|
TẬP SAN DƯỢC SƯ
-
Na
Tiên Tỳ Kheo
-
&
Các Triết Gia Hy Lạp
-
Tác
Giả: Daisaku Ikeda
-
Dịch Giả: Trần Ðức Phi Bằng
-
(tiếp theo TSDS số 023)
- --o0o--
-
-
A-
Vua Di Lan Ðà
-
Trong
Kinh Milindapanha(Na Tiên Tỳ Kheo), chúng ta được biết là Chư Tăng
thực sự nghiêm túc muốn tìm một người có đủ khả năng tranh luận
với vua Milinda.
-
Lúc
nầy là lúc Ngài Nagasena (Na Tiên)xuất hiện. Tương truyền Ngài
sinh cùng ngày với một con voi khổng lồ nên được đặt tên là
Nagasena. Naga chỉ cho voi, một con vật rất được tôn kính ở Ấn Ðộ.
Tên Nagasena nói lên ý nghĩa Milinda là vua của quốc gia, Nagasena
là vua của tư tưởng.
-
Theo
bản Kinh, Ngài Na Tiên sinh trưởng trong một gia đình Bà La Môn,
từ tuổi thơ ấu đã có một tinh thần ham học. Ngài tinh thông ba
Kinh Phệ Ðà(Veda)khi còn là một cậu bé, nhưng về sau, tuyên bố
rằng các Kinh điển nầy đều vô nghĩa, rồi xuất gia theo Phật Giáo.
Không bao lâu sau, vị tu sĩ trẻ tuổi nầy nổi danh trên khắp nước
Ấn Ðộ và tiếng tăm của Ngài lọt đến tai vua Milinda đang ở tại thủ
đô Shakala(Sa Kiệt La)
-
Và
điều không thể tránh là hai người đi vào một cuộc chân tranh.
Trước khi bắt đầu cuộc tranh luận, chúng ta có thể giả thuyết rằng
Ngài Na Tiên đã chuẩn bị cho những việc có thể xảy ra, bảo đảm
rằng mình đã sẵn sàng cho cuộc tranh luận, vì Ngài biết rằng tiếng
tăm của cộng đồng Phật Giáo tùy thuộc vào Ngài.
-
Ðối
thủ của Ngài là một nhà chinh phục đến từ nước ngoài. Nếu người
nầy chỉ thuần túy là một nhà chính trị và quân sự, công việc của
Ngài sẽ không có gì khó khăn. Nhưng đối thủ của Ngài cũng là một
người tột đỉnh thông minh, thấm nhuần học thuật và văn hóa Tây
phương. Và sự đối đầu giữa hai người trong thực tế cũng là sự đối
đầu giữa Ðông Phương và Tây Phương. Nếu Nagasena thua cuộc, chẳng
những tiếng tăm của riêng Ngài bị sụp đổ, mà có thể nó còn kéo
theo sự sụp đổ lòng tin Phật Giáo.
-
Chúng
ta không nghi ngờ Ngài Nagasena về lòng tin hoàn toàn của Ngài vào
sự lớn lao của Chánh Pháp, tuy nhiên Ngài cũng cần phải có một sự
can đảm để gánh vác cuộc tranh luận. Khi trình bày với thầy mình
là Ngài Rohana, chúng ta được nghe lại lời Ngài:
-
-
Chẳng những một mình vua Milinda, vị vua đáng kính, mà hãy mời tất
cả những vị vua trong nước Ấn Ðộ, đến và đặt câu hỏi, và con sẽ
đập vỡ và giải quyết mọi vấn đề khó giải quyết.
-
Sau
khi Ngài Na Tiên đi vào kinh đô Shakala (Sa Kiệt La), bản Kinh ghi
lại như sau:
-
-
Ngài là lãnh tụ của một Giáo đoàn; người lãnh đạo của một khối tín
đồ; vị thầy của một trường phái; tiếng tăm và danh vọng, được
người kính mến. Ngài cũng là người học rộng, thông minh, lịch lãm,
thánh thiện, và tài ba; là một nhà thuyết minh thiện xảo, tính
tình ôn nhu, nhưng đầy can đảm; rành về phong tục, thông suốt ba
tạng Kinh điển, và uyên bác về Phệ Ðà. Ngài sở đắc trí tuệ cao tột
của Phật Pháp, hiểu biết mọi giáo lý của các trường phái, và lãnh
hội được nhiều lối phân biện để có thể giải thích những vấn đề khó
hiểu nhất. Ngài hiểu biết tường tận giáo pháp của chín trường phái
Phật Giáo, và thấu rõ ngang nhau cả về mặt tinh thần và văn tự. Có
thiên phú về khả năng ứng đáp mau lẹ và về nhiều phương diện, ngôn
ngữ phong phú, ngôn từ văn hoá, khó có người nào sánh kịp Ngài,
huống lại hơn Ngài, khó tìm được một người có thể đối đáp, địch
lại, hay thắng được Ngài. Ngài điềm tỉnh như chiều sâu của biển
cả, bất động như núi chúa; chiến thắng những điều ác, đẩy lui mọi
tối tăm và đem đến ánh sáng; là nhà đại hùng biện, là người làm
run rẩy đệ tử của các vị thầy khác, và là người nghiền nát môn đồ
của những giáo thuyết đối nghịch.
-
Ðoạn
Kinh còn tiếp tục theo một mạch như vậy, cách của người Ấn Ðộ bày
tỏ lòng tôn kính tột cùng. Có thể đoạn Kinh được những người đời
sau thêm vào để nhấn mạnh đến phẩm cách của Ngài Nagasena, nhưng
chúng ta cũng có thể coi đoạn Kinh như là một diễn tả khái quát
mẫu người truyền bá Phật Pháp lý tưởng. Tuy nhiên, bản Kinh cũng
cho chúng ta biết rằng cuối cùng Nagasena đã tranh luận thắng vị
vua tiếng tăm và cũng là đại biểu của tinh thần Hy Lạp, thì thấy
rằng đoạn Kinh trên không phải là một sự thổi phồng quá đáng.
-
Nếu
chúng ta quan sát những câu hỏi của vua với Ngài Nagasena và những
câu đối đáp của Ngài, chúng ta thấy rằng Ngài có sức trầm tĩnh và
nhặm lẹ cao tột. Dù những câu hỏi kia hầu hết mọi người đều cảm
thấy bị dồn ép vào câu trả lời, Ngài đã trả lời bằng một phép loại
suy thiện xảo và những lý lẽ vững chắc theo một đường lối đặc
biệt. Chúng tôi trưng dẫn ra đây một đoạn nói về sự hiện hữu thật
sự của Ðức Phật.
-
-
Thưa Ngài Nagasena, Ngài có từng thấy Ðức Phật không?
-
-
Thưa Ðại Vương không!
-
- Thế
thì các vị thầy của Ngài có thấy Ðức Phật không?
-
-
Thưa Ðại vương không!
-
- Thế
thì, thưa Ngài Nagasena, không có Ðức Phật!
-
Ðến
chỗ nầy, chúng ta tự hỏi làm sao chúng ta có thể đáp lại lý luận
nầy. Ðối phương của chúng ta là một người Hy Lạp và là một người
thực tiễn, muốn một chứng minh có nền tảng trên kinh nghiệm cụ
thể. Bằng chứng nào trong lịch sử Phật Giáo có thể chứng minh rõ
ràng sự hiện hữu của Ðức Thích Ca Mâu Ni, chúng ta tự hỏi. Nhưng
Ngài Nagasena đã đi theo một phương cách khác.
-
-
Nhưng thưa Ðại vương, Ngài có từng thấy sông Uha(U Há) trong núi
Hymalaya(Hi Mã Lạp Sơn) không?
-
-
Thưa Ngài không.
-
-
Hoặc là cha Ngài có thấy con sông đó không?
-
-
Thưa Ngài không.
-
- Như
vậy, thưa Ðại vương, phải chăng là không có con sông đó?
-
-
Thật có con sông đó. Mặc dù tôi và cha tôi không thấy con sông đó,
tuy vậy nó vẫn có đó.
-
- Thế
thì, thưa Ðại vương, mặc dù tôi và các vị thầy của tôi không thấy
được Ðấng Ðại Từ, tuy nhiên Ngài đã hiện hữu.
-
- Hay
lắm, thưa Ngài Nagasena!
-
Bằng
cách đó, Ngài Nagasena đã chiến thắng vua Milinda trong cuộc tranh
luận về sự hiện hữu của Ðức Thích Ca Mâu Ni. Cuộc vấn đáp phản
phất tính chất của những sự đối đáp người ta thường thấy trong văn
học Thiền hay chỉ bày ra một trò chơi chữ. Hơn nữa, tùy theo cách
thế người ta nhìn vào, cuộc đối thoại trên có thể được coi như một
sự phê phán gợi ý và bóng gió sâu sắc về toàn bộ khái niệm về hiện
hữu của người Tây Phương. Phương pháp trả lời của Ngài Nagasena
với vua Milinda là nêu ra một loạt những câu trả lời của chính
Ngài, mà khi nhà vua trả lời những câu hỏi đó, điều không thể
tránh và một cách tự nhiên là đưa nhà vua bước dần đến quan điểm
của Ngài Nagasena. Ðiều nầy, đối với tôi, dường như là một biểu lộ
của minh triết Ðông Phương. Chúng ta được biết rằng, thời bấy giờ,
Ngài Nagasena được coi như ngang hàng với Ngài Xá Lợi
Phất(Shariputra) về trí tuệ.
-
Lấy
giòng sông Uha làm đối tượng so sánh dường như có một ý hướng đặc
biệt. Nhiều con sông ở Ấn Ðộ có nguồn phát xuất từ trong núi Hy Mã
Lạp, mở rộng ra khi xuống thấp, mang phù sa cho đồng bằng trước
khi cuộn vào biển cả. Cũng như vậy, giáo pháp của Ðức Thích Ca Mâu
Ni, phát xuất từ quá khứ xa xôi, đến thời đại của Ngài Nagasena đã
truyền rộng khắp nước, làm phong phú cho tâm linh người Ấn Ðộ. Ðức
Thích Ca Mâu Ni đã qua đời từ nhiều trăm năm về trước, nhưng tôn
giáo Ngài xây dựng đã trở nên thịnh đạt là bằng chứng về sự tồn
tại và sự cao cả của Ngài.
-
Những
học giả Tây phương hiện đại cũng đặt câu hỏi về sự có thật của Ðức
Thích Ca Mâu Ni, và chúng ta không ngạc nhiên rằng ở vào thời kỳ
xa xưa đã có những người như vua Milinda nghi vấn như vậy. Nhà vua
đặt nền tảng sự tranh luận trên tiền đề rằng chỉ khi nào được một
người chính mắt nhìn thấy và chính tay rờ thấy thì một sự kiện mới
là có thật. Một sự mệnh danh là đúng, dù có thể có những tác động
trong thời gian được dùng làm khí cụ xác quyết quan điểm của một
người, sự mệnh danh đó trong tự thể cũng là sai lầm. Tuy nhiên, có
nhiều sự kiện mặc dù chúng ta không thể nhìn thấy, hay xúc chạm,
nhưng vẫn hiện hữu trong thực tế, và hoàn toàn thích đáng khi
chúng ta tin vào sự hiện hữu của chúng.
-
Ngài
Nagasena, để chứng tỏ sự nông cạn của phương pháp lý luận mà vua
Milinda xử dụng phương pháp (episteme), đã phá vỡ phương pháp lý
luận đó.
-
Như
thường được nêu ra, có một số phương pháp suy tư đối với người
Ðông phương thì rất tự nhiên nhưng thật là khó hiểu đối với người
Tây phương. Sự kiện hai triết gia lớn của Ðông phương và Tây
phương, Ngài Nagasena và vua Milinda, đi vào một cuộc tranh luận
thẳng thắn và cởi mở là một sự kiện rất đáng lưu ý. Do đó, chúng
ta không lấy làm lạ tại sao các nhà sử học của cả Ðông Phương và
Tây Phương lưu tâm đến quyển Kinh Milindapanha.
-
Cuốn
Kinh đặc biệt có giá trị trong việc cho chúng ta biết những giáo
lý đặc biệt của Phật Giáo mà người Hy Lạp thích nhất và đôi khi
làm cho họ khó hiểu nhất, và trình bày cách thức của người Phật
Giáo giải thích những giáo pháp nầy cho những người không quen
thuộc với chúng. Trong đoạn Kinh sau đây, về việc nhà vua hỏi Ngài
Nagasena về nghiệp, sự tái sinh, và không có một linh hồn trường
cửu, chúng ta được đọc:
-
Vua
hỏi:
-
-
Thưa Ngài Nagasena, tái sinh là gì?
-
Danh
và sắc tái sinh.
-
Có
phải cùng một danh và sắc nầy tái sinh?
-
Không; nhưng do danh và sắc nầy, nghiệp được tạo ra. Nghiệp thiện
và nghiệp ác và do các nghiệp nầy, một danh và sắc khác được tạo
ra.
-
Nếu
như thế, thưa Ngài, cái hiện hữu mới sẽ không thể rời khỏi nghiệp
ác của nó phải không?
-
Ngài
Nagasena trả lời:
-
-
Vâng, nếu nó không tái sinh. Nhưng bởi vì nó tái sinh, nên thưa
Ðại vương, nó không thể tách khỏi nghiệp ác.
-
Ở
đây, Ngài Nagasena giải thích về vấn đề không có một linh hồn
thường tồn và vĩnh cửu. Danh và sắc chính là tâm và thân, cái tạo
nên con người trong một đời sống, khác với tâm và thân mà y có trở
lại sau khi tái sinh và một đời sống khác. Ngài cũng nêu ra rằng
chính nghiệp, sự tích tập của những hành động tốt và xấu trong một
cuộc sống tựu thành một sức mạnh tạo nên sự tái sinh.
-
Triết
học Phật Giáo dạy rằng các chúng sinh được tạo thành do năm thành
tố (năm uẩn). Một trong năm thành tố nầy là Shiki hay Sắc, chỉ cho
vật chất hay yếu tố xác thịt. Bốn thành tố khác là thọ, tưởng,
hành và thức chỉ cho yếu tố tinh thần. Bởi vì năm thành tố nầy tập
hợp nhau để tạo ra con người trong những cuộc sống nối tiếp, không
có một thực thể hay linh hồn vĩnh viễn trong con người.
-
Chúng
ta thấy rằng nghiệp được tạo ra do một người trong một cuộc sống
là nguyên nhân làm cho năm yếu tố tập hợp nhau để trở lại để tựu
thành một con người trong cuộc sống kế tiếp. Suy tư về những câu
trả lời của Ngài Nagasena trong đoạn Kinh trên, chúng ta có thể
thấy rằng hai hiện sinh trong hai đời sống không phải đồng nhất
cũng không phải là không đồng nhất. Tư tưởng Ấn Ðộ thường dùng
những khái niệm như vậy, được diễn tả bằng những ngôn từ dường như
đối nghịch hay mâu thuẩn. Chúng ta phải hiểu khái niệm về đồng
nhất nầy là đồng thời với bất đồng nhất nếu chúng ta muốn hiểu
quan điểm Phật Giáo về tái sinh hay luân hồi và sự bác bỏ quan
niệm về một linh hồn trường cửu. Dĩ nhiên chúng ta cũng phải hiểu
khái niệm về nghiệp, tác nhân tạo ra động năng cho sự tái sinh.
-
Khi
được hiểu thấu đáo, những giáo lý về luân hồi của Phật Giáo đem
đến cho chúng ta một ý nghĩa vô cùng tốt đẹp, ngay cả ngày nay.
Ngược lại, giáo lý về linh hồn hay một thực thể vĩnh cửu trong con
người qua tiến trình luân hồi dường như quá cứng nhắc và mang
nhiều mâu thuẫn.
-
Ngài
Nagasena tiếp tục đưa ra nhiều chứng minh để làm sáng tỏ cho nhà
vua sự liên hệ giữa một hữu thể trong cuộc sống trước với hữu thể
trong cuộc sống sau qua sức mạnh của nghiệp. Cuối cùng, Ngài thành
công trong việc thuyết phục nhà vua chấp nhận chân lý trong Phật
Pháp. Những đoạn Kinh trên cho chúng ta thấy cách thức người Phật
Tử xử dụng phương pháp luận thuyết hùng hồn và đầy tính chất luận
lý như được xử dụng trong triết học Hy Lạp để làm sáng tỏ và bảo
vệ Giáo Pháp của mình.
-
Sau
khi vua Milinda và Ngài Nagasena kết thúc hai cuộc tranh luận dài
và sâu sắc về triết lý Phật Giáo, chúng ta đọc thấy đoạn Kinh sau
đây:
-
- Tất
cả các câu hỏi của nhà vua đều được Na Tiên ứng đáp rành rẽ và mau
lẹ, cho nên ông hết sức hài lòng. Ông liền truyền mở kho lấy ra
một cây gấm đáng giá mười vạn đồng dâng cúng cho Na Tiên và bạch
rằng:
-
-
Bạch Ðại Ðức, từ nay về sau, trẫm nguyện cúng dường tám trăm đại
đức sa môn ngay tại cung điện nầy. Chư đại đức cần dùng những gì
thì xin cứ tùy thích, của trong kho có sẳn.(theo bản dịch G.S. Cao
Hữu Ðính).
-
Và
khi Ngài Nagasena từ chối, bảo rằng Ngài có đủ để sống, vị vua
nói:
-
-
Trẫm vẫn biết như vậy. Nhưng đại đức nên tự bảo vệ và đồng thời
bảo vệ luôn cho trẫm nữa. Vì sao vậy? Vì nếu đại đức từ khước thì
e dư luận sẽ cho rằng, một là trẫm là người keo lẫn, được đại đức
dạy bảo và cởi mở hết mọi hoài nghi thắc mắc mà không chịu đền ơn;
hai là đại đức không đủ sức giải đáp các thắc mắc của trẫm nên
trẫm không ban thưởng gì hết. Ngược lại, nếu đại đức không từ
khước thì điều đó khiến trẫm được phước mà chính đại đức cũng vẹn
toàn tiếng thơm.(theo bản dịch G.S. Cao Hữu Ðính)
-
Ngài
Nagasena trả lời:
-
- Thế
thì xin vưng lãnh ý đại vương.
-
Sau
khi họ từ giả, Ngài Nagasena trở về căn lều của Ngài. Hai người
đều nghĩ đến cuộc tranh luận và đều cảm thấy vui với những kết quả
đạt được. Cả hai đều kết luận rằng nhà vua đã hỏi những câu hỏi
hay ho và nhà tu sĩ đã đáp lại bằng những câu trả lời thích đáng.
Cũng nên ghi nhận ở đây rằng vị vua không phải vui vì những câu
hỏi thông minh hay sắc sảo của mình, cũng không phải Ngài Nagasena
vui vì sự sâu sắc và hùng biện mà Ngài đạt được khi trả lời những
câu hỏi khó khăn của vị vua. Niềm vui của hai người nằm ở chỗ họ
đã để ra ngoài những thành kiến và cảm tình cá nhân để có một tinh
thần nghiêm chỉnh trong việc tìm cầu chân lý. Ðiều nầy nói nhiều
với chúng ta về ý nghĩa của lòng thành khẩn và tính chất của một
sự đối thoại chân chính.
-
B-
Cuộc Tranh Luận Của Những Nhà Hiền Triết Và Của Những Bậc Vua
Chúa.
-
Trước
khi khởi sự cuộc tranh luận lịch sử với vua Milinda, Ngài Nagasena
đầu tiên xác định vị thế mà họ sẽ đứng trên đó, như được ghi lại
trong đoạn Kinh sau đây, nhà vua nói:
-
-
Thưa Ðại Ðức, ngài sẽ tranh luận với tôi chăng?
-
- Nếu
Bệ Hạ sẽ tranh luận như một hiền giả, tôi sẽ tuân theo, còn nếu Bệ
hạ tranh luận như một vị vương giả, tôi sẽ không tuân theo.
-
-
Những người hiền giả tranh luận như thế nào?
-
- Khi
những người hiền giả tranh luận về một vấn đề, mục đích là để giải
quyết, làm sáng tỏ vấn đề; khi một trong hai người thấy sự sai sót
của mình, liền thừa nhận là mình sai lầm; những khác biệt và trái
nghịch được vạch ra; và vì vậy họ không sân hận. Thưa Ðức Vua,
những nhà hiền giả tranh luận như vậy.
-
- Và
các vị vua chúa thì tranh luận như thế nào?
-
-
Thưa Bệ hạ, khi một vị vương giả tranh luận một vấn đề, vị vương
giả đặt trước một quan điểm, nếu ai trái ngược lại quan điểm ấy,
người ấy có thể bị trừng phạt. Thưa Bệ hạ, các bậc vương giả tranh
luận như vậy.
-
- Hay
lắm, Tôi sẽ tranh luận trên cương vị một hiền giả, không trên
cương vị một vương giả. Xin Ngài hãy đối thoại một cách thoải mái
như Ngài nói chuyện với anh em, hay với một người sơ học, hay với
một người đệ tử tại gia, hoặc ngay cả như đối với một người tôi
tớ. Xin Ngài đừng ngại!
-
-
Thưa Bệ Hạ, thế thì tốt lắm Ngài Nagasena nói.
-
Ngài
Nagasena muốn bảo đảm ngay từ đầu rằng những vị thế triết lý và
thẩm quyền chính trị cần được phân biệt một cách rõ ràng. Những
người nắm trong tay quyền lực chính trị thường có khuynh hướng
muốn áp đặt quan điểm của họ lên người khác dựa vào quyền hành của
họ, nếu thất bại, họ sẽ dùng áp lực để ép đối phương quy phục.
Nhưng cách thế nầy không bao giờ có thể đưa đến chỗ mở bày chân lý
và không thể được gọi là một chân tranh triết lý hay cuộc tranh
luận của người minh triết. Trong thực tế, nó cũng không phải là
cách thế đúng cho những vị vua chúa, bởi vì một sự tán đồng do bị
ép buộc không phát xuất từ con tim và vô giá trị.
-
Các
học giả Phật Giáo thường đề cập đến đoạn Kinh nầy như là một điển
hình của tinh thần tự do ngôn luận và thẩm vấn. Người ta thường có
khuynh hướng nghĩ rằng sự tự do ngôn luận là một lý tưởng của chế
độ dân chủ chỉ được nhận thức rõ ràng ở Châu Âu trong những kỷ
nguyên gần đây. Nhưng như chúng ta thấy, ở Ấn Ðộ thời xa xưa đã có
một diễn đàn cho sự trao đổi tự do về tư tưởng. Chúng ta không
chối cải là do ở tính khí của người Ấn Ðộ, với sự sùng kính lý
tưởng về dharma(Pháp) hay sự công chính, nhưng ý niệm nầy được đẩy
mạnh với sự toả rộng của tư tưởng Phật Giáo.
-
Bản
Kinh ghi lại tất cả 262 câu hỏi do vua Milinda và Ngài Nagasena
nêu ra. Chúng ta cũng được cho biết rằng có một số câu hỏi không
được ghi lại. Toàn bộ là 304 câu.
-
Ngài
Nagasena trả lời một cách rõ ràng, chính xác, và hoàn toàn thích
hợp từng câu hỏi của vua Milinda, và khi kết thúc một phần, Ngài
đưa ra một câu hỏi, và nhà vua đều trả lời: Ngài nói đúng. Thưa
Ngài Nagasena, tôi nhận chân được đúng điều Ngài muốn nói. Theo
chiều hướng nầy, người đọc được đưa đi từng bước từng bước qua
nhiều phương diện của tín ngưỡng Ðạo Phật, cho đến khi nhận chân
ra là mình đã sở đắc được những chân lý sâu xa và nền tảng nhất
của Ðạo Phật.
-
Vì
vậy, cuốn Kinh được coi như một dẫn lối vào Ðạo Phật, và được phái
Theravada(Phật Giáo Nguyên Thủy) dùng làm tài liệu học hỏi của chư
Tăng. Có thể với những mục đích như vậy, nhà sưu tập(hay những nhà
sưu tập) đã gom chung thành một tập ghi chép về cuộc chân tranh.
-
Theo
bản Kinh, cuối cùng vị vua tràn trề niềm vui, mọi nghi ngờ về Ba
Ngôi Báu Phật, Pháp và Tăng được giải quyết. Không còn kiêu hãnh
và ngạo mạn, nhà vua đạt được sự trong sạch cao cả của niềm tin.
Nhà vua trở nên một tín đồ Phật Giáo tại gia và cúng dường một
ngôi chùa đặt tên là Milinda. Thêm nữa, chúng ta được nghe kể
rằng, về cuối đời, nhà vua truyền ngôi cho con trai rồi xuất gia,
chứng quả A La Hán.
-
Ðây
là thời kỳ chuyển tiếp khi Phật Giáo Ðại Thừa, với sự nhấn mạnh
vào vai trò quan trọng của người Phật tử tại gia, vươn mình ở Ấn
Ðộ, và có thể với ảnh hưởng của Ðại Thừa, tinh thần phá chấp, một
tinh thần năng động và xông pha, tìm đường cho sự tựu thành những
con người đổi mới trong niềm tin, phản ảnh qua toàn bản Kinh mà
chúng ta vừa thảo luận. Chắc chắn tư tưởng Ngài Nagasena, xuyên
qua tinh thần đả phá thành tựu trong việc biến cải một vị vua, có
liên quan trực tiếp với tinh thần của những tín đồ Ðại Thừa về
sau. Và cuộc tranh luận giữa hai triết gia Ðông phương và Tây
phương tiêu biểu cho một sự đối chất công cộng về tín ngưỡng. Như
vậy chúng ta có thể thấy rằng vào thế kỷ thứ hai trước Tây Lịch,
Ðạo Phật đã có một ảnh hưởng lớn lao vào thế giới Hy Lạp ở phương
Tây.
-
Trong
chương kế tiếp, tôi sẽ xin cống hiến khảo cứu về tính chất của sự
ảnh hưởng nầy một cách chi tiết hơn, cũng như thảo luận về sự phát
triển của Ðạo Phật về Phương Nam đến Tích Lan và Miến Ðiện, và về
Phương Ðông đến Trung Hoa.
--o0o--
|
|