất thường, lâm trọng bịnh không có vợ con
bên cạnh để thuốc thang săn sóc nên bị chết. Chung quanh chỉ
có người dưng, thiên hạ, họ chôn dùm một cách vội vàng cẩu
thả, cho xong chuyện:
-
- Dọc hàng quán
phải tuần mưa nắng
-
Vợ con nào nuôi
nấng khem kiêng
-
Vội vàng liệm sấp
chôn nghiêng
-
Anh em thiên hạ,
láng giềng người dưng
-
Và rồi:
-
- Bãi tha ma kẻ
dọc người ngang
-
Cô hồn nhờ gửi tha
hương
-
Gió trăng hiu hắt,
khói hương lạnh lùng
-
Những thương gia
dọc ngang sông biển, gặp lúc không thuận buồm suôi gió, thuyền
đắm, thân xác làm mồi cho tôm cá:
-
- Cánh buồm dơi
chạy xế gió đông
-
Gặp cơn giông tố
giữa giòng
-
Ðem thân vùi lấp
vào lòng kình nghê
-
Hoặc những kẻ buôn
đường bán chợ, lúc nắng khi mưa thình lình bị cảm hàn mà chết:
-
... đi về buôn bán
-
Ðòn gánh tre chín
rạn hai vai
-
Gặp cơn nắng gắt
mưa rơi
-
Hồn đường phách xá biết là về
đâu
-
Ngoài những hạng
tham danh lợi, phú quí mà chết, còn có những người vì nghiệp
cũ còn nặng, nên phải trả nợ; Ðó là:
-
- Những binh lính,
khi còn sống thì vất vả, lúc chết thành cô hồn vất vưởng đó
đây:
-
... mắc vào khóa
lính
-
Bỏ cửa nhà đi gánh
việc quan
-
Nước bầu cơm ống
gian nan
-
Dãi dầu muôn dặm
lầm than một đời
-
Trong chiến trận
mạng người như rác
-
Thân đã đành đạn
lạc tên rơi
-
Lập lòe ngọn lửa
ma trơi
-
Tiếng vang văng
vẳng tối trời càng thương
-
Những cô gái buôn
nguyệt bán hoa, lúc sống thì nhiều phiền não, nhiều tuỉ nhục,
đến khi chết không chồng con cúng giỗ phải nhờ vào hớp cháo lá
đa của ngày Rằm tháng Bảy:
-
... lỡ làng một
kiếp
-
Liều tuổi xuân
buôn nguyệt bán hoa
-
Ngẫn ngơ khi trở
về già
-
Ai chồng con tá
biết là cậy ai
-
Sống đã chịu một
đời phiền não
-
Thác lại nhờ hớp
cháo lá đa.
-
Và, bao nhiêu loại
âm hồn đau khổ khác: kẻ ăn mày nằm gầm cầu gối đất. Người tù
rạc, khi chết chỉ có manh chiếu rách bó xác. Những đứa trẻ vừa
mở mắt chào đời đã thành người thiên cổ, còn có những cái chết
thật thương tâm: bị thuyền chìm, lũ cuốn, chết cháy, té cây,
nhảy giếng, cá dữ ăn thịt, ác thú phanh thây, hoặc đẻ non
thiếu tháng, sinh bệnh mà chết.. v.. v...:
-
- Cũng có kẻ nằm
cầu gối đất
-
Rõi tháng ngày
hành khất ngược xuôi
-
Thương thay cũng
một kiếp người
-
Sống nhờ hàng xứ
chết vùi đường quan
-
Cũng có kẻ mắc
đoàn tù rạc
-
Gữi thân vào chiếu
rách một manh
-
Nắm xương chôn rấp
góc thành
-
Kiếp nào cởi được
oan tình ấy đi
-
Lại như đùa tiểu
nhi tấm bé
-
Mới sinh đà lìa mẹ
lìa cha
-
Lấy ai bồng bế vào
ra
-
Ư ư tiếng khóc,
xót xa nỗi lòng
-
Cũng có người đắm
sông chìm suối
-
Cũng có người sẩy
cỗi sa chân
-
Có người leo giếng
đứt dây
-
Kẻ trôi nước lũ
người lây lửa thành
-
Người thì lâm răng
khái ngà voi
-
Có người có đẻ
không nuôi
-
Kẻ vì tiểu sản
mệnh người lâm nguy.
-
Là một người thấu
hiểu giáo lý nhà Phật, nên cụ Nguyễn Du tin tưởng vào việc lập
trai đàn để nhờ oai lực chư Phật mà cầu siêu cho các cô hồn,
những cô hồn nầy, trong nhiều kiếp luân hồi có cả cha mẹ cùng
quyến thuộc của cụ trong đó:
-
... Ðàn chẩn tế
vâng lời Phật giáo
-
Bóng hào quang cứu
khổ độ u
-
Khắp trong Tứ Ðại
Bộ Chu
-
Não phiền trút
sạch oán thù rửa trong.
-
Những người đã
thấu hiểu giáo lý nhà Phật đều tin sự cầu nguyện đem lại lợi
lạc cho hương linh người quá cố. Nhưng có những kẻ theo Duy
Vật chủ nghĩa(Materialism) không tin vào sức mạnh của tâm
linh. Họ bảo sự cầu nguyện là mê tín, là phản khoa học... và
là sản phẩm tưởng tượng của bọn buôn Thần bán Thánh.
-
Nhưng sức mạnh của
tâm linh, uy lực của sự cầu nguyện từ xưa đã được nhiền tôn
giáo Ðông Phương tín thực dựa vào những thực cảm của tâm linh.
Người Tây phuơng mới chập chững bước vào lãnh vưc nầy, nhưng
họ đã chứng minh được sức mạnh của tinh thần là thật, nếu được
thực tập đúng cách: Bác Sĩ Harold Koenig đã viết trong tạp chí
chuyên nghiên cứu về lão khoa(Journal of geronrtology):
-
- Với người cao niên, sự cầu
nguyện lợi ích cho thân và tâm.(For seniors, prayer is good
for body and soul).
-
Sau 6 năm theo dõi sức khỏe
của 4000 người cao niên, Ông ghi nhận, những người thường cầu
kinh thì sức khỏe tốt hơn và sống lâu hơn những người không
bao giờ cầu nguyện:
-
- Giáo sư Josefph Banks Khine
phụ trách môn Psychokinesis ở Ðại học Duke tiểu bang North
Carolina. Psychokinesis là cái năng lực tác động vào vật thể
bằng viễn cảm mà không cần thân lực (Psychokinesis is the
ability of affect object at a distance by means other than
known physical forces).
-
Trong một lần thực tập trước
sự chứng kiến của các sinh viên và một nhóm phóng viên, Rhine
đã tập trung tư tưởng và dùng ý chí để di chuyển một con xúc
xắc hình khối bằng nhựa từ chỗ nầy đến chỗ khác.
-
Uri Geller(gốc Do Thái) với ý
muốn của mình, Uri làm cho các muỗng, dĩa bằng kim loại bị bẻ
cong và một lần khác làm cho đồng hồ Big Ben, trên gác chuông
Toà Nghị Viện ở Luân Ðôn đứng lại. Còn rất nhiều chuyện tương
tự, chứng tỏ sức mạnh của Tâm.
-
Như vậy, chuyện Mục Liên,
Thanh Ðề không có gì là hoang đường huyền bí nữa. Ðó là do
lòng hiếu thảo chí thành của người con và công đức trì trai,
giữ giới thanh tịnh trong ba tháng hạ, thúc liễm tu hành của
chư Tăng thành tâm chú nguyện, nên có sức mạnh cảm thông và
kích thích đến tâm hồn người đau khổ, làm cho họ thức tỉnh cơn
mê, xoáy chuyển tâm niệm ác, hướng về nẻo thiện. Nhờ sự chuyển
huớng của cái tâm nầy, mà họ thoát khỏi hình phạt đau khổ mà
trước kia chính cũng do cái tâm ấy tạo ra. Trong kinh có nói:
Tâm có thể tạo nghiệp, mà tâm cũng có thể chuyển nghiệp.
-
Sự tích Vu Lan báo hiếu khởi
đầu bằng hình ảnh Mục Kiền Liên cứu mẹ trở thành hình ảnh mô
phạm đầy tính giáo dục nhân văn dân tộc, hướng tới sự giải
thoát mà đời đời cần phải lưu truyền.
-
-
Sách
Tham Khảo:
-
- Phật
học Phổ Thông
-
- Nghi
thức Tụng Niệm Hàng Ngày
-
- Văn Tế
Thập Loại Chúng Sinh
-
- The
Power of Mind
|