Hạnh Nguyện Phổ Hiền
(Bài thuyết pháp của Thượng Tọa Viện Chủ Chùa Dược Sư
Ban Tu Học ghi chép ngày 29 tháng 03 năm 2003)
--o0o--
 
Hôm nay là ngày thực tập Thiền Quy Hướng Tịnh Độ đầu tiên và cũng là ngày Vía Đức Phổ Hiền Bồ Tát, vì vậy bài pháp hôm nay chúng tôi muốn giới thiệu đến đại chúng là: Hạnh Nguyện Phổ Hiền
Hai vị Bồ Tát hiệp sĩ của đức Phật Thích Ca Như Lai. Ngài Văn Thù tượng trưng cho trí-tuệ-chứng và Ngài Phổ Hiền tượng trưng cho lý-định-hành. Lý trí dung thông. Trên Phật điện, trong bộ tượng Hoa Nghiêm Tam Thánh, Ngài Văn Thù cưỡi sư tử xanh hầu bên trái đức Như Lai, Ngài Phổ Hiền cưỡi voi trắng hầu bên phải.  Hai vị Bồ Tát này là hai bậc thượng thủ của hết thảy hàng Bồ Tát, thường giúp đỡ, tuyên dương cho việc giáo hóa của Ðức Như Lai.  Ðiểm đặc sắc của đức Phổ Hiền Bồ Tát là tâm lượng rộng lớn như hư không pháp giới. Theo Kinh Ðại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm, Bồ Tát Phổ Hiền dạy rằng: Nhược dục thành tựu thử công đức môn, ưng tu thập chủng đại hạnh nguyện:
- Nhứt giả lễ kính chư Phật.
Nhị giả xưng tán Như Lai.
Tam giả quảng tu cúng dường.
Tứ giả sám hối nghiệp chướng.
Ngũ giả tùy hỷ công đức.
Lục giả thỉnh chuyển pháp luân.
Thất giả thỉnh Phật trụ thế.
Bát giả thường tùy Phật học.
Cửu giả hằng thuận chúng sanh.
Thập giả phổ giai hồi hướng.
Nghĩa là:
Nếu ai muốn trọn nên công đức của Phật, thời phải tu mười điều hạnh nguyện rộng lớn như sau:
- Một là thành tâm kính lễ các đức Phật.
Hai là khen ngợi, tán thán Như Lai.
Ba là thực hành hạnh cúng dường rộng rãi.
Bốn là ăn năn chừa bỏ các nghiệp chướng.
Năm là vui theo các công đức.
Sáu là thỉnh Phật thuyết pháp.
Bảy là thỉnh Phật trụ ở thế gian.
Tám là thường tu học theo lời Phật dạy.
Chín là luôn luôn tùy thuận lợi ích chúng sanh.
Mười là hồi hướng công đức khắp tất cả pháp giới.
Do đó mười nguyện của Ngài, nguyện nào cũng nhằm vào việc độ sanh, nguyện nào cũng đạt tới cứu cánh viên mãn.
01- Thứ nhất: Lễ Kính Chư Phật
Thông thường nói đến Chư Phật là chúng ta hiểu là những vị tu hành đã đạt quả vị chánh đẳng chánh giác, tuy nhiên theo trong Kinh Hoa Nghiêm, Phật dạy chúng ta rằng:
- Tình dữ vô tình, đồng viên chủng trí.
Tình là muốn nói đến tất cả các lòai hữu tình chúng sanh đó chính là tất cả động vật.      
- Vô Tình là chỉ cho các lòai cây cỏ vô tri giác..
Từ ý nghĩa nầy, chúng ta hiểu chư Phật có nghĩa là bao gồm tất cả mọi loài Hữu tình và Vô tình.  Như vậy kính lễ chư Phật có nghĩa là đối với tất cả chúng sanh cũng như đối với Phật không có khác. Bởi vì tất cả chúng sanh vốn là Phật. Ðắc tội với một chúng sanh tức là đắc tội với một vị Phật, là không cung kính với một vị Phật. Nếu chúng ta thực hành đúng như tôn chỉ của Ngài Phổ Hiền thì sự cung kính nầy mới thực sự là hạnh nguyện chân thật,
Nói về sự cung kính, đối với người thì chúng ta phải cung kính đó là chuyện bình thường, tuy nhiên đối với cây cỏ, súc vật chúng ta cũng phải tỏ lòng cung kính, bởi vì nó cũng là chúng sanh vậy. Chữ chúng sanh ở đây có nghĩa là:
- Chúng duyên hòa hợp, tạo thành hiện tượng.
Vậy đối với vật chúng ta phải cung kính, nhưng cách cung kính đối với đồ vật, có nghĩa là chúng ta sắp xếp cho ngăn nắp thứ tự. Ðối với thú vật thì chúng ta nuôi dưỡng đàng hoàng. Ðối với sách vở, chúng ta cẩn thận xếp gọn trên kệ sách. Như thế gọi là cung kính đối với vật. Còn làm việc thì chúng ta phải có trách nhiệm, siêng năng hết lòng làm cho thật tốt, gọi là cung kính đối với việc làm.
Ðối với người, vật, cũng như đối với việc làm đều phải tỏ ra thái độ bình đẳng cung kính. Ðây là đại hạnh của Bồ tát Phổ Hiền. Cho nên chư Bồ Tát tu tập lục độ vạn hạnh đến khi rộng lớn, tròn đầy thì gọi là Hạnh Phổ Hiền. Từ ý nghĩa nầy chúng ta cũng có thể nói Hạnh Phổ Hiền là phương pháp tu tập thù thắng, viên mãn nhất.
02- Thứ Hai Xưng Tán Như Lai
Chúng ta cần chú ý điểm quan trọng ở đây, nguyện thứ nhất nói:
- Lễ Kính Chư Phật.
Nguyện thứ hai lại nói:
- Xưng Tán Như Lai, mà Ngài không nói là: Xưng Tán Chư Phật?. Thật ra đây là một dụng ý rất sâu xa.
Bởi vì thứ nhất Lễ Kính Chư Phật là muốn nói về mặt hình tướng, đối với tất cả nguời thiện, kẻ ác, đối với tất cả chánh pháp, tà pháp đều nhất mực cung kính không hề phân biệt hoặc tỏ ra bất kính. Thứ hai là "Xưng Tán Như Lai" là nói về mặt Tánh. Ở đây, đối với người học Phật, tất cả các điều thiện chúng ta xưng tán, và tất cả các điều không lương thiện chúng ta không xưng tán đó là thái độ dứt khóat. Chỗ khác biệt giữa Lễ Kính Chư Phật, và Xưng Tán Như Lai là như vậy. Thầy Thiện Tài Đồng Tử trong năm mươi ba lần tham vấn đã có những điển hình như sau: Ngài đối với mỗi một vị thiện tri thức đều lễ kính tán thán, duy chỉ đối với ba vị, ngài lễ kính mà không có tán thán. Ba vị này là:
- Thứ nhất: Thắng Nhiệt Bà La Môn, một người ngoại đạo, đại diện cho si mê. Do đó Thiện Tài đồng tử chỉ cung kính mà không tán thán.
- Thứ nhì: Cam Lồ Hỏa Vương, tượng trưng cho sân giận,  vị này rất nóng tính, chỉ đắc tội với ông ta một chút liền bị trị tội, chẳng hạn như thả vào chảo dầu, bắt leo lên núi đao. Do đó Thiện Tài đồng tử ra đi trong cung kính mà không tán thán.
- Thứ ba: Phát Tô Mật Ða, là một dâm nữ, Thiện Tài đồng tử vẫn cung kính mà không tán thán.
Ba người này tiêu biểu cho Tham, Sân, Si là ba thứ độc phiền não, Ngài chỉ cung kính mà không tán thán. Do đó, Tán thán là dựa trên tiêu biểu tính đức:
- Nhứt định phải là hòan tòan Thiện,
- Nhứt định phải là Chánh Pháp
Hội đủ hai điều kiện nầy mới tán thán. Nếu không phải thiện pháp, không chánh pháp thì không tán thán, nhưng vẫn cung kính. Bởi vì cung kính là Tâm thanh tịnh, Tâm bình đẳng. Ðối với tôn giáo khác chúng ta cũng phải cung kính, nếu là chánh pháp, chánh giáo, chúng ta càng thêm tán thán. Như Ca Tô giáo là một tôn giáo, chủ trương ai theo chúa thì được lên thiên đàng, mặc dù chưa phải là cứu cánh nhưng vẫn tốt hơn đưa người xuống địa ngục! Do đó chúng ta nếu cần xã giao thì cũng có thể tán thán. Những Tà giáo dẫn dụ người tạo nghiệp, tạo tội đọa ba đường ác như các đạo thờ lửa, thiêu sống người để tế thần. Chúng ta tuyệt đối không tán thán. Cho nên điều nguyện thứ nhì so với điều nguyện thứ nhất trong mười nguyện có sự khác biệt to lớn như vậy. Hơn nữa trong điều nguyện thứ nhì muốn nói lên tâm địa của chúng ta là tâm địa tuyệt đối thanh tịnh viên mãn.
03- Thứ Ba Quảng Tu Cúng Dường
Như chúng ta đã biết tâm lượng của Bồ Tát Phổ Hiền là thứ tâm lượng rộng lớn không gì sánh bằng. Trong Phật pháp đại thừa gọi đó là khởi dụng của tánh đức tròn đầy. Những vị Bồ Tát khác tuy đã kiến tánh nhưng chưa được tròn đầy cho nên sự khởi dụng của tánh đức mới chỉ là một phần thôi. Duy chỉ có tánh đức Phổ Hiền Bồ Tát mới là Khởi Dụng tròn đầy. Bởi vì mỗi điều nguyện của ngài đều rộng lớn như tận hư không biến pháp giới. Ðây là điểm khác biệt so với chư vị Bồ Tát tu Lục Độ Vạn Hạnh. Ðối với ngài cúng dường một người là cúng dường tất cả, cúng dường một vị Phật, là cúng dường tất cả các Phật, không phải chỉ cúng dường riêng những vị Phật đã thành Phật; mà đối với tất cả các lòai hữu tình và vô tình cũng đều như thế. Vì tất cả là một, một là tất cả. Ðây là phương pháp tu học của Bồ Tát, và cũng là cảnh giới của Hoa Nghiêm mà chúng ta thường được nghe nói đến. Với tâm lượng như vậy mới hoàn toàn thoát khỏi sự phân biệt và giới hạn. Vì vậy Ngài Phổ Hiền thường dạy chúng ta rằng:
- Trong tất cả cúng dường, cúng dường pháp là tối thượng.
Bởi vì chỉ có Phật pháp mới chỉ dạy cho chúng sanh phá mê khai ngộ, giúp chúng ta chứng đắc, hồi phục tự tánh tròn đầy của mình. Những việc cúng dường bố thí khác không thể đạt được. Trong pháp cúng dường, pháp: Y Theo Lời Chỉ Dạy mà tu, đó là cúng dường hàng đầu. Tôi xin đặc biệt nhắc quý vị điều này, Phật pháp là thầy dạy đạo. Cho nên chúng ta nhất định phải kính thầy trọng đạo, y theo sự chỉ dạy của thầy mà tu học, chúng ta sẽ đạt được công đức, lợi ích vô cùng thù thắng không gì sánh bằng. Nói đến Phật pháp, trong thời gian đầu thì hầu hết chư tôn đức đều nhất trí công nhận kinh Hoa Nghiêm là bộ kinh đứng đầu. Từ đó kinh Hoa Nghiêm được xem như môn học đạt mức cứu cánh, viên mãn nhất trải qua nhiều thế kỷ. Nhưng về sau đó chư tôn đức một lần nữa đem so sánh kinh Vô Lượng Thọ với Kinh Hoa Nghiêm, các ngài cho rằng kinh Vô Lượng Thọ là bộ kinh hàng đầu. Bởi vì Chư cổ đức nói rằng: Hoa Nghiêm, Pháp Hoa là hai bộ kinh lớn và quan trọng duy nhất, được xưng là nhất thừa viên giáo trong Phật pháp Trung Hoa. Tuy nhiên hai bộ kinh nầy đều là sự dẫn nhập của kinh Vô Lượng Thọ, chính vì thế kinh Vô Lượng Thọ mới thật sự là bộ kinh đứng đầu trong những bộ kinh quan trọng.
Trong kinh Vô Lượng Thọ có tất cả bốn mươi tám phẩm. Chúng ta đã hiểu rõ kinh Vô Lượng Thọ là bộ kinh đứng hàng đầu trong các kinh, cũng là bộ kinh chính yếu mà chư Phật Như Lai dùng để hoằng dương độ sanh. Ngoài ra những bộ kinh khác là bổ xung cho bộ kinh này. Trong bốn mươi tám phẩm, phẩm thứ sáu là quan trọng nhất. Phẩm này do chính Phật A Di Ðà tự nói, đức Thích Ca Mâu Ni thuật lại. Bởi thế cho nên nói:
- Phật Phật đạo đồng.
Nghĩa là:
- Phật với Phật, mối đạo đều cùng một hướng.
Đức Phật Thích Ca thuật lại cũng như chính đức Phật A Di Ðà nói vậy. Bây giờ chúng ta triển khai toàn bộ kinh Vô Lượng Thọ. Ðức Thích Ca Mâu Ni giới thiệu hình ảnh của thế giới Tây phương Cực lạc, không một câu nào trái ngược với bốn mươi tám lời nguyện của Đức Phật Di Đà, mà là từng câu từng chữ một cả đều tương ưng, liên quan mật thiết.  Tuy nhiên trong bốn mươi tám nguyện, của Đức Phật A Di Đà theo chư vị cao tăng đại đức từ xưa đến nay đều công nhận là nguyện thứ mười tám là cần nhất cho những ai tu Tập Pháp Môn Nhị Lực. Bởi vì nội dung của nguyện nầy là: Mười niệm vãng sanh. Mặc dầu nói mười niệm, nhưng nếu nhất tâm chỉ cần Một niệm cũng được vãng sanh. Như vậy mới chứng tỏ cảnh giới của Phật pháp thật sự viên mãn, thù thắng không thể nghĩ bàn.
            Ngài Ðế Nhàn dạy cho đệ tử của Ngài chỉ một câu niêm: A Di Ðà Phật, và người đệ tử đó chuyên tâm trì niệm suốt ba năm, đến lúc mãn phần vị đệ tử biết rõ ngày giờ mình ra đi, và đã vãng sanh trong tư thế đứng thẳng. Sự vãng sanh này chắc chắn là được dự vào bậc thượng phẩm thượng sanh chứ không phải tầm thường. Ông đã ra đi trong thế đứng, và đứng suốt ba ngày để chờ đợi sư phụ ông đến chôn cất. Như thế mỗi câu niệm Phật của ông đều tương ưng và thành tựu như lời nguyện thứ mười tám của Phật A Di Ðà đã phát nguyện. Vì vậy nếu ai tin được pháp môn này, người đó nhất định là người có nhiều thiện căn, nhiều phúc đức. Nói theo kinh Vô Lượng Thọ thì người này đã từng cúng dường vô lượng chư Phật Như Lai mới có thể Tín, Thọ, Phụng Hành, vì nếu không có căn lành sâu sắc, thì dù có khuyên bảo thế nào thì người đó cũng không tin.
Danh hiệu A Di Ðà có vô lượng nghĩa, nhưng nghĩa rốt ráo là:
- Tận hư không biến pháp giới
Tức là bao gồm hết tất cả. Như vậy toàn bộ kinh Vô Lượng Thọ chỉ để giải thích một danh hiệu này thôi. Danh hiệu này là toàn bộ Phật giáo, trùm hết hư không, trải khắp pháp giới và gồm thâu tất cả các pháp. Do đó niệm một câu A Di Ðà Phật là niệm đủ tất cả.
Ngày xưa, vào triều đại nhà Thanh, có một vị pháp sư lỗi lạc trong lịch sử Phật giáo Trung quốc đó là Ngài Từ Vân Quán Ðảnh pháp sư.Õ Ngài có nhiều trước tác, trong đó có bài Kinh Vô Lượng Thọ Chỉ Quán. Ngài nói:
            - Người thế gian cầu tai qua nạn khỏi, dùng kinh, dùng chú hoặc dùng phương pháp sám hối đều có hiệu lực. Nhưng với người tội chướng sâu nặng thì tụng kinh bái sám không có tác dụng. Công đức của câu A Di Ðà Phật mới có thể tiêu trừ nghiệp chướng và tội nạn. Rất tiếc nhiều người không tin, không hiểu, thường dùng công đức tụng kinh Dược Sư cho hết bịnh hoặc tụng Phổ Môn để được tai qua nạn khỏi, thực tế công đức của câu A Di Ðà Phật vượt bực hơn mọi thứ công đức.
Thực ra chỉ cần một câu niệm A Di Đà Phật cũng đủ, nhưng chúng ta thấy đức Thích Ca Mâu Ni Phật lại đem đủ thứ kinh, chú, sám pháp để nói với chúng ta, bởi vì chúng ta không tin, không chấp nhận nên ngài phải phương tiện đem loại hàng thượng hạng này tái chế. Người đời không hiểu rõ được công đức của câu niệm A Di Ðà Phật, Thế Tôn bất đắc dĩ phải nói đủ thứ kinh để phương tiện dẫn dắt chúng sanh hướng về thế giới Cực lạc là như vậy. Chúng ta hiểu rõ được đường lối tu tập, để chuyên tu, chuyên hoằng dương Tịnh Độ Tông cũng là nhờ sự gia hộ của Tam Bảo, đồng thời căn cơ của chúng sanh đời này đã chín mùi.
Tóm lại chúng ta y theo pháp môn này tu và đẩy mạnh truyền bá rộng rãi pháp môn này. Chúng ta đã thực hiện đầy đủ ý nghĩa câu:
- Quảng Tu Cúng Dường.
Phương tiện tiếp dẫn của chư Phật-Bồ tát thật là vô lượng vô biên, đây chính là sự biểu hiện của tâm đại từ đại bi nơi các Ngài, để rồi sau cùng đều dẫn về Thế giới cực lạc của đức A Di Ðà Phật.
Hiểu dược như thế mới biết rằng tám vạn bốn ngàn pháp môn đều trở về một nơi! Phật vì muốn dẫn dắt chúng sanh căn tánh không giống nhau cho nên phải hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức, chúng sanh muốn học thứ gì các Ngài dạy thứ đó. Sau cùng khi trở về nhà, mọi người gặp được Phật A Di Ðà, mới biết thì ra tất cả đều giống nhau.
Khi biết rõ được sự thật như vậy rồi, đối với bất cứ một tông phái, một pháp môn nào, chúng ta đều phải chân thành cung kính. Bởi vì phương pháp tu học tuy khác nhưng mục đích hòan tòan giống nhau.
04- Thứ Tư Sám Hối Nghiệp Chướng
Nghiệp chướng, con người ai cũng có. Vừa khởi Tâm động Niệm là đã tạo nghiệp và sanh chướng ngại rồi.
- Chướng: Là ngăn trở Bổn tánh của chúng ta. Trong bổn tánh chân thật của chúng ta, vốn nó tự đầy đủ vô lượng trí tuệ và đức năng khôn cùng. Nhưng vì sao tất cả những trí tuệ, đức năng thần thông đó, bây giờ không còn xử dụng được nữa, đó là vì do chướng ngại.
Chướng ngại chia làm hai loại chính:
- Thứ nhất là phiền não chướng.
- Thứ hai là sở tri chướng
Ðối với sở tri chướng chúng ta không nhũng tiếc rẻ không tiêu trừ nó, mà mỗi ngày còn tạo thêm nhiều hơn. Trong kinh Hoa Nghiêm, Phật dạy chúng ta rằng:
            - Tất cả chúng sanh đều có trí tuệ, đức tướng giống Như Lai, do vì vọng tưởng, chấp trước mà không thể chứng đắc" .
Qua câu nói này Phật đã chỉ rõ tận gốc căn bệnh của chúng ta cũng giống như Bác sĩ trong nháy mắt đã tìm ra nguyên nhân gây ra bệnh tật đó là:
- Vọng Tưởng là gốc của Sở Tri Chướng
- Chấp trước là gốc của Phiền Não Chướng
Cho nên việc tu học Phật pháp không có gì khác, dù có vô lượng pháp môn, phương pháp, cách hành trì có khác nhau, nhưng cuối cùng cũng đều giúp chúng ta Ðọan Vọng Tưởng, Phá Chấp Trước. Một khi đã phá sạch hai thứ chướng này sẽ Kiến Tánh Thành Phật. Cho nên Sám hối nghiệp chướng trong việc tu học là mấu chốt quan trọng. Tất cả các pháp tu học đều vì sám hối nghiệp chướng. Tuy nhiên, nghiệp chướng không phải dễ mà đoạn trừ được! Nhưng nếu còn nghiệp chướng thì việc tu học quyết định không thể thành tựu!
Trong vô số pháp môn, pháp môn Tịnh độ dễ hành trì và có kết quả thù thắng nhất, cho dù chúng ta tạo nhiều nghiệp tội sâu dầy. Ngay cả tạo tội ngũ nghịch phải đọa địa ngục A Tỳ, nghiệp chướng tuy chưa sám hối, tiêu trừ hết, chỉ cần phát lòng chân thành nguyện từ nay sửa đổi. Niệm hồng danh A Di Đà Phật cầu sanh Tịnh Ðộ, thì bao nhiêu tội chướng cũng sẽ tiêu hết, lập tức có thể thành Phật.
Tuy nhiên, trong khi niệm tâm của chúng ta cũng phải tương ưng với tâm của Phật A Di Ðà. Hành, Giải của ta cũng phải tương ưng với Hành, Giải của Phật A Di Ðà. Được gọi là Hành Giải Tương Ưng có nghĩa là khi quý vị tụng kinh Vô Lượng Thọ, quý vị phải siêng năng nỗ lực làm theo tất cả những đạo lý, lời dạy trong kinh, được như thế gọi tương ưng. Như vậy, quý vị mới là người niệm Phật chân chính. Do vậy niệm Phật tuyệt đối không phải là:
- Hữu khẩu Vô tâm
Nghĩa là:
- Miệng niệm Phật mà lòng thì suy nghĩ vẩn vơ,
Niệm Phật như vậy thì không được một chút lợi ích gì hết. Trong khi niệm Phật, tâm mình nhất định phải giống với tâm của Phật, nguyện mình giống với nguyện của Phật, không một chút sai khác. Ðem bốn mươi tám đại nguyện của ngài biến thành bổn nguyện của chính mình. Như thế mới là chân chính niệm Phật, và thật sự tiêu trừ hết tất cả nghiệp chướng
05- Thứ Năm Tùy Hỷ Công Đức
Nguyện thứ năm là Tùy Hỷ Công Đức là dùng để đối trị với bịnh phiền não nặng nề của phàm phu đó là sự đố kỵ. Tâm đố kỵ đã hình thành và theo chúng ta nhiều đời kiếp đến nay. Quý vị hãy xem một đứa trẻ, khi cho nó ăn kẹo khi thấy đứa khác được nhiều hơn, tâm đố kỵ của nó liền biểu hiện ra một cách tự nhiên! Tâm đố kỵ là một chướng ngại lớn đối với việc tu học. Cho nên, Ngài Phổ Hiền Bồ Tát, mới đặc biệt đề ra nguyện: Tùy Hỷ Công Đức này để dạy cho chúng ta. Chúng ta không những không đố kỵ với người khác mà còn phải sanh tâm vui vẻ khi thấy, biết, cái đẹp, cái tốt của họ để hết lòng giúp đỡ họ hoàn thành việc làm tốt đẹp. Nếu chúng ta không đủ khả năng, không thể giúp đỡ, nhưng chúng ta có lòng vui vẻ ca ngợi, như thế cũng gọi là tùy hỷ công đức. Trường hợp chúng ta có khả năng lại không chịu giúp đỡ, mặc dù không có tâm đố kỵ như vậy không thể gọi là tùy hỷ. Cho nên trong lúc tùy hỷ không những không mang tâm đố kỵ mà còn hết lòng giúp đỡ nữa, mới thật sự là tùy hỷ.
Chúng ta phải luôn nhớ rằng khi giúp người khác thành tựu chính là thành tựu cho mình. Bởi vì công đức tùy hỷ thù thắng nhất chính là:  Tâm rộng rãi vui vẻ, chấp nhận người khác vượt bực hơn mình.
Do đó, người nào muốn hóa độ cho họ, cần phải có tâm thanh tịnh hơn, trí tuệ cao hơn, đức hạnh thâm hậu hơn, thì mới có thể ứng phó với thời cơ và thời đại hiện tại, cho nên "tùy hỷ công đức" rất là quan trọng.
Tóm lại, đố kỵ, sân hận đều có tác hại trầm trọng đến tự tánh của chúng ta. Cần phải nhổ tận gốc rễ, phương pháp dùng để nhổ tận gốc đó là tùy hỷ công đức.
06- Thứ Sáu Thỉnh Chuyển Pháp Luân
Là Phật tử, chúng ta nhận sự giáo dục của Phật và được lợi ích chân thật, vậy chúng ta phải dùng phương pháp này để báo đáp Thầy, Phật.
Chúng ta cảm niệm ân đức của Ngài, mỗi ngày dâng hương, hoa, quả, cúng dường trước hình tượng của Phật, Bồ Tát. Dâng cúng trước hình tượng hoặc lễ bái cúng dường, những việc đó chỉ là dựa trên nghi thức nhằm nhắc nhở chúng ta luôn luôn tôn kính biết ơn và đền ơn Ngài.  Tuy nhiên sự báo ân chân chính là làm thế nào để thực hiện được nguyện vọng của Phật. Tâm nguyện của Phật là mong muốn tất cả chúng sanh đều được nghe chánh pháp, y theo giáo pháp tu học, sớm đạt thành quả vị Phật.
Ðể thực hiện tâm nguyện của Ngài, chúng ta phải lấy Tâm Phật làm Tâm của mình. Như thế, mới thật sự gọi là báo đáp ân Phật. Mà báo đáp ân Phật một cách chân chính tức là:
- Thỉnh chuyển pháp luân.
Từ ngữ này, nói theo ngôn ngữ hiện nay là lễ thỉnh Pháp Sư, Ðại đức đến giảng kinh thuyết pháp, hoằng pháp lợi sanh. Sự lễ thỉnh này có phúc đức vô cùng to lớn, bởi vì làm như vậy chính là mang pháp đến cúng dường cho cả một khu vực. Tuy rằng việc giảng pháp do Pháp sư đảm trách, nhưng nếu không có người trợ duyên lễ thỉnh các vị Pháp sư, Giảng sư thì các vị đó không thể tự động đến giảng. Nên nói phúc đức của người lễ thỉnh lớn lắm là vậy.
Khi nói đến tu phước, dù tu riêng cho cá nhân hoặc vì đại chúng hay vì người quá cố như tổ tiên, ông bà, cha mẹ, thân nhân v..v.. Công đức tụng kinh rất lớn. Nếu có thể nhân đó thuyết pháp thì công đức càng nhiều gấp bội. Việc tụng kinh giúp người gieo trồng được một ít thiện căn, nhưng không hiểu ý nghĩa thâm áo bên trong. Nếu thỉnh Pháp sư giảng giải thì được thông suốt mọi điều trong kinh. Do hiểu ý nghĩa trong kinh mà sanh tâm ưa thích trì tụng, y giáo phụng hành. Cho nên phúc đức của việc giảng kinh so với việc tụng kinh lại lớn hơn không biết bao nhiêu lần.
Cho nên người không tu, thì không dám nhận sự cúng dường và hưởng thụ sự cúng dường. Ngay cả chư Phật, Bồ Tát cũng không hưởng thụ sự cúng dường. Nhưng nếu có người đến cúng dường với lòng chân thành, muốn gieo trồng ruộng phước, đương nhiên chúng ta không thể từ chối, tuy nhiên sau khi thọ nhận của cúng dường, chúng ta nhất định phải luân chuyển sự cúng dường đó. Ðem tài vật của những người cúng dường triển chuyển bố thí cúng dường, như vậy, cái phước của những người cúng dường và người nhận sẽ trở nên rộng lớn vô lượng vô biên. Bởi vì nếu dùng tài vật của người cúng dường để hưởng thụ cá nhân thì tuyệt đối không thể như Pháp. Cho dù dùng tài vật cúng dường của thí chủ để xây chùa, xây đạo tràng cũng phải vì mục đích hoằng pháp lợi sanh. Ðược như vậy người bố thí cúng dường mới thật sự có công đức. Nếu như ở trong chùa mà không tu hành, cũng không hoằng pháp, ngôi chùa đó sẽ trở thành nơi tranh chấp. Cho nên cất chùa xây đạo tràng phải đặc biệt cẩn thận, mà Cúng dường Pháp sư phải hết sức thận trọng. Phật dạy chúng ta: Tứ sự cúng dường:
1- Ẩm Thực:
Pháp sư là người sống ở thế gian, không thể không ăn cơm, cho nên chúng ta cúng dường ẩm thực cho Pháp sư để duy trì mạng sống của họ
2- Y Phục:
Pháp sư cũng cần có áo quần để mặc. Nếu áo của Pháp sư cũ rách, ta nên cúng dường cho họ một bộ, khi thấy còn tốt thì không cần thiết cúng dường.
3- Y Dược:
Khi Pháp sư có bịnh, chúng ta cúng dường thuốc uống để chữa bịnh cho họ.
4- Ngọa Cụ:
Pháp sư cũng cần có chỗ nghỉ ngơi, chúng ta cúng dường giường, mền vân vân.
07- Thứ Bảy Thỉnh Phật Trụ Thế
Như nguyện thứ sáu nói:
- Thỉnh Chuyển Pháp Luân
Mục đích chính là truyền bá Phật pháp. Ðem Phật pháp phổ biến, truyền bá giới thiệu cho mọi người.
Trong cuộc đời của chúng ta, sự tu học muốn đạt đến mức thành tựu, nếu chỉ thỉnh chuyển pháp luân thì chưa đủ, mà chúng ta cần phải thỉnh Phật trụ thế nghĩa là thỉnh vị thầy tốt thường trụ, để có thể mỗi ngày chỉ dẫn chúng ta, khiến chúng ta trường kỳ được giáo huấn, từ đó mới đạt đến chỗ thành tựu. Chúng ta muốn thành tựu, nhất định phải Thỉnh Phật trụ thế. Phật đã nhập diệt rồi, không phân biệt là người xuất gia, hoặc tại gia cư sĩ, chỉ cần họ là người tu hành chân chính, có học, có đạo hạnh, có thể làm gương mẫu cho chúng ta, chỉ dạy cho chúng ta tu học. Chúng ta đều nên thỉnh họ thường xuyên ở lại nơi đây, khiến cho vùng này được sự giáo huấn trường kỳ, như thế mới có sự thành tựu chân chính. Cho nên ngoài việc muốn thành tựu thỉnh chuyển pháp luân, nhất định phải phát tâm chân chính thỉnh Phật trụ thế. Nếu chúng ta là người Phật tử thuần thành, thật sự muốn đạt được lợi lạc trong Phật pháp, chúng ta phải dẫn đầu trong việc lễ thỉnh Pháp sư, Ðại đức ở một chỗ và tận tâm tận lực cúng dường.
Những vị Ðại đức chân chính, cuộc sống của họ rất đơn giản, rất dễ chiếu cố, đây là đạo lý tất yếu. Ðạo tràng là nơi tiếp đón đại chúng. Do đó phải trang nghiêm, nếu không người ta sẽ nghĩ:
- Ðạo tràng này chắc cũng chẳng ra gì!  
Nếu như đạo tràng trang nghiêm đẹp đẽ họ sẽ nghĩ:
Ồ! Chỗ này chắc cũng được lắm và tự nhiên sanh tâm vui vẻ cung kính.
Bởi vì, đa số người ta chỉ ham chuộng bề ngoài, không biết được nội dung bên trong. Do đó, chúng ta cũng cần phải làm cho hình dáng bên ngoài coi được một chút mới thu hút nhiều người tới. Mặc dù nói người biết được gía trị của đồ vật không chuộng bề ngoài, nhưng để hấp dẫn đại chúng, một đạo tràng trang nghiêm cũng cần thiết lắm. Tuy nhiên, đạo tràng càng trang nghiêm lộng lẫy bao nhiêu, thì nơi sinh hoạt ăn ở của người tu thì phải hết sức đơn giản bấy nhiêu. Cảnh này nếu chúng ta chịu khó để ý chúng ta sẽ thấy rõ. Các Chùa ở Việt Nam xây theo kiểu cách vô cùng trang nghiêm. Tuy nhiên, phòng ở của người xuất gia thì lại rất đơn sơ, phòng của trụ trì cũng thế. Ðiểm này cho ta thấy bề mặt lộng lẫy trang nghiêm của đạo tràng, mục đích là để thu hút đại chúng. Chúng ta cần quan sát để hiểu, sau đó mới biết nên dùng thái độ gì, phương pháp và nghi thức nào để thỉnh Phật trụ thế, khiến Phật pháp thật sự ở một địa phương có thể xuống gốc ra rễ, khai hoa, kết trái.
Trong mười nguyện Phổ Hiền, bảy nguyện ở trên là hạnh nguyện của Bồ Tát, ba nguyện sau là hạnh hồi hướng của Bồ tát.
08- Thứ Tám Thường Tùy Phật Học
Thường tùy Phật học là nói cho chúng ta rõ:
- Phật là tấm gương, là điển hình, là mô phạm cho chúng ta học hỏi.
Nay Phật không còn tại thế, kinh điển của Ngài vẫn còn, chúng ta y theo kinh điển tu hành. Ðó là Thường tùy Phật học, là tiêu chuẩn tối cao cần có để tu học Phật pháp.
09- Thứ Chín Hằng Thuận Chúng Sanh
Nghĩa là đối với tất cả hữu tình chúng sanh nhất định phải thuận. Thuận là điều rất khó làm, cho nên người Việt Nam, trong một gia đình người con có hiếu với cha mẹ, thường nói chữ Hiếu kế tiếp nói chữ Thuận, không thuận tức là không hiếu. Học Phật là đại hiếu, đại thuận với chúng sanh, ở trong hằng thuận để quán cơ duyên, hướng dẫn chúng sanh bỏ ác làm lành, giúp họ phá mê khai ngộ. Nhất định phải biết rõ nhân duyên thời tiết, khi nào, phải làm gì. Ðược như vậy mới gặt hái được kết quả lợi ích viên mãn. Cho nên phải có trí tuệ, phương tiện thiện xảo mới có thể hằng thuận chúng sanh.
10- Thứ Mười Phổ Giai Hồi Hướng
Là đem tất cả những công đức mà chúng ta tu học được đều hồi hướng trọn vẹn đến tất cả Pháp giới chúng sanh, hồi hướng Bồ đề, hồi hướng đến thật tế, trải rộng tâm lượng của chúng ta đến tận hư không, khắp pháp giới, đó chính là chân ngã. Ðạt đến cảnh giới này mới gọi là đại viên mãn.
Tóm lại, nếu chúng ta y cứ vào Pháp Môn Nhị Lực để chúng ta tu học, thì chúng ta phải y cứ vào tôn chỉ của Ngũ Kinh, Nhất Luận, nghĩa là chúng ta phải y cứ vào năm quyển kinh, một quyển luận. Năm kinh đó là:
- Kinh A Di Ðà,
- Kinh Vô Lượng Thọ,
- Kinh Quán Vô Lượng Thọ,
- Phẩm Phổ Hiền Bồ Tát trong kinh Hoa Nghiêm,
- Chương Ðại Thế Chí niệm Phật viên thông trong kinh Lăng Nghiêm.
Và:
- Nhất luận là Vãng sanh luận của Bồ Tát Thế Thân.
Về phương pháp tu học có năm đề mục:
1-  Tam Phước (Ba Thứ Phước)
a- Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm không sát sanh, tu mười thiện nghiệp.
b- Thọ trì Ba Quy Y,  thọ Giới Cụ Túc, không phạm oai nghi.
c- Phát bồ đề tâm, tin sâu lý nhân quả, đọc tụng kinh đại thừa, khuyến tấn mọi người cùng tu.
2-  Sống với nhau trong tinh thần Lục hòa
3- Trau giồi Giới, định, tuệ
4- Thực hành Lục độ
5- Thực tập theo mười đại nguyện.
Những đề mục trên rất đơn giản rõ ràng, không một chút phức tạp. Chúng ta trọn đời dựa theo nguyên tắc này để tu học, quyết định thành tựu, và chắc chắn đúng như lời chư cổ đức thường nói:  
- Vạn người tu, vạn người vãng sanh.
Chúng ta có luận cứ rồi, có phương pháp tu hành rồi, vì vậy trong những sinh hoạt hàng ngày, chúng ta phải biết dùng thái độ, tâm thái nào khi chúng ta đối với người, với vật. Làm theo năm đề mục trên đây thì nhất định không sai. Sau đó nhất tâm niệm Phật để cầu vãng sanh, thì chắc chắn không một ai mà không thành tựu.
-- o0o --