TẬP SAN DƯỢC SƯ

Tâm Hạnh Nhẫn Nhục
Tịnh Nghiêm
--o0o--
 
Nhẫn là nhẫn nại.
Nhục nghĩa là sĩ nhục, nhơ nhuốc, xấu hổ.
Như vậy chữ Nhẫn Nhục có nghĩa là nhịn chịu, chịu đựng những điều xấu hổ, nhơ nhuốc.
Nhẫn Nhục cũng còn gọi là Nhẫn Ðộ.
 Nhẫn là an nhẫn, trụ vào pháp. Ðộ là đưa đến bờ bên kia, bờ giác ngộ, Niết Bàn. Cũng kêu là:
- Nhẫn Ba La Mật,
- Nhẫn Nhục Ba La Mật,
- Sàn Ðề Ba La mật,
Tất cả đều muốn nói đến đức Nhẫn trong sáu đức có khả năng đưa chúng ta đến bến bờ giác ngộ.
Chữ Nhẫn hay Nhẫn Ðộ được dịch nghĩa từ chữ Ta Bà. Nghĩa là ở cõi Ta Bà Thế Giới là thế giới của ác năm trược nên có rất nhiều phiền muộn, chướng ngại khổ đau, vì thế đối với những ai có tâm tu học phải rất mực kiên nhẫn mới có thể đắc đạo. Vì là một thế giới nhiều phiền lụy, những người sống trong đó phải kiên cường vượt qua mọi gian nan, cho nên thế giới Ta Bà cũng còn gọi là:
- Kham Nhẫn Thế Giới,
Hay:
- Ðại Nhẫn Thế Giới.
Theo định nghĩa chữ Nhẫn Nhục có nghĩa là nhịn chịu, chịu đựng những điều xấu hổ, nhơ nhuốc. Vì vậy nếu chúng ta là người thực hành Tâm Hạnh Nhẫn Nhục mỗi khi gặp:
- Những ai có tâm niệm oán ghét, độc, hại chúng ta, thì chúng ta cũng phải an nhiên nhẫn nại không ý trả lại.
- Những nổi khổ bức bách như nước lửa, đao gậy... thì chúng ta cũng vẫn điềm nhiên mà nhẫn chịu không đem lòng tức giận.
Nghĩa là chúng ta luôn quán sát mọi sự, mọi việc, để thấy thể tánh của mọi sự, mọi vật là hư huyển, bản chất của nó là không sanh, không diệt, nghĩ vậy nên nhẫn nhịn được.
Như vậy theo định nghĩa trên chúng ta thấy Tâm Hạnh Nhẫn Nhục là đức tính khắc chế được cái tánh nóng giận và oán thù. Ở đây chúng ta không nên ngộ nhận chữ nhẫn nhục theo như người ta thường hiểu ở đời. Nghĩa là trước một sự bất công, một điều sĩ nhục, người nhẫn nhục không tỏ ra phản đối trong lời nói cử chỉ, nhưng trong lòng họ vẫn không dằn được cơn tức giận phẩn uất, thứ nhẫn nhục ấy chỉ có hình thức bên ngoài, chứ không đi sâu vào bên trong, không phải là nhẫn nhục trong đạo Phật.
Theo tinh thần của người học Phật là phải thực tập Tâm Hạnh Nhẫn Nhục gồm cả: Thân Nhẫn, Miệng Nhẫn, và Ý Nhẫn. Nghĩa là:
- Ở nơi thân nhẫn, tất cả các sự như: Lạnh nóng, đói, khát, già, bệnh, chết, ở nơi thân thì cam chịu đau khổ mà không đối phó bằng cử chỉ hay hành động trả thù.
- Ở nơi miệng không thốt ra những lời hung ác, cho đến những lời chê bai, mắng nhiếc, quở trách, nguyền rủa.
- Ở nơi lòng thì cũng phải dẹp tan những cơn giận, nỗi oán thù, không cho nó vươn lên vùng dậy.
Trong chiều hướng thực tập Tâm Hạnh Nhẫn Nhục là chúng ta phải luôn luôn kiểm soát cả: Thân Nhẫn, Miệng Nhẫn, và Ý Nhẫn, Vì vậy nếu không dẹp được sự giận dữ, phẩn uất ở trong lòng thì chưa gọi được là nhẫn nhục theo nghĩa trong đạo Phật. Chúng ta một khi đã thực tập Tâm Hạnh Nhẫn Nhục thì phải luyện cho đến trình độ không còn thấy:
- Có người làm mình khổ nhục,
- Có nỗi khổ nhục, và người chịu khổ nhục.
Thực tập đến trình độ nầy thì chúng ta đã thể nhập vào thể tánh bao la rộng lớn của vũ trụ, nơi đó không phân chia biên giới, vì nó bắt nguồn từ lòng từ bi, từ trí tuệ và bình đẳng tuyệt đối của tánh Phật. Cho nên người thực tập Tâm Hạnh Nhẫn Nhục, muốn thành tựu phải dựa lên ba đức tánh: Thân Nhẫn, Miệng Nhẫn và Ý Nhẫn. Đó là lý do chúng ta thường nghe chư tôn đức giảng dạy:
- Một đám lửa sân cháy cả rừng công đức.
Quả thật là như vậy. Một trong đại họa của cõi đời là tánh giận dữ oán thù. Một khi đã nóng giận lên thì con người chỉ tuân theo cái sự hướng dẫn của giận, chỉ đạo của tham sân, cho nên tâm trí mê muội. Vì tâm trí mê muội nên không có chuyện gì trên thế gian nầy mà không dám làm. Có thể nói rằng, một con người mà bị lửa sân chi phối, can thiệp vào đời sống, thì ngọn lửa giận sân của chính chúng ta có khả năng đốt thiêu một nửa cuộc đời, hay trọn cả cuộc đời. Cho nên Tâm Hạnh Nhẫn Nhục là một phương thuốc thần diệu để dập tắc lửa sân.
          a- Về Phương Diện Cá Nhân
Người thực tập Tâm hạnh Nhẫn Nhục thì người ấy có khả năng làm cho người chung quanh cảm mến, bởi vì:
- Nét mặt hiền diệu,
- Lời nói hòa nhã,
- Cử chỉ khoan hòa.
Hơn nửa người thực hành Tâm Hạnh Nhẫn Nhục thì:
- Tâm trí được sáng suốt, xét đoán phải lẽ,
- Không thắc mắc những lỗi lầm đáng tiếc vì thiếu bình tĩnh.
- Thân tâm người nhẫn nhục luôn luôn được an lạc, nhẹ nhàng,
Do những điều trên, cho nên nếu chúng ta là người thực tập Tâm Hạnh Nhẫn Nhục thì chúng ta sẽ dễ thành tựu trong mọi công việc, trong đời mình.
          b- Về Phương Diện Gia Đình,
Nếu mọi người trong nhà đều thực hành Tâm Hạnh Nhẫn Nhục thì cảnh gia đình luôn luôn được hoà thuận tin yêu, ấm cúng. Cho nên người Việt Nam thường nói:
          - Thuận vợ thuận chồng tát biển đông cũng cạn.
          Do đó mà bất cứ một ai thiếu Tâm Hạnh Nhẫn Nhục thì sự hoà thuận, hạnh phúc trong gia đình không bao giờ có thể thực hiện được. Và không hòa thuận thì rất có thể gia đình sẽ trở thành một cảnh địa ngục nho nhỏ, vì cứ gây gỗ, đay nghiến, dằn vật với nhau hoài, cho nên mọi người ai cũng đều muốn đạp đổ để thoát ra.
          c- Về Phương Diện Xã Hội,
Nếu tất cả mọi người đều thực hành Tâm Hạnh Nhẫn Nhục thì cái tâm hạnh đó nó có khả năng làm cho mọi người, mọi đoàn thể có thể thực hiện được sự đoàn kết, có thể chung sống với nhau một cuộc sống êm đẹp, chiến tranh không xảy ra, hoà bình được cũng cố, cõi đời sẽ trở thành cảnh Tịnh Ðộ trong nhân gian.
d- Về Phương Diện Tu Hành
Một người tu hành mà thực hành Tâm Hạnh Nhẫn Nhục thì nó làm cho con người tu hành đó luôn luôn phải cảnh giác, đề phòng trước những nghịch cảnh. Nó bắt buộc kẻ tu hành luôn luôn phải vận dụng lòng từ bi, ánh sáng trí tuệ, tinh thần bình đẳng để phá tan giận dữ oán thù.
Chúng ta biết rằng, là con người phàm phu cho nên sức chịu đựng của chúng ta cũng có giới hạn, vì vậy để có một nơi chiêm nghiệm, noi theo, chúng ta phải noi theo gương nhẩn nhục của Ðức Bổn Sư. Chỉ có Ðức Bổn Sư là người mới có đủ khả năng chịu đựng rất bền bỉ. Sức đề kháng và Tâm Hạnh Nhẫn Nhục của đức Bổn Sư Thích Ca cho chúng ta thấy, trên bước đường tìm đạo của Ngài thật là một gương sáng rực rỡ cho chúng ta. Chúng ta thấy cương vị của Ngài, từ một vị Thái Tử sống trong nhung lụa, Ngài trở thành một người không nhà, Ngài lặn lội hết khu rừng nầy đến ngọn núi khác, chịu lạnh chịu nóng, nhin đói nhịn khát, tìm học với tất cả mọi người, không sợ nhục nhã, xấu hổ khi phải hỏi những điều mình chưa biết. Khi tu khổ hạnh với nam anh em ông Kiều Trần Như, thấy không có kết quả, Ngài rời họ trở lại ăn uống như thường, và đã bị họ chế riểu khinh bỉ, nhưng Ngài vẫn điềm nhiên như không, chỉ  một dạ quyết tâm tu học.
          Khi đắc đạo, trở thành một đấng chí tôn, Ngài bị Ðề Bà Ðạt Ða nhiều lần quấy phá, nào là thả voi dữ, nào là lăng đá từ sườn núi cao xuống mình Ngài, nhưng không một lần Ngài tỏ ra phẩn nộ, bực tức. Khi bị thương nhẹ nơi chân vì hòn đá Ðề Ba Ðạt Ða lăn xuống, Ðức Phật đã điềm nhiên bảo các đệ tử rằng:
          - Ðề Bà Ðạt Ða là thiện tri thức của Ngài, nhờ Ðề Bà Ðạt Ða mà Ngài mau thành Phật.
Có lần khi bị ngoại đạo âm mưu sai người nhục mạ Ngài giữa đại chúng, Ðức Phật lặng thinh để cho người ấy mắng nhiếc. Cuối cùng, Ngài chỉ hỏi lại một câu nhưng bao hàm ý nghĩa vô cùng thâm thúy, mà chúng ta cần phải nhớ lấy nằm lòng trong khi thực tập tánh nhẫn nhục. Ngài hỏi người nọ rằng:
- Khi người đem cho ai một món gì mà họ không nhận, thì người làm thế nào?
Người trả lời:
- Thì tôi đem về.
Đức Phật dạy tiếp:
- Ở đây cũng vậy, ta không nhận những lời nhục mạ của ngươi. Người hãy đem về đi.
Hơn ai hết, Ngài đã hiểu rõ công dụng lớn lao của nhẫn nhục nên Ðức Phật luôn luôn tán thán những người biết thực tập Tâm hạnh Nhẫn Nhục như sau:
          - Người nào ngăn chận được phẩn nộ sắp phát ra như dừng được chiếc xe đang chạy nhanh, như thế mới đươc gọi là thiên ngự, ngoài ra chỉ là kẻ cầm cương mà thôi.
          Do sự cao quý như vậy, cho nên người Phật Tử chúng ta phải nuôi dưỡng Tâm Hạnh Nhẫn Nhục trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Trong lúc thực tập Tâm Hạnh Nhẫn Nhục, trước tiên chúng ta phải nên luôn nhớ điều nầy:
- Không phải vì để được người đời tán thán, khen ngợi mà chúng ta nhẫn nhục.
- Không phải vì sợ sệt trước oai lực của kẻ khác mà ta nhẫn.
- Không phải vì mong được chức tước quyền lợi mà ta nhẫn.
- Không phải vì lười nhác, muốn buông xuôi tay cho khỏe trước cuộc đời bất công mà ta nhẫn.
- Không phải vì không biết nhục nhã thiếu nhân cách mà ta nhẫn.
Nếu vì những lý do trên mà chúng ta nhẫn, thì cái nhẫn ấy còn nguy hại hơn là sự phẫn nộ, vì nó là tay sai đắc lực của dục vọng, tham lam kiêu mạn, hèn nhác ích kỷ... Cái nhẫn như vậy là cái nhẫn của một người thiếu nghị lực. Phải biết, chúng ta thực tập Tâm Hạnh Nhẫn Nhục chỉ vì:
- Một đại nguyện,
- Một mục đích cao quý,
- Một tình thương lớn lao
- Một trí tuệ sáng suốt.
- Muốn trai giồi đức tánh,
- Muốn đối trị với cái bệnh nóng giận do tham lam ích kỷ ngao mạn, si mê, gây ra.
          Thực hành cho đúng nghĩa như vậy mới là Tâm Hạnh Nhẫn Nhục cao quý, và như vậy là chúng ta đã thực hành đúng theo ý nghĩa và tôn chỉ của Ðức Phật dạy. Khi đã thực tập rồi thì Tâm Hạnh Nhẫn Nhục nầy cần phải nuôi dưỡng hằng ngày. Nghĩa là bất cứ lúc nào, và mặc dù đứng trước một hoàn cảnh như thế nào đi nữa, thì cử chỉ của chúng ta cũng phải luôn luôn dịu dàng, nhã nhặn, lời nói chúng ta luôn luôn ôn tồn, điềm đạm. Ý nghĩ chúng ta luôn luôn sáng suốt để phân tách vì đâu có cảnh ấy, vì sao chúng ta không nên nóng giận. Chúng ta phải luôn luôn vận dụng đến tình thương, là thứ nước cam lồ có thể dập tắc bao nhiêu lửa dữ.
Là một con người phàm phu, cho nên chúng ta cũng phải tự cảm thấy tâm của chúng ta không đủ rộng lớn, vì không đủ rộng lớn cho nên rất khó có thể thực hành Tâm Hạnh Nhẫn Nhục một cách trọn vẹn. Vì vậy, để trợ duyên cho việc thực hành Tâm Hạnh Nhẫn Nhục một cách tích cực, chúng ta cũng nên tập làm cho lượng trái tim của chúng ta rộng lớn. Phương pháp hữu hiệu để làm cho trái tim của chúng ta trở nên rộng lớn, bằng cách chúng ta phải thực tập bốn loại tâm đó là: Tâm Từ, Tâm Bi, Tâm Hỷ và Tâm Xã.
1-  Tâm Từ:
 Có nghĩa là khả năng đem lại niềm vui và hạnh phúc cho người. Tuy nhiên chúng ta phải nhớ, khả năng không phải là thiện chí, tại vì nhiều khi chúng ta có thiện chí mà không có khả năng. Nếu chỉ có thiện chí mà không có khả năng thì càng thương chúng ta càng làm cho người kia đau khổ, và vì vậy mà chúng ta phải học để có khả năng hiến tặng niềm vui cho mọi người. Muốn có khả năng như vậy thì phải tập quán chiếu, phải nhìn vào người kia để thấy được những khổ đau của người kia, từ hồi còn ấu thơ và cả thời gian lớn lên. Khi đã thấy được những cái khó khăn và những khổ đau, những cái cản trở, những vết thương của những người kia thì chúng ta mới có thể hiểu. Khi đã hiểu rồi thì dầu cho người đó có vụng dại, có nói những điều có thể gây ra đau khổ và đổ vở, thì chúng ta cũng có thể chấp nhận, vì người đó từ ấu thơ cho đến khi lớn lên đã sống trong hoàn cảnh thiếu tình thương, thiếu hiểu biết, vì vậy đau khổ của người đó bị vung vải ra chung quanh. Khi mà hiểu được như vậy, không những chúng ta không giận mà chúng ta còn thương nữa. Một khi chúng ta đã thương rồi, thì những điều người đó làm hoặc nói chúng ta cũng không nên cố chấp, mà chỉ tội nghiệp, và chúng ta mới có thể thương thật sự.
Từ những dữ kiện nầy, nếu chúng ta muốn thực tập tâm từ thì chúng ta phải quán chiếu, nghĩa là nhìn sâu để thấy và để hiểu, khi thấy và hiểu người nào rồi thì chúng ta mới có thể hiến tặng niềm vui và hạnh phúc cho người đó. Người đó có những nhu yếu nào, và không có những nhu yếu nào, khi mà chúng ta thấy được nhu yếu đích thực của người đó thì mới có thể hiến tặng cái mà người đó cần.
2- Tâm Bi
Bi là khả năng làm vơi đi những nổi khổ người kia, chuyển hóa được cái nổi khổ trong người kia. Muốn lấy đi cái nổi khổ niềm đau của người kia, thì chúng ta phải có một nhận thức chính xác về cái bản chất của cái khổ trong lòng người kia. Khổ vì những lý do gì vì những điều kiện nào, vì vậy chúng ta phải tập quán chiếu. Khi mà chúng ta có trái tim hiểu biết rộng mở, khi mà chúng ta không có thành kiến thì chúng ta có thể nhìn vào người kia và chúng ta thấy được cái nổi khổ niềm đau của người kia và bản chất của nổi khổ niềm đau đó. Biết được như thế rồi thì thấy chúng ta cần phải làm cái gì, và ta không nên làm cái gì, để cho vết thương, để nổi khổ niềm đau của người được tan biến. Còn nếu không có cái hiểu đó, không có cái Thiền quán đó, thì chúng ta sẽ không có cái tuệ Ba La Mật, vì vậy những hành động của chúng ta nó có cái tác dụng ngược lại, nó làm cho người chúng ta thương đau khổ. Cho nên Bi là lòng xót thương phải luôn luôn có Trí mới có thể thấu đáo mọi sự mọi vật.
3- Tâm Hỷ
Hỷ là niềm vui, trong các liên hệ đến những cuộc tình, thì yếu tố của Hỷ rất quan trọng. Thương nhau, thì phải thương nhau như thế nào để hai người cùng có một niềm vui, thì cái đó mới gọi là tình thương chân thật. Còn nếu thương nhau mà ngày nào hai bên cũng khóc cả thì tình thương đó không phải là tình thương đích thực. Vì vậy yếu tố Bi và Hỷ là yếu tố rất quan trọng trong tình thương của chúng ta. Nếu có lúc chúng ta biết yếu tố Từ là hiến tặng niềm vui, yếu tố Bi là làm vơi nổi khổ, thì yếu tố thứ ba là cái vui do tình thương nó xuất hiện ra đó là Hỷ.
4- Tâm Xả.
Xả như thế nào là không bị vướng mắt, thương yêu như thế nào mà chúng ta bảo tồn được cái tự do của chúng ta, và chúng ta bảo tồn được cái tự do của người chúng ta thương.
Thương mà đánh mất tự do của mình, và tự do của người mình thương thì tình thương đó chưa phải là đích thực, chưa phải là chân tình. Khi mà chúng ta thương với mục đích chiếm hũu thì chúng ta đã đoạt mất tự do của người chúng ta thương, lẽ tự nhiên khi mất tự do thì không còn hạnh phúc nữa. Khi thương mà chúng ta bị vướng mắt thì chúng ta cũng đánh mất cái tự do của chúng ta, vì vậy cho nên chúng ta cũng không có hạnh phúc. Như chúng ta đã biết, tình thương là nền tảng của hạnh phúc, thì chúng ta phải thương như thế nào để cho người mình thương còn có khoảng không gian để vùng vẫy. Thương mà với tính cách chiếm hữu độc tài, thì chẳng khác nào nhốt người mình thương vào địa ngục. Vì vậy:
- Chúng ta phải có cơ hội để nhìn lại bản chất tình thương của chúng ta, nếu cần chúng ta đem cái tình thương của ta đặt lên trên bàn và dùng ánh sáng của chánh niệm quán chiếu, xem thử coi nó có yếu tố từ không, nếu có thì có bao nhiêu phần trăm chân tình, bao nhiêu phần trăm độc tài ích kỷ. Buổi sáng có hiến tặng được hạnh phúc nào cho người mình thương không, buổi chiều mình có hiến tặng được hạnh phúc nào cho người mình thương không?
- Trong tình thương của chúng ta có yếu tố Bi hay không, có khả năng làm vơi đi cái nổi khổ hay không? Nếu có thì có bao nhiêu phần trăm chân tình, bao nhiêu phần trăm độc tài ích kỷ? Buổi sáng chúng ta có làm cho người mình thương vơi bớt đi nổi không? Buổi chiều có là cho người mình thương bớt khổ đau không?
- Thứ Ba trong tình thương của ta nó có cái yếu tố Hỷ không? Nếu có thì có bao nhiêu phần trăm chân tình, bao nhiêu phần trăm độc tài ích kỷ? Buổi sáng có phải nhờ cái hạnh phúc nầy mà người mình thương hoan hỷ mĩm cười và đi làm với rất nhiều cái năng lượng và tin tưởng hay không? Nếu có thì chúng ta có yếu tố thứ ba tức là Hỷ. Nếu thương mà buổi sáng khóc, buổi chiều khóc, buổi tối khóc, thì tình thương đó không có yếu tố Hỷ.
- Và cuối cùng nhìn vào trong tình thương của ta có yếu tố Xả hay không. Nghĩa là ta và người thương có tự do hay không, hay là cả hai đều có cảm tưởng bị vậy hãm trong ngục tù đau khổ không thoát ra được không? Nếu có thì có bao nhiêu phần trăm chân tình, bao nhiêu phần trăm độc tài ích kỷ?
Nếu thấy bốn yếu tố có khả năng để tạo tình thương đích thực nó không có, thì chúng ta phải biết rằng tình thương nầy là tình thương Bi Lụy, mà trong đó hai chúng ta đã và đang dìu nhau đi vào cõi khổ, tình thương đó nó không đáng để cho chúng ta duy trì. Nếu mà chúng ta thấy có một chút ít Từ, một chút Bi, một chút ít Hỷ, một chút ít Xả, thì ta phải cố gắng thực tập mỗi ngày để cho Từ mỗi ngày nó lớn hơn một chút, Hỷ nó lớn hơn một chút, Xả nó lớn hơn một chút, và như vậy cái tình của ta nó từ từ biến thành chân tình, và cái hạnh phúc của chúng ta càng ngày càng thắm thía hơn.
Là một người hiểu đạo, biết tu tập, và được hướng dẫn của các Thầy, bạn, chư thiện tri thức, thì phải sáng suốt, phải nhìn, phải phân tích, phải nhận diện, để thấy rõ tình thương là một cái gì cao quý, là một chất liệu cần thiết để duy trì cuộc sống hạnh phúc. Như khi chúng ta mới gặp nhau, hình ảnh đẹp của người con gái giống như Ðinh Hùng diễn tả:
- Chưa gặp em tôi vẫn nghĩ rằng
Em là thiếu nữ đẹp như trăng,
Mắt xanh là bóng dừa hoang dại
Âu yếm nhìn em không nói năng.
Do đã có những ấn tượng đẹp như vậy nên khi cưới nhau, chúng ta về ở với nhau rất hạnh phúc. Nhưng nếu chúng ta không biết duy trì và nuôi dưỡng tình yêu đó, thì nó sẽ biến thành hận thù, thành rác. Thì lúc đó, nếu ngày chưa gặp nhau thơ mộng bao nhiêu thì bây giờ khi cưới nhau rồi thì lúc đó mới thấy, mới biết:
- Khi cưới em tôi đã biết rằng
Em là thiếu nữ mập như trâu.
Xác xơ đôi mắt thành hoang dại
Tôi tức nhìn em hết nói năng.
Khi mà tình thương đã trở thành hận thù, thành rác thì với một người thực hành Tâm Hạnh Nhẫn Nhục chúng ta sẽ không nên bỏ cuộc và cũng đừng nên lo lắng nhiều, nếu chúng ta biết phương pháp biến sự hận thù thành tình thương trở lại, đó gọi là sự chuyển hóa. Nếu chúng ta học được cái phương pháp của Phật dạy, và làm một cuộc chuyển hóa, biến rác thành hoa thì chắc chắn chúng ta sẽ khôi phục lại cái hạnh phúc ngày xưa mà chúng ta đã có.
Ly dị không phải là con đường duy nhất. Ly dị có thể không có ích lợi gì cả, mà vấn đề là chúng ta có thể chuyển hóa chất liệu rác rưới trong chúng ta thành chất liệu tươi mát của hoa trở lại hay không đó là chuyện cần nên biết. Vấn đề chuyển hóa đau khổ thành ra an lạc, chuyển hóa sự hận thù thành ra sự thương yêu hay không, đó mới là vấn đề quan trọng.
Chúng ta đã học và thực hành Tâm Hạnh Nhẫn Nhục, chúng ta nhận thức rằng, cái hiểu đưa tới sự chấp nhận tha thứ và thương yêu. Nó sẽ làm cho trái tim của chúng ta lớn hơn, cái chất liệu hiểu và thương làm cho chúng ta lớn hơn, và khi trái tim của chúng ta lớn rồi thì cũng câu nói vụng về đó, cũng những cái hành xử vụng về đó, cũng những oan ức đó chúng ta có thể chấp nhận sống được. Người kia không hiểu chúng ta, chúng ta không có giận lại đó là thái độ của người quân tử. Có thể người kia không hiểu, nhưng mà chúng ta không vội lên án, chúng ta cần có thời giờ cho người kia một cơ hội, để tìm hiểu sự thật, chúng ta có thể cho người đó thời gian cần thiết nào đó để hiểu.
Thông thường thì con người rất là nhẹ dạ, nên khi đọc báo chí, hoặc nghe tin tức thì họ tin liền, và từ đó họ ngồi lê đôi mách, và ưa nói xấu thêm ra. Nếu nạn nhân đang được bêu xấu đó là chúng ta, chúng sẽ đau khổ vô cùng. Vì thế mà là con người học Phật, khi nghe thấy những việc như vậy, thì chúng ta nên tội nghiệp cho những người nhẹ dạ, chúng ta nên khởi tâm từ bi, mà thương người ta. Do đó mà dầu cho có bao nhiên người vu khống, mạ lỵ chúng ta cũng không quan hệ gì. Nếu chúng ta thực tập quán chiếu Từ Bi thì chúng ta thấy liền con người và cuộc đời là như vậy. Con người thường khi thiếu hiểu biết, không có suy xét và quán chiếu độc lập của mình, cho nên khi nghe một chuyện gì đó, thấy một cái gì đó thì vội vàng tin, và cho đó là thật. Những ai là người thiếu hiểu biết, thiếu suy xét, dễ nghe, dễ tin thì những con người như vậy là nạn nhân của tri giác sai lầm dài dài.
Là người học đạo, nếu chúng ta đã hiểu được thấu đáo như vậy thì trái tim của chúng ta trở thành lớn, dầu cho bao nhiêu triệu người có vu khống thì chúng ta vẫn không lay chuyển. Sở dĩ chúng ta không giận là vì chúng ta có cái sự hiểu biết lớn và niềm thương lớn. Nếu trái tim chúng ta nhỏ, thì chúng ta sẽ đau khổ vô cùng.
Như vậy nếu chúng ta còn đau khổ nhiều không phải tại vì người kia không biết điều, mà tại vì cái lượng trái tim của chúng ta chưa lớn. Khi tạo cho nhau những đau khổ là đã tự dìu nhau xuống địa ngục và không biết cách dìu nhau đi lên và cũng không buôn ra được. Khi mà chúng ta lâm vào tình trạng đó thì chúng ta biết rằng, sở dĩ chúng ta tiếp tục đau khổ và làm khổ với nhau như vậy là tại vì cả hai bên chưa có bên nào có trái tim đủ lớn để có thể ôm lấy người kia. Người kia sở dĩ đau khổ và tiếp tục làm cho chúng ta đau khổ, tại vì người kia không có nẻo thoát. Người đó có đau khổ quá nhiều, và người đó không có phương pháp để chuyển hóa những đau khổ, cho nên người đó vung vãi những đau khổ lên chúng ta. Trong khi chúng ta cũng có niềm đau nỗi khổ trong lòng, chúng ta chưa biết cách chuyển hóa, trái tim ta còn nhỏ cho nên chúng ta lại cũng vung vãi những đau khổ lên người đó, và như vậy chúng ta chỉ muốn trừng phạt nhau, chúng ta chỉ muốn trách cứ nhau mà thôi. Có người nghĩ rằng trách cứ nhau, làm cho người khác đau khổ là chúng ta bớt khổ, đó là ý nghĩ hết sức sai lầm, và đừng bao giờ làm như vậy.
Phải biết rằng vì chúng ta thiếu thực tập, cho nên những niềm đau nỗi khổ trong chúng ta, chúng ta không chuyển hóa được, cho nên chúng làm khổ cho người chúng ta thương. Cũng vậy, những niềm khổ đau ở trong người của chúng ta thương, người đó không có khả năng chuyển hoá, không đủ hiểu biết, không đủ thương yêu, nên tự làm khổ cho bản thân và làm khổ cho chúng ta.
Nếu gặp hoàn cảnh như vậy, thì con đường thoát duy nhất là chúng ta phải thực hành Tâm Hạnh Nhẫn Nhục thêm lên, và đồng thời quán chiếu để biết, người đó khổ như vậy là vì từ thời ấu thơ cho đến khi lớn lên, chưa được dạy dỗ phương pháp tạo tát tình thương và tạo tát sự hiểu biết, và vì vậy chúng ta có đòi hỏi cách mấy người đó cũng không thay đổi được. Thà rằng chính chúng ta chấp nhận người ấy. Chúng ta là người học Phật, có những cái khổ, và có những điều kiện chuyển hóa cái khổ, thì chúng ta nên bắt đầu thực tập để trái tim của chúng ta nó rộng ra, ngay lúc đó chúng ta sẽ chấp nhận người đó và chúng ta bớt khổ đi rất nhiều. Giờ phút chúng ta chấp nhận người đó là chính chúng ta đã bớt khổ rồi.
Nói tóm lại, nếu chúng ta muốn chuyển hóa tình trạng đau khổ của chúng ta, và người chúng ta thương, thì chúng ta phải nghĩ ngay đến việc thực tập Tâm Hạnh Nhẫn Nhục để có khả năng nhẫn chịu, và  phương pháp chỉ quán để quán chiếu tại sao chúng ta như vậy. Chỉ tức là làm ngưng lại, làm cho êm dịu lại, tập trung tâm ý lại, và khi mà chúng ta ngưng được lại rồi, làm êm dịu được rồi thì chúng ta bắt đầu nhìn sâu vào cái đó gọi là quán. Và cái thấy đó, cái quán sát đó nó giúp chúng ta thoát ra khỏi những đau khổ, sợ hãi tuyệt vọng. Làm được như vậy là chúng ta đã có một phương pháp thích hợp, chúng ta sẽ biết tạo ra hoàn cảnh, trong đó có điều kiện giúp chúng ta tu tập chuyển hóa thân và tâm của chúng ta. Khi mà chúng ta hiểu được như vậy rồi thì chúng ta chấp nhận được chúng ta, chúng ta chấp nhận được người thân, thương và những người chung quanh chúng ta, thì tự nhiên hòa bình an lạc cũng bắt đầu có, với những cố gắng hằng ngày thì ta sẽ đạt tới sự chuyển hóa đó.
--o0o--