-
Trở Lại Cõi Đời Nầy
-
Tuệ Khai
-
--o0o--
-
-
Cõi đời nầy tức là muốn nói đến tinh cầu mà chúng ta đang sinh
sống, là một thế giới nhỏ trong chùm Thế Giới Ta Bà. Để cho có
một khái niệm tổng quát chúng tôi xin được giới thiệu từ một
bình diện tổng quát đến chi tiết. Ta Bà Thế Giới dịch là Nhẫn
Độ là cõi thế nơi ấy các nhà tu hành phải kham nhẫn, phải chịu
nỗi sự nhẫn nhục, vì nơi cõi nầy có đủ các sự trược, mà chúng
sanh phải chịu. Ta Bà Thế Giới cũng kêu là Đại Nhẫn Thế Giới,
vì ở cõi nầy các nhà tu học phải nhẫn nhịn đối với mọi sự khổ
não mới có thể tu học
-
Người ta cũng gọi là Tạp Ác Thế Giới, Tạp Sanh Thế Giới, tức
là cõi mà mọi sự ác trược, mọi thứ chúng sanh lộn lạo với
nhau. Chính vì vậy mà ở cõi nầy có sáu giống chúng sanh ở
chung với nhau, đó là:
-
- Địa Ngục
-
- Ngã Quỷ
-
- Súc Sanh
-
- Người
-
- A Tu La
-
- Thiên
-
Như vậy Ta Bà là Uế Độ, cho nên chúng sanh ở cõi nầy rất khó
mà tu học, và ai tu học được thì có phước nhiều hơn ở cõi Tịnh
Độ.
-
Bàn về Thế Giới Ta Bà, trong cõi Liên Hoa Tạng Trang Nghiêm
diễn tả có 20 tầng thế giới, mỗi thế giới là mỗi cõi Phật. Cõi
Ta Bà ở về tầng thứ 13, và gồm có nhiều thế giới nhỏ. Tinh cầu
mà chúng ta đang sinh sống là một phần nhỏ trong muôn ngàn thế
giới nhỏ đó. Chúng tôi nói như vậy bởi vì trong mỗi thế giới
nhỏ đó có ba cõi:
-
- Dục Giới
-
- Sắc giới
-
- Vô Sắc Giới.
-
Trong mỗi thế giới nhỏ đó cũng có một núi Tu Di, và bốn châu
nằm chung quanh theo phương vị:
-
- Phía Đông là Thắng Thần Châu
-
- Phía Tây là Ngưu Hóa Châu
-
- Phía Bắc là Cu Lư Châu
-
- Phía Nam là Thiệm Bộ Châu
-
Địa cầu nơi chúng ta đang ở đó chính là Nam Thiệm
Bộ Châu. Nam Thiệm Bộ Châu cũng gọi là Diêm Phù Đề, là một
trong bốn châu thiên hạ, là phần tử nhỏ trong thế giới nhỏ của
vô lượng vô số vô biên thế giới nhỏ trong thế giới Ta Bà. Nói
là Trở lại Cõi Đời Nầy, có nghĩa là chúng ta đang sinh sống ở
cảnh đời hiện tại nầy nhưng sau khi theo định luật vô thường
chi phối, chúng ta phải thay hình đổi dạng. Trãi qua những
giai đoạn thay đổi sắc thân, con người tùy theo nghiệp duyên,
ân quả mà sanh về các cảnh giới khác nhau, có thể là:
-
- Cảnh giới của chư Phật
-
- Cảnh giới Chư Bồ Tát
-
- Cảnh giới A La Hán
-
- Cảnh giới Bích Chi Phật
-
- Cõi Trời
-
- A Tu La
-
- Cõi người
-
- Súc sanh
-
- Ngã quỷ
-
- Địa ngục
-
Trở lại cõi đời nầy là muốn nói chúng ta sanh trở lại kiếp con
người trong tinh cầu nầy. Sanh trở lại kiếp con người, trên
tinh cầu nầy theo truyền thống Phật Giáo Tây Tạng, họ tin
tưởng tuyệt đối vào thuyết tái sanh, và vì vậy có những cuộc
tìm lại những vị Thầy ngày xưa mà họ tin tưởng là tâm nguyện
những vị ấy chưa hoàn thành nên phải sanh trở lại cõi đời nầy
để tiếp nối sự nghiệp hoằng pháp còn dang dở, đây là một quan
niệm hết sức là bình thường. Nhưng theo truyền thống Phật Giáo
Việt Nam, mặc dầu chúng ta vẫn tin luật nhân quả luân hồi,
nhưng truyền thống Phật Giáo Việt Nam không khai triển nhiều
về phương diện sanh trở lại, do vậy đây là một ý niệm mà nhiều
người cảm thấy khó tin, nhưng có thật.
-
Ðiều này lại càng rõ nét hơn trong mấy thế kỷ qua là chúng ta
càng ngày càng trở nên quen nghĩ đến những gì được xem là
những từ ngữ khoa học, có nghĩa là những gì mà nhiều người cho
là khoa học. Quan điểm này đã gây cho nhiều người không chấp
nhận ý niệm tái sinh, bởi vì họ nghĩ rằng nó sặc mùi mê tín dị
đoan và có cái nhìn lạc hậu về thế giới ngày nay, trong một
thế giới văn minh tiên tiến về phương diện kỷ thuật khoa học.
Vì lý do này, chúng tôi nghĩ là chúng ta cần tạo nên một thế
cân bằng, bằng cách tạo ra một chút phóng khoáng đối với ý
niệm sanh trở lại cõi đời nầy trước khi chúng ta bắt đầu xét
đến giáo lý Phật giáo về đề tài này.
-
Có một số phương pháp chúng ta có thể chấp nhận trong việc làm
sáng tỏ vấn đề sanh trở lại. Một trong những cách đó là chúng
ta phải nhìn một cách khách quan về các triết thuyết, cũng như
tôn giáo đương thời nơi đó chúng ta sẽ thấy. Trong hầu hết tất
cả các văn hóa lớn của thế giới đã có niềm tin phổ biến về vấn
đề sanh trở lại. Ðiều này đặc biệt đúng ở Ấn độ, nơi mà ý
tưởng này có thể quay ngược lại vào thời kỳ văn minh cổ đại Ấn
độ. Tất cả các tôn giáo chính ở nơi đó, cho dù là hữu thần hay
vô thần, các trường phái Ấn độ giáo hay các giáo phái không
chính thống đều thừa nhận về sự thật của những trường hợp sanh
trở lại.
-
Trong các văn hóa khác cũng vậy, niềm tin về tái sinh rất phổ
biến. Tiêu biểu các giáo phái trong vùng Ðịa trung Hải, cũng
có lòng tin về sự thực tái sinh có khắp nơi trước và trong vài
thế kỷ đầu Tây lịch. Ngay đến nay, nó vẫn còn trong Hồi Giáo ở
Trung Ðông. Do vậy, lòng tin về sự thực tái sinh là một phần
quan trọng của lối suy nghĩ của con người về thế giới và vị
trí của chúng ta trong đó.
-
Như vậy chúng ta thấy các tôn giáo trên thế giới đều công nhận
đời sống hiện tại không phải là đời sống duy nhất của con
người. Trước đời sống nầy chúng ta đã từng có vô số đời trước,
và nếu không tu tập đến giải thoát viên mãn, thì chúng ta còn
có vô số đời sống chờ đợi chúng ta phía sau. Kiếp sống nầy
chấm dứt, chúng ta sẽ sanh trở lại qua một đời khác, theo
trong Phật giáo, chính đức Phật đã dạy sự thật về việc sanh
trở lại.
-
Như chúng ta đã được biết rằng, vào đêm giác ngộ, Đức Phật
ngài đạt được 3 loại tri thức đó là ba minh:
-
- Túc Mạng Minh
-
Đầu tiên là tri thức về cuộc đời quá khứ của riêng Ngài. Ngài
nhớ lại những sự việc trong đó Ngài đã sống, và lưu chuyển
trong vô số kiếp trước đây.
-
- Thiên Nhãn Minh:
-
Thấy cuộc đời của Ngài và của những người chung quanh đời sau
luân chuyển như thế nào.
-
- Lậu Tận Minh:
-
Biết được những cảnh khổ trong đời hiện tại của Ngài và diệt
hết các phiền não.
-
Ngoài lời chứng minh của Đức Phật, chúng ta còn có những đại
đệ tử của Ngài, những người có khả năng nhớ lại các cuộc đời
quá khứ của họ, trong số đó có Thầy Ananda chẳng hạn, Thầy đã
đạt được các khả năng nhớ lại cuộc đời quá khứ ngay sau Thầy
khi được thọ giới làm tu sĩ Phật giáo. Cũng vậy, trong suốt
lịch sử của Phật giáo, những hành giả viên mãn đã có thể nhớ
lại cuộc đời quá khứ của họ.
-
Theo chiều hướng nầy, trong truyền thống Phật Giáo Tây Tạng dã
phát triển về khía cạnh nầy rất mực sâu rộng. Qua đó chúng ta
thấy khi còn bé có những vị Lạt Ma thường kể về tiền kiếp của
mình. Gần đây báo chí thế giới có đưa tin về em bé Tenzin Osel
Rinpoche, người Tây Ban Nha, mới có 6 tuổi nhưng đã có một đạo
hạnh vững chắc và trí thức như một nhà sư Tây Tạng ở Los
Angeles mất năm 1984. Em sinh năm 1985 trong một gia đình
nghèo ở ngoại ô Madrid, tức là thủ đô của Tây Ban Nha, mà thời
gian vừa qua, như chúng ta đã nghe cùng một lúc ba nhà ga tại
thủ phủ nầy bị bom nổ. Em có tư thái rất kỳ lạ từ lúc mới lên
ba. Năm lúc năm tuổi, em đã có thể ngồi thiền suốt 2 giờ đồng
hồ không nhúc nhích. Em kể lại tiền thân, mà người ta kiểm tra
lại thì ăn khớp với tiểu sử của đức Lạt Ma Tây Tạng tên là
Thubten Yeshe. Nhà sư Thubten di cư đến Mỹ từ năm 1959 và viên
tịch ở Los Angeles vào năm 1984.
-
Sau đó Em bé Tenzin Osel Rinpoche liền được một nhà sư Tây Ban
Nha đạo hiệu là Basili Lloria bảo trợ nuôi dạy và cho xuất
gia. Trong một lần cùng với Basli Lloria đi qua các nước
Phương Đông để chiêm bái Phật tích, em đã đến Kuala Lumpur,
nước Malaysia tại Trung Tâm Phật Giáo Thean Hou. Tại đây Em đã
thuyết pháp và cầu nguyện cho tín đồ
Malaysia
hoàn toàn giống như một vị cao tăng.
-
Qua những sự kiện như vậy, chúng ta thấy, đối với luật nghiệp
báo thì luân hồi, sanh trở lại là một điều đã được khẳng định.
Tuy nhiên trong việc dựng lên một trường hợp thực tế về tái
sinh, chúng ta có thể suy nghĩ cặn kẽ với kinh nghiệm riêng
của mỗi người. Chúng ta chỉ cần nhớ lại và xem xét kinh nghiệm
ấy theo lối Phật giáo để rút ra được các kết luận. Mọi người
đều nhận rằng, mỗi người trong chúng ta có những khả năng đặc
biệt riêng, chúng ta gọi là có khiếu hay không có khiếu. Chúng
ta nên biết rằng, tất cả những cuộc đời may mắn hay không may
mắn đều là kết quả của sự tình cờ hay do sự tác động có chủ ý
của chúng ta đã sống, và sinh hoạt của xã hội trong cuộc đời
trước của chúng ta, chẳng hạn:
-
- Một số người trong chúng ta có khả năng xuất sắc về thể thao
hơn những môn khác.
-
- Một vài người trong chúng ta có tài về toán học, trong khi
những người khác có thiên khiếu về âm nhạc.
-
- Người này thích bơi, trong khi người khác sợ nước.
-
- Có những người thông minh, nhưng cũng có những người đần độn
.....
-
Tất cả những sự khác nhau về khả năng và tinh thần, thái độ
của chúng ta cũng đều do kết quả của sự ngẫu nhiên hoặc tính
tác động có chủ ý của chúng ta trong đời trước để có những kết
quả tương ưng nào đó trong cuộc sống hiện tại hay tương lai,
tất nhiên đó là điều chắc chắn. Do vậy mà có những khúc ngoặc
lớn lao và không ngờ trên con đường phát triển để hình thành
đời sống và nhân cách của một cá nhân. Do đó chúng ta không
ngạc nhiên khi thấy có những tình trạng, trong đó đôi khi
chúng ta cảm thấy một linh tính mạnh mẽ rằng chúng ta đã từng
ở một nơi đặc biệt nào trước đây, mặc dầu chúng ta không viếng
thăm nơi đó trong cuộc đời hiện tại. Vào những dịp khác, chúng
ta cảm thấy rằng mình đã biết người nào đó trước đây:
-
- Chúng ta gặp một người lần đầu tiên, vậy mà tức thì chúng ta
cảm thấy rằng mình đã biết người đó từ lâu.
-
Ngược lại, chúng ta có thể biết một người nào khác nhiều năm
mà vẫn cảm thấy không thực sự biết người đó. Các kinh nghiệm
như khi cảm thấy rằng chúng ta ở trong một tình trạng đặc biệt
trước đây, rất thông thường và phổ thông là ngay cả trong văn
hóa đương thời của Việt Nam, hầu như nó hoàn toàn không biết
về việc sanh trở lại, như đã có một nhà thơ nói:
-
- Lòng em nhớ lòng anh từ vạn kỷ
-
Gặp hôm nay nhưng hẹn đã ngàn xưa
-
Yêu giữa đời mà hôn ơ trong mơ
-
Tình rộng quá đời không biên giới nữa.
-
Nếu chúng ta không giáo điều, hoặc võ đoán thì khi chúng ta
tổng hợp lại tất cả những điều đã biết này, tức là chúng ta có
lòng tin về thuyết sanh trở lại cõi đời nầy, trong nhiều nền
văn hóa, và thời đại trong suốt lịch sử văn minh của nhân
loại. Sự chứng nhận của đức Phật và những đệ tử nổi tiếng của
Ngài, các bằng chứng được cung cấp bởi sự nghiên cứu khoa học,
và những điều biết được do chính cá nhân chúng ta chứng minh
rằng chúng ta đã có mặt ở thế gới nầy trước đây. Chúng tôi
nghĩ, chúng ta sẽ phải thú nhận rằng, sanh trở lại cõi đời nầy
là một thực tế chắc chắn có thể xảy ra, như trong văn học Việt
Nam có nhà thơ đã nói:.
-
- Xin hẹn luân hồi hãy gặp nhau
-
Cùng em nhắc lại chuyện xưa sau
-
Chờ anh dưới gốc sim già nhé
-
Em hái đưa anh đóa mộng đầu.
-
Trong Phật giáo, quan niệm tái sinh là phần thiết yếu của một
tiến trình thay đổi liên tục. Thật vậy, chúng ta không chỉ tái
sinh vào lúc chết mà chúng ta tái sinh từng lúc một. Ðiều này,
giống như những lời dạy quan trọng khác của Phật giáo, dễ dàng
được chứng nhận bằng cách dẫn chứng đến kinh nghiệm riêng của
chúng ta, và vào những điều tìm thấy của khoa học. Chẳng hạn,
đa số các tế bào tạo thành thân thể con người, chết đi và được
thay thế nhiều lần trong tiến trình liên tục của một đời
người. Dù rằng một vài tế bào kéo dài suốt một đời người vẫn
chịu sự thay đổi liên tục ở bên trong. Ðây là một phần của
tiến trình sanh, tử và tái sanh. Nếu xét đến cái tâm, chúng ta
thấy rằng các tâm hành như:
-
- Lo lắng, đau khổ, hạnh phúc .. v... v...
-
Những cảm giác nầy xuất hiện và biến mất từng chặp một. Chúng
mất đi và được thay thế bởi những tình trạng mới mẻ và khác
nhau, cho dù chúng ta xét đến thân thể hay tâm não, kinh
nghiệm của chúng ta thay đổi luôn bởi sự sống, chết và sống
lại một cách liên tục.
-
Phật giáo dạy rằng sự hiện hữu có những cảnh giới, phạm vi hay
quy mô khác nhau. Vài kinh sách liệt kê có đến 31 cảnh giới
hiện hữu, nhưng riêng cho mục đích ở đây, chúng ta chỉ cần ghi
nhận sáu cảnh giới. Sáu cảnh giới này có thể được chia ra
thành hai nhóm:
-
1- Tương Đối May Mắn
-
Nhóm nầy bao gồm các cảnh giới của chư Phật và của các cõi
thánh, và cõi người. Tái sinh trong những cõi may mắn này là
kết quả của nghiệp lành mạnh.
-
Và nhóm kia
-
2- Không May Mắn.
-
Nhóm nầy bao gồm các cảnh giới súc sanh, ngạ quỉ và địa ngục.
Tái sinh trong những cõi thống khổ này là kết quả của nghiệp
không lành mạnh.
-
Chúng ta bây giờ hãy xét từng cõi này, bắt đầu với cái thấp
nhứt cho đến cao nhất.
-
a- Điạ Ngục:
-
Có một số cõi địa ngục trong Phật giáo, bao gồm tám địa ngục
nóng và tám địa ngục lạnh. Trong các địa ngục này, các chúng
sinh ở đây phải chịu đựng những đau khổ không thể tính ra, và
không thể mô tả được. Người ta nói rằng cái đau khổ phải chịu
trong cảnh giới này là phải bị đâm bởi ba trăm ngọn giáo trong
một ngày, đây là những cực hình, đau khổ phải chịu đựng bởi
các dân cư của cảnh giới địa ngục. Cái nguyên nhân của việc
tái sinh trong địa ngục là tánh tình bạo động triền miên như
giết người, hại vật theo thói quen độc ác của từng cá nhân ...
v.v...
-
Những hành động như thế được sinh ra do sự ghét bỏ, và những
chúng sinh phạm tội này phải chịu đựng những cái đau khổ của
địa ngục, cho đến khi nghiệp không lành mạnh mà họ đã trả xong
thì họ sẽ được sanh về các cảnh giới khác. Đây là điểm mấu
chốt quan trọng, bởi vì nó cho chúng ta cơ hội để ghi nhận
rằng, trong Phật giáo không ai mãi mãi bị nguyền rủa, hay chịu
đau khổ triền miên. Khi nghiệp báo không lành mạnh của họ đã
đền trả xong rồi, các chúng sanh của địa ngục được tái sinh
trong những cõi hiện hữu may mắn hơn.
-
b- Ngã Quỷ:
-
Cõi kế tiếp là cõi của quỷ đói. Sinh vật trong cõi này chịu
đựng phần lớn là sự đói, khát, nóng, lạnh. Họ hoàn toàn mất
hết các món vật mà họ thích thú. Người ta nói rằng khi quỷ đói
thấy một núi cơm hay một dòng sông nước mát và chạy về hướng
đó để tìm cơm ăn nước uống, nhưng khi đến nơi họ cảm thấy rằng
một núi cơm chỉ là một đống sỏi và con sông chỉ là một dãy đá
xanh. Giống như vậy, người ta nói rằng trong mùa hè ngay cả
mặt trăng cũng nóng đối với họ, trong khi trong mùa đông ngay
cả mặt trời cũng lạnh.
-
Nguyên nhân gần nhất của việc tái sinh làm quỹ đói là:
-
- Tính tham lam và keo kiệt.
-
Nó được sanh từ sự gắn bó chặt chẽ và tham danh lợi, tham ăn
ngũ, tức là đắm chìm trong năm món dục:
-
- Tiền tài, sắc dục, danh lợi, thực uống, ngũ nghỉ.
-
Cũng như các chúng sanh của địa ngục, các chúng sanh trong cõi
này không bị kết tội mãi mãi dưới hình thức của ngạ quỹ, bởi
vì khi nghiệp không lành mạnh của họ đã trả quả báo xong rồi,
họ sẽ được tái sinh trong một cõi giới khác may mắn hơn.
-
c- Súc Sanh:
-
Cõi kế là cõi của thú vật, sinh vật chịu đựng từ một số hoàn
cảnh không hạnh phúc. Chúng chịu đựng từ sự lo sợ và đau khổ
gây ra từ sự giết chóc thường xuyên và ăn thịt lẫn nhau. Chúng
chịu đựng từ những con người giết họ để lấy thịt, lấy da, hay
răng tóc. Dù rằng không bị giết, chúng bị nuôi trong nhà, bị
bắt buộc phải làm việc cho những người điều khiển họ với roi
đòn đau đớn. Tất cả những việc này là nguyên nhân của đau khổ.
-
Nguyên nhân chánh của việc tái sinh làm thú vật là vô minh. Sự
theo đuổi mù quáng, buông lung vì những dục vọng, quá bận bịu
với sự ăn, ngủ và thỏa mãn tình dục, không để ý đến sự cần
thiết phát triển tinh thần và tu tập giới đức cho bản thân,
tất cả những việc này dẫn đến việc con người tái sinh làm thú
vật. Cho nên chư tổ đức đã từng dạy:
-
- Sân nhuế là nguyên nhân tái sinh vào cõi địa ngục. Tham ái
là nguyên nhân tái sinh vào cõi ngạ quỹ, và Si Mê là nguyên
nhân tái sinh vào cõi thú vật.
-
Điều này không có nghĩa là một hành động đơn phương bị tác
động bởi tham, sân, hay si sẽ gây tái sinh trong các cõi sinh
vật liên hệ. Thực sự nó có một sự liên hệ rõ ràng và có chứng
minh từ những hành động sẽ sanh vào những cảnh giới tương
đương như:
-
- Lòng ghét bỏ với sự tái sinh trong các cõi địa ngục;
-
- Lòng tham ái với sự tái sinh vào các loài ma đói;
-
- Lòng si mê với sự tái sinh thành thú vật.
-
Nếu không được ngăn chận và không được cản trở bởi những hành
động đạo đức bù lại, thì các hành động tham, sân, si nầy được
tác động theo thói quen không lành mạnh chắc chắn sẽ dẫn đến
tái sinh trong 3 tình trạng đau buồn này.
-
d- Cảnh Giới Loài người:
-
Tạm thời chúng tôi sẽ bàn sau về cõi người và xin tiếp tục nói
về cõi A Tu la và cõi trời
-
e- Cảnh Giới A Tu La:
-
Cảnh giới nầy về cả 2 mặt thân và tâm thì đều mạnh khỏe và tốt
đẹp hơn con người. Tuy thế họ vẫn đau khổ vì lòng ghen tỵ và
mâu thuẩn chống đối lẫn nhau. Theo sách vở cho chúng ta hay là
các chúng sanh trong cảnh giới nầy mặt dầu có phước hưởng như
vậy, nhưng vẫn còn tâm ganh tỵ và mâu thuẩn, cho nên việc tái
sinh trong cảnh giới nầy là không hạnh phúc và không may mắn.
-
Nguyên nhân làm sanh vào cảnh giới A Tu La có hai:
-
- Ở mặt tích cực, cái nhân là sự rộng lượng,
-
- Ở mặt tiêu cực, cái nhân là ganh ghét và thèm muốn.
-
f- Cảnh Giới Trời hay Tiên
-
Cõi Trời là cõi hạnh phúc nhất trong sáu cõi. Do kết quả của
các hành động lành mạnh được làm trong quá khứ, hành trì các
giới hạnh và thực hành thiền định. Những chúng sinh được sinh
ra trong các cõi Trời, nơi họ vui hưởng các thú vui tính dục,
hạnh phúc tinh thần, hay sự tĩnh mịch tuyệt đối, tùy thuộc vào
cấp độ của cõi mà họ được sinh ra. Tuy nhiên, cõi nầy cũng bị
chi phối của vô thường. Không cần biết là họ có thể vui hưởng
được bao nhiêu hay bao lâu, một khi cái lực của nghiệp báo
lành mạnh đã hết đi, cái hiệu quả của giới đức và kinh nghiệm
của thiền định đã tiêu cạn, các chúng sanh ở cõi nầy sẽ rời
khỏi thiên đàng và được tái sinh vào một cõi khác. Lúc đó,
người ta nói rằng các vị ấy chịu đựng sự thống khổ tinh thần
còn hơn là các sinh vật trong các cõi khác chịu đựng về thể
xác.
-
Những chúng sanh được tái sinh trong cõi thiên đàng do kết quả
của sự thực hành giới hạnh và thiền định, nhưng cũng có một
yếu tố tiêu cực khi tái sinh trong cõi thiên đàng. Ðó là tính
hãnh diện.
-
Như chúng ta đã thấy, chúng ta có sự phiền não, nhiễm ô hay
phước đức đều gắn liền với từng cõi một:
-
- Ðịa ngục, ngạ quỹ, súc sanh, A Tu La và cõi Trời đó là, sân,
tham, si, ganh tị và ngã mạn.
-
Tái sinh vào bất cứ một trong 5 cõi này thì đều không phải là
điều tốt. Ba cõi thấp nhất không tốt vì những lý do hiển nhiên
đó là:
-
- Vì sự quá đau khổ và vì sự vô minh hoàn toàn của các sinh
vật sống trong đó.
-
Nhưng cho dù sanh trở lại trong các cõi A Tu La và Cõi trời
cũng không tốt luôn, bởi vì mặc dù họ hưởng được một mức độ
hạnh phúc và quyền lực nào đó nhưng vẫn bị chi phối bởi định
luật vô thường. Ngoài ra, các trò tiêu khiển và vui thú trong
những cõi này làm cho các chúng sanh ở đó lãng quên việc tìm
một lối thoát ra khỏi vòng sinh và tử. Ðây là lý do tại sao
người ta nói rằng, trong 6 cõi hiện hữu, cõi may mắn, đầy cơ
hội và đặc ân nhất là cõi người. Ðây cũng là lý do tại sao
chúng tôi đã để phần thảo luận của chúng ta về cõi người đến
phần cuối.
-
Cõi người là cõi được coi là đặc ân nhất của 6 cõi, bởi vì là
con người, chúng ta có động cơ thúc đẩy và cơ hội để thực hành
giáo pháp và hoàn thành đạo quả giác ngộ. Con người có động cơ
và cơ hội bởi vì các điều kiện dẫn đến việc thực hành con
đường đạo là có sẵn ở đó. Ở cõi người, chúng ta có cả hai hạnh
phúc và đau khổ. Cái đau khổ trong cõi này, dù kinh khủng,
cũng không to lớn như cái đau khổ trong Địa Ngục và Ngạ Quỹ.
Cái vui thú và hạnh phúc được trải qua trong cõi người thì
không to lớn như cái thật vui thú và rất hạnh phúc được kinh
nghiệm bởi các vị trên cõi Trời, con người cũng không bị tràn
ngập đau khổ như các súc vật phải chịu. Và không giống như thú
vật, con người có sở hữu đầy đủ sự thông minh để nhận ra sự
cần thiết của việc tìm phương tiện để hoàn thành sự chấm dứt
đau khổ.
-
Muốn sanh trở lại làm người cần phi có một số quan điểm cần
phải hội đủ:
-
- Trước tiên, phải nói về giới hạnh tốt là nguyên nhân tối cần
của việc tái sinh làm người.
-
- Thứ hai nếu là người không có tôn giáo nào hết thì phải là
một con người tốt trong việc làm người, nói như vậy có nghĩa
là làm một con người cho ra người, bởi vì có rất nhiều người
không biết quý trọng cái cơ hội làm người của họ.
-
Nói chung:
-
- Thân người khó được đã là một cơ hội, Phật Pháp khó gặp lại
là một cơ hội không phải ai cũng được.
-
Trong khi đó chúng ta đã có được thân người, và lại được gặp
Phật Pháp thì phải nói là phước của chúng ta rất lớn. Để nói
lên sự may mắn nầy, Đức Phật dùng một dẫn dụ để chứng minh sự
hiếm có và tính chất quí giá, may mắn khi được sanh làm người.
-
- Giả dụ toàn thể thế giới là một đại dương to lớn và trên mặt
biển có một cái bộng cây trôi nổi trong đó, bị gió thổi qua
lại. Lúc đó
ở
dưới đáy biển có một con rùa, cứ mỗi một trăm năm nó nổi lên
trên mặt nước một lần và đã gặp được bộng
cây nổi đó.
-
Ðức Phật nói rằng thật là hiếm có để đạt được cơ hội tái sinh
làm người giống như con rùa đặt cái cổ của nó qua bộng cây khi
nổi lên trên mặt nước. Người ta cũng nói rằng được sanh làm
người với cơ hội thực hành Phật Pháp cũng hiếm như là ném một
nhúm đậu khô vào một bức tường đá và có một hạt đậu dính vào
một lỗ nẻ trong đó.
-
Vì thế thật là oan uổng khi chúng ta đã để phí sự hiện diện
làm người của chúng ta, đó là chưa nói đến những điều kiện may
mắn mà chúng ta được hưởng trong những xã hội tự do đầy đủ cơ
hội để thực hành giáo pháp. Một điều rất quan trọng là có được
cơ hội thì chúng ta phải dành lấy nó. Nếu thất bại trong việc
thực hành Phật Pháp trong cuộc đời này, thì không có cách nào
để biết khi nào chúng ta sẽ tái sinh trong 6 cõi, hoặc khi nào
chúng ta sẽ có cơ hội sanh làm người một lần nữa.
-
Chúng ta phải nỗ lực để tự giải thoát ra khỏi vòng tái sinh,
bởi vì không làm được như vậy, có nghĩa là chúng ta tiếp tục
vòng luân hồi bất tận trong sáu cõi hiện hữu này. Khi nghiệp
báo, dù lành mạnh hay không lành mạnh, gây cho chúng ta sanh
ra trong bất cứ 6 cõi bị cạn kiệt, tái sinh sẽ xãy ra, và
chúng ta lại ở vào một cõi khác nữa. Cho nên Đức Phật đã nói:
-
- Tất cả chúng ta đã luân hồi trong 6 cõi này từ vô thỉ.
-
Chư Phật cũng thường dạy:
-
- Nếu tất cả các bộ xương có trong nhiều đời trước đây của
chúng ta, nếu được chất chồng lên, nó sẽ cao quá chiều cao của
núi Tu Di, và nếu tất cả sửa mẹ chúng ta đã uống trong vô số
lần hiện hữu được thu tập lại, nó sẽ lên đến hơn tất cả số
nước trong tất cả đại dương.
-
Do vậy, bây giờ chúng ta có cơ hội để thực hành Phật pháp, thì
chúng ta phải tinh cần tu tập các thiện nghiệp mà không nên
trì hoãn.
-
Trong những năm sau này, đã có một khuynh hướng giải thích 6
cõi bằng những từ tâm lý. Vài bậc thầy đã gợi ý rằng các kinh
nghiệm của 6 cõi đang hiện có ngay trong cuộc đời này. Ðiều
này cũng có vẻ hợp lý:
-
- Ðàn ông hay phụ nữ nào không may ở trong nhà tù, bị tra tấn,
bị giết, v.v... thì chắc chắn là đang chịu đựng những tình
trạng giống như những người ở địa ngục.
-
- Những người keo kiết trải qua một tâm trạng tương đương với
các quỉ đói;
-
- Có những người giống như thú, trải qua một tình trạng tâm
tính tương tự như tính của thú vật;
-
- Những người hay la rầy, đói khát quyền tước và địa vị và
ghen tỵ đang trải qua một tình trạng tâm tính tương tự như các
a tu la.
-
- Và những người trinh bạch, sống trong lành, thanh thản và
được đề cao thì đang trải qua một tình trạng tâm tính tương tự
với tâm tính của các vị ở cõi Trời.
-
Tuy thế, mặc dù các kinh nghiệm trải qua của 6 cõi, ở một mức
độ nào đó có xãy ra cho chúng ta dưới hình thức là người,
chúng tôi nghĩ sẽ là một điều sai lầm khi giả dụ hay tin rằng
5 cõi hiện hữu kia không có một thực tế, không có thật như
kinh nghiệm làm người riêng của chúng ta. Những cõi địa ngục,
cõi ngạ quỹ, súc sanh, a tu la và cõi Trời là có thật như cõi
người của chúng ta. Quý vị hẵn nhớ lại rằng, tâm là vật tạo ra
tất cả các sự vật. Hành động được làm với một cái tâm thanh
bạch, nghĩa là được tác động bởi lòng quảng đại, tình thương
.. thì sẽ có kết quả hạnh phúc, được ở trong những tình trạng
hiện hữu như cõi người và cõi Trời. Hành động được làm với một
cái tâm nhiễm ô, nghĩa là được tác động bởi lòng tham lam, sân
hận, si mê ... sẽ gây kết quả không hạnh phúc giống như ngạ
quỹ và các sinh vật ở cõi địa ngục. Do vậy chúng ta muốn sanh
trở lại cuộc đời nầy để làm thân phận của một con người, thì
chúng ta phải tích cực trong việc ăn hiền ở lành, tu tập giáo
pháp giải thoát của Đức Phật chỉ dạy bằng cách thực tập:
-
- Bố thí
-
- Trì giới,
-
- Nhẫn nhục
-
- Thiền định....
-
Nghĩa là thực hành giới hạnh một cách trang nghiêm thì chắn
chắc chúng sẽ trở thành những vị bồ tát siêu phàm thoát tục,
hoặc ít ra nếu phước chúng ta chưa đủ để sanh về các cảnh giới
của chư Phật, thì chúng ta cũng đủ phước để trở lại cõi đời
nầy để tiếp tục tu hành cho đến ngày giác ngộ.
-
-
Tài Liệu Tham Khảo
-
- Vãng Sanh Tịnh Ðộ Luận
-
- Nghiệp Và Kết Quả
-
- Vì Sao Tôi Tin Phật
-
- Phật Học Quần Nghi
-
|