- Chùa Trấn
Quốc Ở Hồ Tây
- Qua Lịch Sử
& Thi Văn
- Nguyễn Mộng
Khôi
- Viết tặng
Anh Chị Như Xuyên
- --o0o--
-
-
- Khi đi trẻ, lúc về già,
-
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác
bao.
-
Trẻ con nhìn lạ không chào,
-
Hỏi rằng khách ở chốn nào lại
chơi?
-
-
Chuyến về thăm Việt Nam của vợ
chồng tôi và anh chị Xuyên kéo dài gần hai tháng, nên chúng
tôi có đủ thì giờ đi thăm nhiều thắng cảnh, nhiều ngôi chùa từ
miền thượng du Sapa, Lào Kay, tới miền Trung du Phú Thọ, Yên
Bái, xuống tới đồng bằng Cữu Long. Chúng tôi cùng trong hội
Nghiên Cứu Phật Học, nên được đi thăm chùa là một điều thích
thú. Chúng tôi có cái may mắn là cô hướng dẫn viên du
lịch(HDVDL-tour guide)rất giỏi, tên cô Hạnh. Cô hiểu nhiều về
văn chương, địa lý và đặc biệt về lịch sử các ngôi chùa nổi
tiếng. Cô còn nói thông thạo ba ngoại ngữ: Anh, Nhật, Hoa...
Cô Hạnh cho biết hiện nay nhiều thanh niên nam nữ trong nước
đang đổ sô đi học HDVDL. Khi tốt nghiệp được cắp văn bằng Cử
nhân và có hy vọng kiếm việc làm dễ dàng, với đồng lương cao
hơn các ngành khác; vì du khách ngoại quốc, Tây ba lô, Việt
Kiều về thăm Việt Nam ngày càng đông.
-
Ở Hà Nội, chúng
tôi đã tới nhiều chùa như Cổ Như, chùa Một Cột, chùa Quán Sứ,
chùa Láng... Mỗi nơi có một lịch sử đặc biệt. Nhưng anh chị
Xuyến muốn ở thêm một ngày để thăm lại ngôi chùa nổi tiếng
nhất thủ đô là chùa Trấn Quốc. Thực ra, trước khi đất nước
chia đôi Nam Bắc, năm 1954, chúng tôi đã có lần tới ở đây,
nhưng hồi đó còn nhỏ, tới bây giờ là gần 50 năm. Tôi nghĩ chắc
ngôi chùa khác xưa nhiều? Vì vậy, tất cả đều vui lòng đến
thăm. Có lẽ cô Hạnh đã hướng dẫn nhiều du khách tới ngôi chùa
lịch sử này, nên cô thích thú và say sưa giải thích:
-
- Chùa Trấn Quốc
được xây năm 544 ngay sau khi Lý Bôn lên ngôi Hoàng Ðế. Ông tự
xưng là Lý Nam Ðế, đặt niên hiệu là Thiên Ðức, lấy tên nước là
Vạn Xuân.
-
Chùa Trấn Quốc có một lịch sử lâu dài, qua nhiều lần đổi tên
và dời chổ. Thời Lý Nam Ðế, chùa có tên là Khai Quốc. Cái tên
đó đã gắn liền với lịch sử Việt Nam. Vì Khai Quốc có nghĩa là
khai sáng nền độc lập sau những năm u ám dưới ách đô hộ của
nhà Lương(Tàu). Bấy giờ chùa xây ở bến sông Hồng, địa phận
làng Yên Hoa, nay là phường Yên Phụ, Hà Nội.
-
Năm 1440, Lê Thái Tôn đổi tên
Khai Quốc ra An Quốc, cái tên An Quốc là một hãnh diện của
Ngài, vì vua cha là Lê Thái Tổ, sau 10 năm vất vả đánh đuổi
quân Minh mang lại an bình cho đất nước.
-
Ðến năm 1616, đời Lê Kính Tôn,
chuyển chùa vào bãi Cá Vàng. Nhưng được ít lâu, nền bỗng bị
lún. Sợ sụp đổ, nên dân chúng phường Yên Hoa lại dời chùa vào
gò Kim Ngư trong Hồ Tây, là địa điểm ngày nay.
-
Chúa Trịnh Thanh Ðô Vương
thường đến đây vãn cảnh, nên năm 1639, ông cho xây thêm cổng
và hành lang hai bên phải và trái, rồi đổi tên là Trấn Quốc.
Cái tên Trấn Quốc còn đánh dấu một khúc quanh quan trọng của
lịch sử nhà chúa đã giúp vua Lê giữ gìn đất nước; và mang
giang sơn về một mối sau thời Nam Bắc triều đánh nhau xuốt 65
năm với nhà Mạc. Nhờ những công trình tu bổ đó mà làm tăng vẻ
đẹp của ngôi chùa. Thật đúng là một danh lam của Thăng Long.
Chúa Trịnh còn xây Hành Cung ở bên để thưởng lãm và để nghỉ
ngơi dưỡng sức.
-
Hơn một trăm năm sau, nhà chúa
bị diệt. Vua Gia Long thống nhất đất nước và dời kinh đô vào
Huế. Vua Thiệu Trị cháu nội vua Gia Long không bằng lòng với
tên Trấn Quốc nên năm 1842, ông bắt đổi là Trấn Bắc. Có lẽ nhà
vua không muốn cái tên Trấn Quốc do chúa Trịnh đặt và muốn xóa
bỏ những địa danh nổi tiếng của triều đại cũ chăng? Có thể là
như vậy! Người dân ở đây chưa quên việc vua Minh Mạng, thân
phụ của Thiệu Trị, trong khi tuần du Bắc Hà năm 1826 đã sai
đập bỏ phía trên cổng thành Hà Nội xuống một trượng để cho
thấp hơn cổng thành Huế.
-
Cái tên Trấn Bắc được vua
Thiệu Trị đặt cho thật không xứng đáng với cái danh tiếng của
ngôi chùa lịch sử, nên dân chúng Thăng Long vẫn cứ gọi là Trấn
Quốc cho đến ngày nay.
-
Chùa Trấn Quốc không phải chỉ chứng kiến những thăng trầm của
lịch sử, mà còn là nơi tu học của những danh tăng, những nhân
vật nổi tiếng và những tổ phái Phật Giáo. Thiền Sư Tì Ni Ða
Lưu Chi (580) từ Ấn Ðộ sang, ở chùa này rồi sau mới đến Pháp
Vân Tự, làng Cổ Châu, huyện Long Biên, tỉnh Hà Ðông. Những vị
khác như Văn Phong, Khuông Việt, Ngô Chân Lưu, Thảo Ðường,
Thông Biện, Tĩnh Không ... đều trụ trì ở đây.
-
Anh Xuyên bổ túc thêm là Phái
thiền Tào Ðộng, do Tính Trí Giác Quan thiền Sư đời Hậu Lê, một
thời đã lập Tổ đình nơi nầy. Anh ngắm ngôi chùa và khen vị nào
đã khéo chọn đất. Chùa nằm trên gò nổi của Hồ Tây là nơi hấp
thụ cái sinh khí quanh vùng. Thật đắc địa! Cách không xa còn
có những địa danh nổi tiếng như đường Cổ Ngư, đê Yên Phụ, đền
Trấn Võ, hồ Trúc Bạch ... Tất cả đều thuộc quận Ba Ðình, Hà
Nội.
-
Vị trí của toàn bộ những kiến
trúc chùa Trấn Quốc rất độc đáo. Cổng chùa thì nằm bên trái
chánh điện(nhìn từ trong ra). Chánh điện hướng về phía Ðông và
nằm xoay lưng ra hồ. Con đường lát gạch đỏ, hai bên là hàng
dừa cao chạy qua cổng rồi bọc ra phía sau vườn. Trong vườn có
14 tấm bia đá, nhưng chỉ 2 tấm còn nguyên vẹn. Ðó là bia của
Trạng nguyên Nguyễn Xuân Chính dựng năm 1639 và của Tiến Sĩ
Phạm Quí Thích (1760-1825), người hiệu đính truyện Kiều, và
cũng là bạn thân của thi hào Nguyễn Du.
-
Rải rác trước và sau sân chùa
là những bảo tháp của các vị cao tăng quá cố. Còn có một ngôi
tháp cao 11 tầng, vươn lên trời xanh như niềm kiêu hãnh của
dân tộc. Ðặc biệt phía sau chùa là một cây Bồ đề do Tổng thống
Ấn Ðộ Pra-Sát tặng hồi viếng thăm Việt Nam năm 1959. Cây Bồ đề
này được mang từ chỗ gốc cây Bồ đề năm xưa đức Phật thành đạo.
Bây giờ đã lớn lắm, cao như cây đa, thân cây to, hai người ôm
không hết. Chùa có nhiều cổ thụ. Ở xa nhìn những ngôi tháp
xưa, ẩn hiện sau những cành lá xanh tươi, trông đẹp như một ốc
đảo thần tiên.
-
Trong chánh điện có nhiều tượng Phật lâu đời. Ðáng chú ý nhất
là pho tượng đức Thích Ca nhập Niết Bàn bằng gỗ thếp vàng và
là một kiệt tác của nền nghệ thuật tạc tượng ở Việt Nam.
-
Hôm nay trở lại đây, sau 48
năm, khi ra đi, chúng tôi còn trẻ cả. Nay trở về tóc đã hoa
dâm. Một Chú tiểu từ nhà trong bước ra chào chúng tôi. Chú
thân thiện và lễ phép hỏi, chắc các bác là Việt Kiều về thăm
chùa? Nghe mà lòng se lại. Tôi bỗng nhớ một bài thơ Ðường của
Hạ Tri Chương (659-744). Lúc còn trẻ, ông đi làm quan ở kinh
đô, rồi một ngày trở về quê nhà. Chỉ khác là nay tóc ông đã
thưa, rụng gần hết. Buồn nhất là khi gõ cửa nhà mình, lũ trẻ
không biết ông là ai. Ông chợt sáng tác một bài thơ bất hủ,
Hồi Hương Ngẫu Thư:
-
- Khi đi trẻ, lúc về già,
-
Giọng quê vẫn thế, tóc đà khác
bao.
-
Trẻ con nhìn lạ không chào,
-
Hỏi rằng khách ở chốn nào lại
chơi?
-
Phạm Sĩ Vỹ dịch
-
- Thiếu tiểu, ly gia, lão đại
hồi,
-
Hương âm vô cải mấm mao tồi.
-
Nhi đồng tương kiến, bất tương
thức
-
Tiếu vấn khách tòng, hà xứ
lai?
-
Hà Tri Chương
-
Tôi thông cảm với thi hào
Nguyễn Du, trở lại đất Thăng Long sau 25 năm ly loạn. Cụ đã
mừng rỡ thốt lên:
-
- Bạch đầu giai đắc kiến Thăng
Long
-
Nghĩa là:
-
Ðầu bạc mà còn thấy được Thăng
Long.
-
Cụ yêu Thăng Long
như yêu làng Tiên Ðiền, nơi chôn nhau cắt rốn.
-
Chùa Trấn Quốc còn là nguồn cảm hứng của bao thi nhân qua
nhiều thời đại, vua Lê Thánh Tôn (1460-1497), có bài vịnh chùa
như sau:
-
- Ngẫm sự trần
duyên khéo nực cười,
-
Sắc, Không, tuy bụt hãy lòng
người.
-
Chày kình một tiếng tan lòng
tục,
-
Hồn bướm mơ tiên lẫn sự đời.
-
Bể ái nghìn trùng khôn tát
cạn,
-
Nguồn ân muôn trượng dễ khơi
vơi ...
-
Nhà văn Khái Hưng đã lấy ý hai câu của bài thơ:
-
- Chày kình một tiếng tan niềm
tục,
-
Hồn bướm mơ tiên lẫn sự đời.
-
Ðể đặt tên cho cuốn tiểu
thuyết nổi tiếng Hồn Bướm Mơ Tiên của Ông, Hồn Bướm Mơ Tiên là
một chuyện tình của một chàng sinh viên lãng mạn yêu một ni cô
ở chùa Long Giáng Bắc Ninh.
-
Cụ Dương Khuê, trong một đêm
trăng, lênh đênh trên một chiếc thuyền ở Hồ Tây, phía sau chùa
Trấn Quốc, đã nghe tiếng chuông đền Trấn Võ(có tên khác là đền
Quan Thánh, thờ Ngài Huyền Thiên Trấn Võ, ở phiá Nam chùa Trấn
Quốc khoảng một cây số), tiếng gà điểm canh ở phường Thọ
Xương, tiếng chày gĩa giấy ở phường Yên Thái,
-
- Phất phơ ngọn trúc trăng
tà,
-
Tiếng chuông Trấn Võ, canh gà
Thọ Xương*
-
Mịt mù khói toả ngàn sương,
-
Nhịp chày Yên Thái**, mặt
gương Tây Hồ.
-
Chuông đền Trấn Võ nổi tiếng
là vang thật xa. Có một huyền thoại dân gian là đúc chuông
xong. Khi tiếng chuông đánh lên, âm vang sang tận bên Tàu làm
cho con trâu vàng thần tưởng là tiếng mẹ gọi, bèn chạy sang
nước Nam. Nó tới nới thì tiếng chuông đã dứt, nó lồng lộn tìm
mẹ, làm đất lún xuống thành Hồ Tây bây giờ.
-
Tiếng gà gáy ở Thọ Xương làm
cụ giật mình thức giấc, cụ ngồi trong thuyền, nhìn ánh trăng
tà, đục mờ trên mặt sóng, như gợi lại cái tên cũ là hồ Lãng
Bạc.
-
Bà Hồ Xuân Hương vào chùa lễ
Phật mà có cảm tưởng như thoát tục như đang ở cõi Niết Bàn hay
đang ở miền cực lạc:
-
- Nào nào cực lạc là đâu tá?
-
Cực lạc là đây chín rõ mười.
-
Trải qua 15 thế kỷ, chùa Trấn
Quốc xứng đáng là ngôi chùa lịch sử của Việt Nam. Chùa Trấn
Quốc, Hồ Tây sẽ là nguồn cảm hứng vô tận cho các văn nhân, thi
sĩ./.
-
Chú Thích
-
- Phất phơ ngọn trúc trăng tà,
-
Tiếng chuông Trấn võ canh gà
Thọ Xương.*
-
Mịt mù khói toả ngàn sương,
-
Nhịp chày Yên Thái**, mặt
gương Tây Hồ.
-
Ca dao: Gió đưa cành trúc la
đà
-
Tiếng chuông Trấn Quốc canh gà
Thọ Xương
-
*Thọ Xương là một huyện thuộc
kinh thành Thăng Long, còn dấu vết gần nhà thờ lớn Hà Nội.
Huyện Thọ Xương xưa gồm những phố đông đúc nhất, nay là chỗ
Ngõ huyện, khu phố Hoàn Kiếm và Hai Bà Trưng.
-
**Nhịp chày Yên Thái:có nghĩa
là tiếng chày giã giấy ở phường yên Thái.
-
Phường Yên Thái (gần Hồ Tây)
là nơi sản xuất giấy đầu tiên ở nước ta hồi cuối thế kỷ 17 vào
thời chúa Trịnh Căn (1682-1709). Trước đó nước ta phải nhập
cảng giấy in và giấy viết từ bên Tàu.
-
Người Tàu giữ bí mật nghề làm
giấy, Trịnh căn bèn chọn một số thanh niên, thông thạo tiếng
Tàu, cho nhập vào phái đoàn đi sứ. Theo mật chỉ của nhà chúa
thì số thanh niên nầy khi sang tới Quảng Ðông thì lặng lẽ bỏ
sứ bộ trốn đi rồi tùy nghi tự tìm cách học lấy nghề làm giấy
cho thành thục rồi trở về sẽ được trọng thưởng.
-
Nhóm thanh niên đó vâng sứ
mạng đi lần mò tới vùng Phiên Ngung,
Nam Hải làm thuê, ở
mướn cho mấy gia đình chuyên môn làm giấy. Trải qua ba, bốn
năm biết được tất cả bí thuật trong nghề. Họ tìm đường về quê
nhà. Chúa Trịnh Căn mừng lắm, thưởng công rất hậu; và chọn
phường Yên Thái mở xưởng làm giấy, lại sai họ đứng trông nom
và truyền nghề cho dân sở tại.
-
Kỹ nghệ giấy ở Việt Nam
có từ đấy.
-
Nguyễn Mộng Khôi
|