-
Con Ðường Ðầy Sen Búp
-
Bài thuyết pháp tại Chùa Dược Sư
-
Giác Thanh Ghi
-
--o0o--
-
-
Hôm nay là ngày 11 tháng 04 năm 2003
-
Bài pháp chúng tôi muốn giới thiệu đến đại chúng hôm nay là:
Con Đường Đầy Sen Bụp
-
Pháp môn Nhị Lực hay Pháp Môn Thiền Tọa, Niệm Phật, và Kinh
Hành là một Pháp Môn tuy đơn giản nhưng có hàm ý thâu nhiếp
năm giáo Ðức Phật nói, có khả năng làm lợi ích ba hạng người:
-
-
Thượng Căn
-
-
Trung Căn
-
-
Hạ Căn
-
Có thể nói đây là một thời giáo rất rộng rất lớn, là pháp rất
đơn giản dễ dàng. Do vậy mà chúng ta không ngạc nhiên khi thấy
trong các Kinh, Luận, nơi nào cũng có ca ngợi tụng, tuyên
dương, và chư Phật trong mười phương tuy là khác miệng, nhưng
đồng âm xưng tán và khuyên bảo mọi người phải tin tưởng. Trong
hiện đời được chư liệt vị Cao Tăng, Ðại Ðức xưa nay nhất tâm
hoằng dương. Bởi vì Pháp Môn Nhị Lực nầy ngoài việc tự chúng
ta hành trì còn gồm có cả Phật lực hổ trợ, cho nên nếu có hành
trì dốc lòng Niệm Phật, Thiền Tọa và Kinh Hành thì chắc chắn
sẽ được vãng sanh về một trong chín phẩm liên hoa. Cho nên
trong Kinh Ðại Tập đức Phật chỉ dạy đại chúng:
-
-
Trong thời đại đạo đức luân lý không được coi trọng, tuy có
nhiều người tu hành, nếu có người đắc đạo, thì đó là người đã
nương nơi Niệm Phật, Thiền Tọa và Kinh Hành, sẽ được qua khỏi
sinh tử.
-
Bậc cổ đức cũng có nói rằng:
-
-
Học Ðạo nếu thực tập theo các pháp môn khác, thì chẳng khác
nào như con kiến lên ở núi cao; trong khi đó Niệm Phật, Thiền
Tọa và Kinh Hành thì được vãng sanh giống như ghe buồm đi
thuận gió.
-
Như vậy trong Kinh Phật cũng dạy, và lời chư Tổ cũng thường
khuyên nhắc Niệm Phật, Thiền Tọa và Kinh Hành, chúng ta là đàn
hậu học nếu là kính Phật trọng Tăng thì phải nên cố gắng nghe
lời khuyên dạy để sanh tín tâm, phát nguyện Niệm Phật, Thiền
Tọa và Kinh Hành đề cầu sanh về thế giới Cực Lạc. Từ xưa đến
nay những người tu trì Pháp Môn trì danh Niệm Phật, Thiền Tọa
và Kinh Hành được thành tựu rất nhiều. Lý do như có lần chúng
tôi nói, đó là Pháp Môn tuy giản dị, nhưng rất là thù thắng,
có thể vượt bực, không cần trải từng giai đọan để từ phàm phu
sanh thẳng về Tây Phương Cực Lạc. Vì đây là phương pháp rất
đơn giản, khiến mọi người không dám tin, nhưng với những thành
tích mà Chư Tổ đi qua, đã lưu lại cho hậu thế như chúng ta đã
thấy thì không thể không tin. Ðể trợ duyên cho những ai có tín
tâm, và trên đường đi vào Phật đạo đầy hoa sen búp, chúng ta
cần phải chỉnh đốn lại oai nghi, và cách hành xử của chúng ta,
mà theo thuật ngữ thế gian gọi là tu hành:
-
A- Khép Mình Trong Khuôn Mẫu
-
01- Hành Vi Hằng Ngày
-
Trong cuộc sống hằng ngày hành vi sinh hoạt của chúng ta khó
mà tránh khỏi những sai lầm, chúng ta biết như vậy thì sửa cho
chính lại những hành vi sai lầm, gọi là tu hành. Như vậy tu
hành là sửa những hành vi sinh hoạt trong cuộc sống hằng ngày.
Nên nhận thức rằng năm trần:
-
-
Sắc,
-
-
Thinh,
-
-
Hương,
-
-
Vị,
-
-
Xúc
-
Tất cả điều là hư giả cho nên chúng ta không nên thọ dùng,
không thể để ái nhiểm làm hoen ố, lại càng không được chấp
trước.
-
02- Lập Trường Dứt Khoát
-
Là một người học Phật, trước nhất chúng ta cần phải có một lập
trường dứt khoát, và có cái nhìn cho rõ ràng. Nghĩa là tin
Phật là tin Phật, mà tu hành học Phật là tu hành học Phật.
-
a- Tin Phật
-
Là đọc một vài quyển kinh, lạy một vài hiệu Phật, hoặc niệm
một vài tiếng Phật, ngồi tỉnh tọa giử năm giới, làm chút việc
thiện, đời sau sinh lên cõi trời hoặc nhà giàu có. Cầu giàu
có, cầu bình an, cầu gia hộ... Dính mắc nặng nề cuộc sống vật
chất, hưởng năm dục của nhân gian, ăn ngon, mặc đẹp, ở sang,
tận tình ăn uống vui chơi, tất cả là những nhân không lành
mạnh cần phải chỉnh đốn lại.
-
b- Tu hành học Phật.
-
Là cần phải nương theo lời dạy, như Pháp mà tin thọ chịu làm,
ngoài vấn đề trì giới, bố thí, còn cần phải tự thanh tịnh ý,
Nhẫn Nhục, Tinh Tấn, thọ trì một phương pháp nào đó, tức là
phương pháp đó cần phải chuyên tâm nhất ý. Có chuyên tâm nhất
ý thì mới ra khỏi luân hồi ba cõi, sáu đường từ bỏ khổ đau,
được vui tươi hạnh phúc cho đến lúc thành Phật.
-
03- Người Học Phật Cần Có Chánh Tín
-
Vì Chánh tín rất là trọng yếu. Có chánh tín thì con đường đi
vào Ðạo sẽ nở đầy sen búp, sẽ vãng sanh về thế giới Cực Lạc.
Không chánh tín mà niệm Phật, tu phước, thì đời sau giàu có,
giàu có thì sinh cuộc sống hưởng thụ. Tâm phàm phu mà sống đời
hưởng thụ thì dể làm ác, tạo các nhân xấu, có thể đời này niệm
Phật, đời sau hưởng phước, nhưng đến đời thứ ba phước hết thì
rơi rớt vào ba đường ác. Nếu có gặp phải hoàn cảnh nầy thì gọi
là làm oán ba đời. Bởi vậy chúng ta là người học Phật thì nên
sanh tín tâm chân chánh.
-
04- Không Ðam Mê
-
Là người học Phật cũng không nên đam mê ở nơi nhiều kiểu dáng,
nhiều trạng thái của hiện tượng vật chất, mà quên bẵng đi cội
nguồn sinh mạng là ở nơi cõi tinh thần. Vì thế trong Kinh Phật
thường nói:
-
-
Chúng sinh bội giác hiệp trần.
-
Nghĩa là:
-
-
Chúng sanh thích quay lưng lại với sự giác ngộ, để đi tìm trần
lao khổ lụy.
-
Vì thế mà buông bỏ sự giải thoát để đi tìm cầu sự phú quí vinh
hoa. Cũng vậy, người tu hành nếu không đánh thức Phật tánh ở
bên trong, cũng chỉ là ưa thích cái xấu tệ hại, cạn cợt trọn
đời của Sắc, Thanh, Hương, Vị, Xúc, Pháp ở bên ngoài. Ðó là lý
do vì sao danh vọng, sự nghiệp, cơ đồ, hiển hách, cũng có một
ngày rơi rớt lụn bại và vì sao quyến thuộc ân ái thân mật cũng
có lúc phân ly.
-
05- Hoằng dương Phật Pháp
-
Theo quan niệm xưa, Hoằng dương Phật Pháp là việc của chúng
xuất gia, trong khi đó chúng tại gia chỉ tin Phật trồng nhân
thiện, được phước báo trời người, đời sau hưởng phước. Tuy
nhiên theo quan niệm ngày nay, chúng tại gia cũng có thể tham
gia vào công việc hoằng dương Phật Pháp bằng cách hành trì rất
mực nghiêm minh thì cũng thành tựu được đạo nghiệp. Có nghĩa
là phải dứt khoát trần duyên, tinh tấn học Phật, hành trì thì
sẽ được vãng sanh thế giới Cực Lạc, có được như vậy thì gọi
là:
-
-
Thân đó tại gia, nhưng Tâm thì đã xuất gia.
-
Ngược lại nếu thân đã xuất gia mà còn muốn về nhà, trong tâm
tu còn lo cho con cháu, đứa này chưa dựng vợ, đứa kia chưa gã
chồng, thì gọi là:
-
-
Thân thì đã xuất gia mà tâm thì còn tại gia.
-
Trong trường hợp đi tu mà cứ nhớ nhung việc gia dình, việc
trên xã hội, dục lạc hưởng thụ, thì chúng ta nên cần phải cố
gắng dụng công nhiều hơn nữa mới có thể chế ngự được tâm. Do
đó việc tu hành, hay sứ mạng hoằng dương chánh pháp không phải
là phân biệt trên hình thức xuất gia hay tại gia, mà là phân
biệt trên tâm địa. Người tại gia mà có thể xã bỏ sự suy nghĩ
và công việc thế tục như: Phú quí, vinh hoa... các dục vọng,
thì cùng với người xuất gia như nhau. Người xuất gia nếu không
xã bỏ suy nghĩ và công việc thế tục, vẫn như người tại gia.
Nên biết rằng tu hành cần ở trên tâm địa, không phải ở trên
hình thức, do đó chúng ta không lạ gì khi thấy nhiều vị được
coi như là bậc cao nhân biện tài vô ngại, ngồi yên tham thiền
đã đạt đến Tam Thiền, Tứ Thiền, luôn luôn tay nắm tràng hạt
niệm Phật, mà ra không khỏi ba cõi, không được vãng sanh thế
giới Cực Lạc. Tức là miệng nói tu hành, nhưng chưa đem tâm tin
Phật để tu hành; thành ra trong tâm tư không có tiếng niệm
Phật bù lại có lo bận rộn với những sự:
-
-
So tính hơn thua
-
-
Bận rộn những sự việc gia đình,
-
-
Bận rộn những việc trên xã hội, ủng hộ. người nầy đả đảo người
kia,
-
-Bận rộn chuyện ăn uống vui chơi, dục vọng rất là nhiều, rồi
vọng giữ lấy, vọng sử dụng.
-
Nghĩa là trong tâm cứ bị hai cảnh thuận nghịch động chuyển, bị
tình thức bủa vây, bị ái chấp trói buột, không thấy rõ tình
đời, buông không được muôn duyên việc tục, lúc mạng chung tâm
sinh điên đảo, thì như vậy làm sao ra được ba cõi sinh tử để
vãng sanh thế giới Cực Lạc! Ngay cái thiện rốt cuộc cũng khó
đạt được.
-
Ðược gọi là cái thiện, là những gì chúng ta hợp ý thuận theo
với nhu cầu của chúng ta như:
-
a- Gặp được việc tốt, thấy được việc tốt, nghe được việc tốt,
tức là cảnh thuận. Gặp việc xấu, thấy việc xấu, nghe việc xấu,
tức là cảnh nghịch.? Cảnh thuận thì hớn hở vui cười, ở cảnh
nghịch thì u sầu khổ sở; tức là bị hai cảnh thuận và nghịch
chuyển. Nếu có thể ở cảnh thuận không vui vẻ, ở cảnh nghịch
không phiền toái, thuận nghịch điều không khỏi tâm động niệm;
vì ngay nơi khởi tâm động niệm thì lập tức bị hai việc thuận,
nghịch lay chuyển.
-
b- Vui giận, ưa ghét, ham muốn, đều là một chữ tình. Nếu làm
được những việc như:
-
-
Người có vi phạm mình cũng không tra xét,
-
-
Bị xúc phạm không giận đời,
-
-
Bị người làm tổn thương không oán hận...
-
Mà phải coi tất cả những việc đó như không, nếu có thể ngộ
được lý này thì tâm thường thanh tịnh, như Tịnh Ðộ vậy.
-
c- Cha mẹ, con cái, công danh, tiền bạc giàu có, văn chương
nghệ thuật, ngọc ngà châu báu... điều là những loại làm người
đời yêu thích. Nếu làm được việc có nó cũng như không có nó,
không nghĩ tưởng về nó. Ngược lại, trong tâm phải ý thức rằng
một khi ái còn tồn tại, thì lúc lâm chung bị cái ái nầy dắt
dẫn, theo những việc ái nhiễm mà đọa vào luân hồi sáu nẻo. Do
đây có thể biết một chử Ái chính là cội rể của sinh tử, là một
trở ngại lớn cho việc vãng sanh.
-
B- Cách Nhìn Phóng Khoáng
-
Sau khi nhận chân được những gì mà người học Phật chúng ta cần
làm, thì chúng ta phải tập nhìn với cái nhìn phóng khoáng. Bởi
vì theo tinh thần của người học Phật, thì chơn nghĩa của Phật
pháp cùng với cách nhìn của người đời không đúng, nhận biết
cũng chẳng đồng. Có những cái người đời cho là quí báu, nhưng
Phật Pháp lại cho là tầm thường, như là:
-
-
Châu báu ngọc ngà v.v...
-
Người đời tham ưa, nhưng Phật pháp lại xã bỏ như là:
-
-
Tiền bạc, giàu có, danh vọng, nam nữ...
-
Ở
trong con đường tu trì chúng ta cần phải biết rõ cái để tu trì
đó là Tâm, cho nên muốn tu trì thì chúng ta phải biết dùng cái
tâm thế nào để tu. Nếu là tâm phàm thì chỉ có thể tự cứu lấy
mình, nhưng nếu là tâm đạo, thì chúng ta cần phải tiếp nhận
kiểm tra cái đạo, cái đức, cái tâm của vô tình đó.
-
Cần phải biết rằng tâm con người tức là một cái Ðạo Tràng nhỏ.
Nếu phân biệt chánh tà, thiện ác, tật xấu, làm và không làm,
tất cả đều là ở nơi Tâm. Nếu chúng ta lặng yên suy nghĩ một
chút, thì có thể biết tâm chúng ta muốn cái gì. Phải biết rằng
sự khoái lạc của đời người là việc ngắn ngủi tạm thời, thế
giới Cực Lạc mải là niềm vui vĩnh hằng. Mục đích của tu hành
là cần giải thoát, vượt ra ba cõi, vãng sanh Cực Lạc; con
người điều có sinh, già, bệnh, chết, có những phiền não, mê
hoặc các việc, mà ngay lúc chúng ta giải quyết những phiền
não, mê hoặc của chúng ta thì gọi là giải thoát, giải thoát
những vấn đề trói buột, vây quanh, khổ đau, mê muội, những vấn
đề này điều là việc mà người tu hành cần phải nổ lực.
-
Tu hành là giải quyết những chướng ngại và vấn đề trên tâm
linh, cần phải để cho con đường đạo của nội tâm được thông
suốt. Tu hành không phải chỉ chú trọng công đức ở bên ngoài,
mà sơ sài, lơ là công đức bên trong. Công đức bên ngoài là Trì
Giới, Bố Thí... v...v... Công đức bên trong là Tâm Thanh Tịnh,
Bình Ðẳng. Nếu có nghĩ đông nghĩ tây, kiểu này cũng tốt, kiểu
kia cũng cần, dục vọng càng nhiều, thì tâm lại không thanh
tịnh. Bởi vì khi mà phiền não nổi dậy thì chúng ta không thể
nào nói đến đức hạnh. Ngay cả lời nói, hành vi, một cử chỉ
biểu hiện ra cũng không có sự tự nhiên bình tỉnh, thì huống
nữa là lúc họ giận dữ thì lời nói chắc chắn không thể nào nhu
hòa được. Như vậy, đối với tu hành, công đức bên ngoài cần
phải làm, và công đức bên trong càng cần phải Tu đó là:
-
-
Tu Huệ là tu bên trong nghĩa là chúng ta cần: Niệm Phật, ngồi
yên Tham Thiền, Tụng Kinh, Trì Chú.. v..v...
-
-
Tu phước là tu bên ngoài: Một chút việc ác cũng không nên làm,
còn việc thiện nên làm nhiều, thanh tịnh tự tâm, nhẫn nhục, ăn
toàn đồ chay.
-
Người học Phật chúng ta cần nên tu cả hai Phước và Huệ. Chỉ tu
Phước mà không tu Huệ, hoặc chỉ tu Huệ mà không tu Phước, thì
chúng ta sẽ không ra khỏi ba cõi, vãng sanh thế giới Cực Lạc
không được! Phước và Huệ cũng như hai cánh của một con chim,
nếu thiếu một thì không thể bay lên, Bởi vì Bố Thí, Trì Giới,
sinh phước Trời; Cũng như bắn mũi tên lên hư không, hết lực
rồi tên lại rơi xuống; Chuốt lấy đời sau không như ý. Giả sử
cầu được phước báo Trời Người, hưởng tột cùng phú quí vinh
hoa, cũng chỉ là Phước trong cõi đời năm trược, một ngày kia
hưởng hết rồi, lại không còn gì hết. Cái họa hoạn của tâm là:
Tham, Sân, Si... Và chổ thọ là năm dục: Tiền Tài, Sắc Ðẹp,
Danh Lợi, Ăn Uống, Ngũ Nghĩ.
-
Như thế chính thật là nhân khổ. Trong kinh dạy rằng:
-
-
Năm dục là gốc địa ngục, nếu năm dục không tiêu trừ thì trần
lao không ra khỏi.
-
Người tu hành tỉnh nghiệp tâm ham muốn riêng tư chẳng nên quá
nhiều, nếu như thân, miệng, ý không thanh tịnh thì sớm hay
muộn cũng chuốt lấy cái nhân họa. Cho nên nói rằng:
-
-
Không vì tật bệnh đau khổ mà phát tâm
-
-
Không vì cầu họ giúp nhà cửa của tiền mà phát tâm,
-
-
Không vì để tăng thêm phước thọ mà phát tâm;
-
-
Không vì báo đáp tình thân mà khởi niệm phát tâm.
-
Mà trái lại phải vô tâm ở nơi muôn vật, thì chúng ta không sợ
những vật chất chướng ngại vây quanh. Phàm phu có các món ác
duyên trói buộc, cho nên tu tập rất khó. Chổ nói đến của Phật
Pháp là Tâm Pháp, tâm không an thì có sự trở ngại, không thể
tu hành, cho nên chư Phật chư Tổ bảo chúng ta phải buông bỏ
hết tất cả các duyên.
-
Phàm phu do kiến chấp về Ngã sâu dày, phiền não nhiều đời thô
nặng, nên chướng ngại về cái biết. Kế đến là chấp người chấp
ta, chấp pháp chấp ta. Như thế hai chướng: Phiền Não Chướng,
Sở Tri Chướng và hai chấp, lại thêm tham dục, sân nhuế, si mê,
nhân đó mà tạo nghiêp, trôi trong sinh tử, dập vùi nơi biển
khổ. Cho nên cần phải có cái biết đúng đắn chân chánh và cái
nhìn thấy chân chánh. Hai tâm ghét và yêu đều là bất tịnh. Như
nghịch duyên, oán duyên, kết oán với người, cho nên khi nhìn
kẻ thù địch muốn đánh muốn dìm; còn thuận duyên, thân duyên,
xem như thân thuộc sinh tâm yêu mến; Riêng có không oán không
thân, xã thọ không khổ không vui. Có như vậy mới chuyển yêu
thành ghét, chuyển ghét thành yêu. Như vậy xưa nay mọi cảnh
điều không thật, nhưng có là do yêu ghét khởi nơi tâm, cho nên
đừng nên tin tâm mình. Chúng ta mang thân nghiệp báo, nên hãy
thản nhiên chịu đựng tất cả giày vò, và nên khởi tâm niệm
Phật, hết báo thân này, lại sanh vào nhà Pháp Vương. Còn nếu
cứ đắm mình vào việc so tính, con cái, giàu có tiền bạc, hay
danh vọng, sự nghiệp... trên xã hội, các việc khổ não, nhiều
trở ngại cho tâm, thì phiền não theo đó mà sinh khởi, tâm
không được an ổn.
-
Người đời đều có tâm, có tâm thì chắc chắn phải có niệm, khởi
niệm thì chắc chắn phải có ô nhiễm và tịnh. Nhiễm thì chạy
theo: Sắc, Thinh, Hương, Vị, Xúc, Pháp. Tịnh nghĩa là không
nắm lấy sáu trần. Quán sát lúc ban đầu do tâm niệm của chúng
sinh mà sinh ra, cho nên Ðức Phật nói:
-
-
Ba cõi chỉ nơi tâm, muôn pháp chỉ nơi thức.
-
Vì thế cho nên phải cẩn thận nơi niệm ban đầu, chế ngự tâm
nhiễm, nếu giữ sáu trần tức là không có nghiệp, từ đó mà được
vô tướng, cho nên một niệm không sinh thì sáu đường: Trời,
Người, A Tu La, Ðịa Ngục, Ngạ Quỉ, Súc Sinh đều tiêu mất, cắt
đứt luân hồi. Hạt giống nghiệp lại dứt mà ra khỏi ba cõi vậy.
-
C- Lợi Ích Của Việc Học Phật
-
Có thể nói từ hai phương diện:
-
a- Phương Diện Chính Mình:
-
Người đã học Phật, có thể nương theo lý Phật mà chiếu xét tư
tưởng và hành vi của mình, như có việc bất chánh thì đưa nó
vào chánh, không qui củ đưa vào qui củ, tu dưỡng đối với thân
tâm của mình, rất có ích lợi, là triết học cần thiết cho việc
xử thế.
-
b- Phương Diện Người Khác:
-
Học Phật có thể đem nhân sinh quan riêng tư vì ta mà cải đổi
làm vô ngã đại bi, nhân sinh quan hy sinh vì người, để cuối
cùng mình và người cả hai đều lợi, làm tiêu chuẩn tối cao về
đạo đức của nhân loại, chỉ có người học Phật mới có thể hoàn
thành được việc nầy.
-
Nhân vì chúng tại gia có nhà, có nhà rồi thì có thân bằng
quyến thuộc, bởi vậy mệt nhọc suy nghĩ. Lại có việc đời, cho
nên bởi vậy phân tán nguồn tâm. Có danh lợi, bởi vậy biến động
nơi ý. Có thăng trầm vinh nhục nên mới có lo buồn ở chí, cho
nên thân và tâm không dể gì yên tịnh được. Việc mặc, không
được đẹp đẽ, không được hợp thời trang thì lại buồn buồn không
vui. Việc ăn, mà có chút ít không ngon miệng, không hợp ý thì
cho là không ngon, ăn không được. Ở phòng bình thường đi không
có xe tốt thay vì đi bộ lại nói là không sang trọng, mất thể
diện. Còn vướng vào những vấn đề này tức là không tự tại. Ở
chỗ thuận thì mặt mày hớn hở, ở chổ nghịch mặt ủ mày chau, đây
tức là nhìn không rõ. Tham ái dính mắc nơi tiền bạc giàu có,
danh vọng, quyền thế, con cái, nam nữ ... v...v... Ðây tức là
buông không rời. Không tự tại, buông không rời, nhìn không rõ,
đều là việc ngăn trở con đường ra khỏi ba cõi. Vấn đề nhà ở.
Không có nhà thì không biết lấy đây mà ở, nhưng nhà, thực tại
là nhân duyên của phiền não! Có nhà rồi lại nên xả bỏ việc thế
tục mà tu hành, thực tế thì cũng không phải là mổi người đều
có thể làm được hết. Chúng tại gia có nhà, nếu có thể dùng
không nhà để nhìn, thì nhà không thể là cái trói buột, xét
ngược lại thì rất nhiều phiền não! Nếu là người không gánh vát
sinh kế của gia đình, bỏ việc đời, không khổ nhọc nặng, bỏ
việc kinh doanh lo lợi, có thể chuyên tâm tu hành rất tốt!
-
Tinh tấn tu học thì khi mạng chung sẽ vãng sanh thế giới Cực
Lạc, do đó biết rằng cuộc đời không thể thiếu vật chất, nhưng
thật tế nên chú trọng đến cuộc sống tinh thần, ít ham muốn và
biết đủ thì sẽ dẫn tới sự đầy đủ, cuộc sống đạm bạc giản dị,
sẽ đầy đủ đối với các hiện tượng và tình huống, tùy nghi với
những gì mình gặp mà được bình an. Như vậy, trên không hổ thẹn
với trời, dưới không dối gạt với đất, không tranh, không cầu,
không vọng lấy, không vọng dùng, tự nhiên tự tại, yên ổn vui
vẻ. Nếu tu hành học Phật mà còn dính nặng nơi cuộc sống vật
chất nhiều quá thì khó mà ra khỏi căn nhà danh lợi. Như vậy tu
tập là phương pháp xem xét những sự đúng sai mà chúng ta đối
với nhân sinh vũ trụ; pháp suy tư, pháp nói, pháp làm, cũng
vậy, cần nên sửa đổi cho chân chính lại. Nghĩa là bao hàm sự
kiểm thảo điều chỉnh, đối kháng chính chúng ta, khống chế dục
vọng để cân bằng thân tâm. Do đó chúng ta cũng nên chấp nhận
những nghi thức hành vi bên ngoài, để tạo điều kiện thuận lợi
huân tập chủng tử thiện duyên bên trong. Vì thế những lúc hành
trì công khóa sớm tối, làm cho tâm chúng ta an định. Ðây là
một thứ giới điều, một loại hình thức giới luật đáng làm. Kỳ
thật giới luật là phạm vi ngăn ngừa cần thiết sự làm ác của
chúng ta, giới luật giúp đở chúng ta giải thoát. Giả như người
nào đó cảm thấy rằng giới luật là một vấn đề trói buộc, như
thế thì phải biết người đó còn muốn làm việc xấu, đây là hình
thức bên ngoài có công năng nhất định để cho chúng ta đo lường
tâm của con người và tùy theo đó mà hành xử cho tốt đẹp.
-
Nói tóm lại, tu hành là cần tự tại, nhìn cho rõ, buông cho
hết, mới có được lợi ích. Phú quí, vinh hoa, ăn ngon, mặc đẹp,
ở sang, ăn uống vui chơi tận tình, những việc này là chỗ vui
ưa tìm cầu của người đời, người tu hành cần nên bỏ, lìa những
cái này đi, bởi vì phú quí vinh hoa... những cái đó làm ngăn
ngại sự an bình và yên tỉnh của thân tâm người tu hành, nó làm
cho chúng ta không được tự tại và giải thoát. Trong vấn đề học
tập Phật pháp, cải tiến chính mình từ trong cuộc sống thường
ngày, khiến cho chúng ta và những thành viên trong gia đình dể
dàng thông cảm, cùng với con người trên xã hội có được sự quan
hệ càng hài hòa. Ngược lại, cái hiểu biết về Phật Pháp và sự
tu hành của chúng ta không ăn khớp với nhau, thì cũng như đang
đói mà ăn bánh vẽ thì chắc chắn không bao giờ no được
-
Như vậy không luận là tại gia hay xuất gia, mà mục đích rất
chủ yếu là mong cầu tu hành được chuyển mê khai ngộ, ra khỏi
ba cõi, lìa khổ được vui... cho đến thành Phật. Cả hai giới
xuất gia và tại gia, nếu ai làm được như vậy là chúng ta đã và
đang đi trên con đường sen búp, là con đường dẫn đến Thánh
Ðạo.
|