|
TẬP SAN DƯỢC SƯ
-
Thay Đổi Vận Mệnh
-
Tâm Như
-
--o0o--
-
-
Trong văn học Nhân Gian Việt
Nam
chúng ta thường nghe nói:
-
- Có trời mà cũng tại ta
-
Chữ tâm kia mới bằng chữ tài.
-
Theo tinh thần nầy, chúng ta thấy con người có một sự chịu đựng
tích cực phi thường khi chúng ta quyết tâm thay đổi: Từ xấu thành
tốt, từ dở thành hay, từ phàm phu trở thành thánh nhân ...
-
Như vậy, muốn sống một cuộc sống hạnh phúc, trước hết chúng ta
phải loại bỏ cách hành xử và trạng thái tâm tiêu cực của chúng ta.
Để vượt qua những ứng xử tiêu cực và có những thay đổi tích cực
trong đời sống của con người, bước đầu tiên là chúng ta phải học
tập, và thực tập cho nhuần nhuyển cách loại bỏ trạng thái tâm tiêu
cực. Có nhiều yếu tố trợ duyên để dẫn đến những thay đổi tích cực
của chính mình:
-
- Học tập
-
- Niềm tin
-
- Quyết tâm,
-
- Hành động,
-
- Và nỗ lực.
-
1- Học Tập & Niềm Tin:
-
Lẽ tất nhiên việc học tập là bước đầu tiên rất quan trọng, vì
những tư lương nầy sẽ giúp chúng ta phát triển niềm tin chắc thật
về nhu cầu cần thay đổi và tăng cường trách nhiệm của con người.
Một khi niềm tin có mặt thì niềm tin muốn thay đổi sẽ phát triển
thành sự quyết tâm. Kế tiếp, chúng ta biến sự quyết tâm thành hành
động, và quyết tâm mạnh mẽ muốn thay đổi tạo thành động cơ khiến
chúng ta có sự nỗ lực bền bỉ để thực hiện những thay đổi cần thiết
như chúng ta muốn. Quả thật như vậy, chẳng hạn nếu chúng ta muốn
không đam mê cờ bạc rượu chè nữa, trước tiên chúng phải ý thức là
hút sách, cờ bạc là nguyên nhân dẫn đến suy nhược cơ thể, nghèo
đói khổ sở. Đồng thời chúng ta phải có sự hướng dẫn về hậu quả tai
hại của hút sách, cờ bạc để thay đổi hành động của con người.
Nhưng chỉ học không thôi chưa đủ, chúng ta phải tăng cường ý thức
đó cho đến khi tin chắc về những hậu quả tai hại của hút sách trụy
lạc. Điều này làm cho sự quyết tâm thay đổi trở nên vững chãi.
Cuối cùng chúng ta phải nỗ lực thực tập cho thành thục thói quen
mới. Đó là con đường có thể biến đổi nội tâm trong mọi sự việc, và
bất cứ trong mọi vấn đề gì mà chúng ta đang cố tâm hoàn thành.
-
2- Quyết Tâm
-
Mặc dù là chúng ta đang hướng nỗ lực vào bất cứ mục tiêu đặc biệt
nào hay hành động nào, chúng ta cũng cần phải bắt đầu bằng cách
sẵn sàng và quyết tâm làm việc đó. Và ở đây, ý thức thời gian cấp
bách là yếu tố chủ chốt. Ý thức cấp bách này là một yếu tố mạnh mẽ
giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn. Chẳng hạn như:
-
- Ý thức về những hậu quả nghiêm trọng của bệnh ung thư phổi đã
tạo ra một ý thức cấp bách ngăn chặn sự tiêu thụ thuốc lá của
nhiều người.
-
Sự quan trọng của sự cấp bách nầy không chỉ áp dụng để vượt khó
khăn ở mức độ cá nhân, mà nó còn ở mức độ rộng lớn trong cộng đồng
nhân loại. Quả thật như vậy, như tình hình Đại Lễ Phật Đản năm
2004, theo dự báo thời tiết sáng hôm đó trời mưa, mà đúng như vậy.
Buổi sáng hôm đó mây đen bay thấp thấp, những giọt mưa nhẹ nhẹ rơi
trên bầu trời
Seattle.
Chúng tôi hết lo ngại, vì không biết các phật tử xa gần có về dự
lễ được không. Nhưng khi giờ rước xe hoa đã đến, chúng tôi hết sức
sửng sốt bởi vì sự đáp ứng của phật tử, mọi người từ mọi nẻo
đường, cùng nhau lũ lượt kéo về khu phố quốc tế để tham gia trong
đoàn rước Phật. Sự hợp tác, dấn thân và ứng phó với những vấn đề
khó khăn của thời tiết khiến chúng tôi hết sức cảm kích. Cho nên
theo chúng tôi:
-
- Muốn đạt được mục tiêu quan trọng, chúng ta cần phải có một sự
đánh giá cao và ý thức cấp bách.
-
Giống như trường hợp này, sự cấp bách về thời gian khởi hành đã
được ấn định bởi cảnh sát dẫn đường, và các phật tử nhiều nơi tự
động tham gia vào hàng ngũ rước Phật và phản ứng nhanh lúc cần
thiết để cúng dường ngày lễ Đản Sanh.
-
3- Nhiệt Tình:
-
Từ khuynh hướng nầy chúng ta thấy, đối với những người hành trì
Phật Giáo, có nhiều phương cách được dùng để tạo ra lòng nhiệt
tình. Nguyên nhân phát sinh lòng tin và lòng nhiệt tình chúng ta
thấy trong kinh điển Phật Giáo có đề cập về những tiềm năng nằm
trong phạm vi của mỗi cá thể, đồng thời cũng nói rõ ý nghĩa về
những mục đích thiện mà chúng ta có thể được sử dụng. Một khi
chúng ta đã có niềm tin, lòng can đảm và ý thức vững chãi về việc
xử dụng thân con người chúng ta một cách tích cực.
-
Tương tự như vậy, muốn phát sinh ý thức cấp bách góp phần vào việc
tu tập, chúng ta phải luôn luôn nhớ đến vô thường, và cái chết.
Nói một cách khác, chúng ta phải nhớ rằng một ngày nào đó, chúng
ta sẽ không còn ở đây nữa. Loại hiểu biết và sự nhận thức vô
thường như thế đó, thì chúng ta mới đánh giá cao về tiềm năng to
lớn của đời sống con người, từ đó mới cho chúng ta ý thức về sự
cấp bách để chúng ta biết xử dụng trong mọi giờ phút. Như vậy suy
tưởng về vô thường và cái chết, đó chính là động cơ mạnh giúp thúc
đẩy chúng ta phát triển ý thức cấp bách, và sự thay đổi tích cực
trong con người chúng ta.
-
Chúng ta có thể xử dụng sự suy tưởng đúng cho mục tiêu ý thức về
khủng hoảng và hiểu biết của những vấn đề mà chúng ta đang đối
mặt, thì chúng ta sẽ nhận thức được tính nghiêm trọng của vấn đề.
Điều này cũng có thể áp dụng cho những vấn đề khác mà chúng ta
phải đối đầu.ÕNhưng đôi khi chúng ta vẫn không có nghị lực để thay
đổi do vì tính nhút nhát hay thiếu nghị lực. Khi nguyên nhân là
tính nhút nhát hay thiếu nghị lực, chúng ta cần phải có động tác
mạnh vào lối sống của chúng ta. Bằng cách nầy, nếu ta cố gắng ngủ
cho đủ, ăn uống điều độ, không uống rượu .. v.. v.. Những điều ấy
sẽ làm cho đầu óc ta sáng suốt hơn. Trong một số trường hợp, ta
cũng cần đến thuốc men hay những vật lý trị liệu nếu nguyên nhân
là do bệnh tật. Nhưng có một loại nhút nhát hay lười biếng khác
phát sinh do nhược điểm của tâm...
-
Mục đích vượt qua loại lọai nhút nhác này, và tạo ra lòng nhiệt
tình là để khắc phục tâm trạng tiêu cực, phương pháp hiệu quả
nhất, và có lẽ giải pháp đúng nhất là luôn luôn ý thức những hậu
quả phá hoại của cách hành xử tiêu cực. Chúng ta cần phải luôn
nhắc nhở mình về những hậu quả phá hoại ấy.ÕNhững ai đã có những
cách hành xử tiêu cực và đã trở thành tật cố hữu như thế, thì thật
sự khó khăn cho sự thay đổi. Do vậy muốn có những sự thay đổi vận
mệnh một cách tích cực trong đời sống, là chúng ta phải tham gia
vào những hành động lành mạnh, tuy có sự chống lại của trạng thái
tâm tiêu cực, nhưng chúng ta phải ghi nhận điều đó hoàn toàn do
thói quen chứ không phải do bản năng.
-
Như vậy, muốn vượt qua được những điều khó khăn đó bằng cách dùng
quá trình làm quen với hoàn cảnh thuận lợi của chúng ta. Do tính
quen thuộc liên tiếp, nhất định chúng ta có thể thực tập được kiểu
hành xử mới. Tiêu biểu như:
-
- Tại Chùa Dược Sư tăng thân ở đây luôn luôn dậy và bắt đầu tụng
kinh lễ sám từ lúc 4:30 sáng, có nhiều vị chưa quen nên khó dậy,
vì vậy lúc đầu cần phải có chút cố gắng để tập cho quen, nhưng sau
một vài tháng, nó trở thành thường lệ thì chúng ta không cần phải
nỗ lực đặc biệt nữa chúng ta cũng dậy được một cách dễ dàng. Khi
đã nhuần rồi, cho dù chúng ta đi ngủ muộn, chúng ta có thể có
khuynh hướng muốn ngủ thêm ít phút nữa, nhưng chúng ta vẫn dậy vào
lúc 4:30 sáng, và đồng thời cũng có thể dậy và làm các công việc
thường lệ hàng ngày mà không phải có một sự cố gắng đặc biệt nào
cả đặc biệt cả. Đó là do sức mạnh của thói quen.
-
Cho nên, bằng vào sự nỗ lực kiên định, chúng ta có thể khắc phục
được bất cứ hoàn cảnh tiêu cực và làm những thay đổi tích cực
trong đời sống của chúng ta. Nhưng chúng ta vẫn cần hiểu rằng, sự
thay đổi thật sự không thể xẩy ra trong một đêm được. Trường hợp
của chính tôi, tôi cho rằng nếu tôi so sánh tâm trạng bình thường
của tôi ngày nay với hay 30 năm 40 năm trước đây, rõ ràng là có
một sự khác biệt lớn. Nhưng sự khác biệt này, xẩy ra từng bước
một. Lúc tôi bắt đầu học Phật khi đó còn rất nhỏ, và lúc đó tôi
không quan tâm gì đến lời Phật dạy mãi cho đến năm tôi khoảng 16,
17 tuổi, tôi mới thực sự có một số cảm giác nghiêm túc nào đó về
lời Phật dạy. Và tôi cố gắng bắt đầu tu tập đứng đắn. Rồi qua
nhiều năm, tôi bắt đầu phát triển sự am hiểu sâu xa về giáo lý vi
diệu của Phật dạy. Về những cách tu tập, lúc mới đầu dường như khó
có thể thực hành được, và hầu như là trái với tự nhiên, nhưng rồi
trở nên rất tự nhiên và dễ hiểu. Điều này xẩy ra qua sự làm quen
dần dần. Đương nhiên, tiến trình này đã mất đến hơn 30 đến 40 năm.
-
Cho nên, trong thực tế, sự phát triển tinh thần cần có nhiều thì
giờ. Điều nầy hợp lý không cần phải bàn cãi, có một vấn đề dường
như cần phải điều hòa đó là sự cần thiết phải có một mức nhiệt
tình và quyết tâm cao độ để thay đổi vận mệnh và chuyển tâm theo
chiều hướng tích cực. Nhưng cùng lúc chúng ta cũng thừa nhận sự
thay đổi đích thực xẩy ra rất chậm, và phải mất nhiều thì giờ. Khi
thay đổi xẩy ra rất chậm chạp, rất dễ trở nên chán nản. Ở một mức
độ nào đó trong việc tu tập và tôi luyện tinh thần nếu gặp một số
trở ngại hay khó khăn, thì chúng ta phải nhìn thấy mục tiêu hữu
dụng lâu dài chứ không phải một quan điểm ngắn hạn. Về mặt này, có
một bài kệ để giúp lòng can đảm và giữ vững quyết tâm. Bài kệ như
thế nầy:
-
- Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
-
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
-
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
-
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
-
Phải biết là việc học tập và giáo dục là bước thứ nhất mang đến sự
biến đổi và thăng hoa trong mỗi con người chúng ta chứ không phải
là sự tu tập huyền bí, mê tín dị đoan. Mặc dù học tập được thừa
nhận là quan trọng trong việc hiểu biết những gì được coi là mới,
hay để bảo đảm sự tiến hóa của con người, và vai trò của giáo dục
là một yếu tố chủ yếu để tạo hạnh phúc đã không được mọi người chú
ý tới.
-
Nhiều cuộc khảo sát đã tìm thấy kết luận là mức giáo dục càng cao
đã có mối tương quan tích cực với sức khỏe càng tốt và sống càng
thọ, và thậm chí còn bảo vệ cá nhân khỏi suy nhược. Trong cố gắng
xác định lý do vì sao tác động của giáo dục có nhiều lợi ích, các
khoa học gia đã lý luận là những cá nhân có giáo dục tốt, thì sự
nhận thức được nhiều hơn về những yếu tố rủi ro cho sức khỏe, và
đồng thời cũng có nhiều khả năng hơn trong việc chọn lựa lối sống
lành mạnh, có khả năng giải quyết vấn đề tốt hơn, và có những
phương cách đối phó hiệu nghiệm hơn. Tất cả những yếu tố đó có thể
góp phần cho đời sống hạnh phúc và lành mạnh hơn.
-
4- Hành Động
-
Bước kế tiếp trong con đường thay đổi, nó đòi hỏi phải tạo ra
quyết tâm và lòng nhiệt tình. Bước này cũng được các nhà khoa học
hiện đại Tây phương chấp nhận là một yếu tố quan trọng trong việc
đạt mục tiêu hạnh phúc của mình. Trong một cuộc nghiên cứu, các
nhà tâm lý học và giáo dục đã khảo sát đời sống của một số người
Hoa Kỳ thành đạt như nghệ sĩ, lực sĩ, và khoa học gia, họ khám phá
sự thành đạt đó là do ra nỗ lực và quyết tâm chứ không phải tài
năng thiên phú dẫn đến thành công trong lãnh vực của họ. Từ đó
chúng ta thấy trong bất cứ lãnh vực nào đi nữa, chúng ta có thể
cho rằng nguyên tắc này được áp dụng vào nghệ thuật tạo hạnh phúc.
-
Những nhà khoa học nghiên cứu cách cư xử của con người đã nghiên
cứu sâu rộng cho nên họ đề xướng, duy trì và hướng dẫn những hoạt
động của chúng ta, nhất là những hoạt động có liên quan đến lãnh
vực hạnh phúc của con người. Những nhà tâm lý học cho chúng ta
biết có ba loại động cơ chính:
-
- Loại thứ nhất, động cơ chính yếu, là nỗ lực căn cứ vào nhu cầu
vật chất phải được đáp ứng để tồn tại. Loại này gồm có nhu cầu về
thực phẩm, nước và không khí.
-
- Một loại động cơ khác đòi hỏi con người cần phải có sự kích
thích và thông tin. Những nhà điều tra nghiên cứu giả thuyết rằng
đó là nhu cầu bẩm sinh, bắt buộc để trưởng thành, phát triển và
hoạt động hệ thống thần kinh.
-
- Loại cuối cùng, gọi là động thứ yếu, đó là loại động cơ căn cứ
vào những nhu cầu đòi hỏi có học vấn và những nỗ lực.
-
Những động cơ thứ yếu này liên quan đến nhu cầu của quyền lực, địa
vị và thành tích trong đời sống. Ở mức động cơ thúc đẩy này, những
nỗ lực của chúng ta có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều xu hướng của xã
hội. Chính trong giai đoạn này, những lý thuyết về tâm lý học hiện
đại trùng hợp với quan niệm về sự quyết tâm và lòng nhiệt thành
của Phật Giáo. Bởi vì, việc tạo ra sự nỗ lực và quyết tâm không
chỉ xử dụng để tìm cầu thành công vật chất mà còn để phát triển
khi chúng ta đạt được sự hiểu biết rõ ràng hơn về các yếu tố dẫn
đến chân hạnh phúc và được xử dụng vào các mục tiêu cao hơn như
lòng tốt, từ bi, và mở mang tinh thần.
-
5- Tinh Tấn:
-
Là yếu tố cuối cùng mang đến về sự thay đổi. Chúng ta phải nhận
dạng tinh tấn là một yếu tố cần thiết để thiết lập điều kiện mới.
Thay đổi lối ứng xử và chuyển hóa tư tưởng tiêu cực thành tích cực
nhờ điều kiện mới là ý tưởng không những đồng với quan điểm với
các nhà tâm lý Tây Phương, mà thực ra còn là nền tảng của phương
pháp thiết lập cách hành xử trong cuộc sống. Loại hành xử này phần
lớn con người tự biết tình trạng của mỗi người và chọn một phương
cách thích hợp để tạo các điều kiện mới tốt đẹp hơn.
-
Trong khi khoa học khám phá ra rằng khuynh hướng của di truyền
cũng đã đóng một vai trò trong cách phản ứng đặc thù của một cá
nhân, hầu hết các nhà khoa học xã hội và các nhà tâm lý học cảm
thấy rằng phần lớn cách ứng xử, suy nghĩ và cảm nhận của con người
là do học tập và điều kiện hoàn cảnh, đó là do sự dạy dỗ có ảnh
hưởng của văn hóa và xã hội chung quanh chúng ta. Và vì người
chúng ta tin rằng cách ứng xử phần lớn được thiết lập bởi điều
kiện tùy thuộc, được tạo thành bởi thói quen, và có khả năng phá
bỏ các điều kiện có hại hay tiêu cực và thay thế chúng bằng điều
kiện có ích, nâng cao đời sống, mà qua đó, tinh tấn bền bỉ thay
đổi cách ứng xử bên ngoài không những giúp ích cho việc khắc phục
những thói xấu, mà còn có thể thay đổi thái độ và những suy tư
lành mạnh khác. Những cuộc thử nghiệm cho thấy không những thái độ
và đặc điểm tâm lý của chúng ta quyết định cách ứng xử, mà cách
ứng xử của chúng ta cũng có thể thay đổi thái độ của chúng ta.
Những nhà nghiên cứu cho thấy cả, đến một cái cau mày, hay nụ cười
giả tạo cũng có thể cho mọi người những cảm xúc giận dữ hay hạnh
phúc. Do vậy nếu chúng ta cứ làm đi làm lại trong cách ứng xử, thì
cuối cùng sẽ mang lại sự thay đổi thật sự ở bên trong. Từ khuynh
hướng nầy, nếu chúng ta bắt đầu bằng một hành động đơn giản giúp
đỡ thường xuyên người khác chẳng hạn, dù chúng ta không cảm thấy
đặc biệt tử tế hay quan tâm, nhưng rồi một lúc nào đó chúng ta có
thể nhận ra biến đổi bên trong đang xẩy ra, và chúng ta dần dà
phát triển lòng từ bi đích thực.
-
Để đem lại sự biến đổi và thay đổi đích thực bên trong, chúng ta
phải để ý đến tầm quan trọng của sự tinh tấn bền bỉ. Đó là một
tiến trình diễn tiến từng bước một. Chúng ta phải tin tưởng vào
sức mạnh to lớn của tâm gần như không điều kiện, nhưng đó là tâm
đã được tôi luyện có hệ thống, bằng nhiều năm kinh nghiệm và biết
suy luận. Phải mất nhiều thời gian mới làm cho cách ứng xử và thói
quen của tâm góp phần vào những vấn đề quan trọng trong cuộc sống
của chúng ta. Lẽ tất nhiên cũng phải mất nhiều thời gian tương
đương để thiết lập những thói quen mới đem lại hạnh phúc. Không có
gì ngoài các thành tố thiết yếu này:
-
- Quyết tâm,
-
- Tinh tấn
-
- Và thời gian.
-
Đó là những bí quyết chúng ta có thể thay đổi vận mệnh thực sự và
sống đời hạnh phúc. Khi đã thay đổi vận mệnh, và trên con đường
thay đổi, điều quan trọng là đề ra những mong ước hợp lý. Nếu
những mong ước quá cao tự chúng ta sẽ thất vọng. Nếu mong ước quá
thấp, chúng ta dễ dàng chấp nhận giới hạn và không sẵn sàng vươn
tới tiềm năng thực sự của chúng ta. Chúng ta không nên bỏ qua tầm
quan trọng, mà phải có một thái độ thực tế, phải nhạy cảm và nắm
bắt tình hình thực tế cụ thể của chúng ta trong khi chúng ta tiến
trên con đường tiến tới mục tiêu tối hậu. Đồng thời chúng ta cũng
phải công nhận những khó khăn cố hữu trên đường đi của chúng ta,
và sự thật nó đòi hỏi phải mất thì giờ và tinh tấn bền bỉ. Quan
trọng là phải nhớ phân biệt giữa lý tưởng và tiêu chuẩn để đánh
giá sự tiến bộ của chúng ta. Chẳng hạn là một Phật Tử, chúng ta
đặt lý tưởng rất cao:
-
- Tự giác, giác tha, và giác ngộ viên mãn.
-
Đó là sự mong ước tối hậu của chúng ta. Tin rằng giác ngộ viên mãn
là thành tựu lý tưởng không phải là một cực đoan. Nhưng mong ước
đạt được nhanh chóng, ngay tại chỗ lại trở thành cực đoan. Dùng
điều đó làm tiêu chuẩn cho lý tưởng, chúng ta dễ trở nên chán nản
và hoàn toàn mất hy vọng khi không nhanh chóng đạt được giác ngộ.
Nếu chúng ta có những mong muốn thái quá mà không có nền tảng vững
chãi, thì đó là sự lẫm lẫn. Nhưng không có mong ước và hy vọng,
không có khao khát thì lại không có tiến bộ. Chúng ta phải có một
số hy vọng rất cần thiết. Cho nên tìm thế quân bình thích đáng
không phải là dễ dàng, do vậy mà chúng ta phải suy xét cẩn thận
trước khi hành động.
-
Nói một cách thực tế, những hạnh phúc cơ bản tùy thuộc vào việc
loại bỏ cách ứng xử và tình trạng của tinh thần tiêu cực như:
-
- Như giận dữ, sân hận, tham lam và vân vân...
-
Một số người cho là giận dữ, sân hận và những cảm xúc tiêu cực
khác là một phần tự nhiên trong tâm chúng ta. Họ cảm thấy vì chúng
là một phần tự nhiên của bản chất trong chúng ta, cho nên không có
cách chi có thể thay đổi những trạng thái tinh thần này. Nhưng
điều đó sai. Thí dụ:
-
- Tất cả chúng ta sinh ra trong một tình trạng vô minh.
-
Trong nghĩa ấy, vô minh cũng hoàn toàn tự nhiên. Dù sao, khi chúng
ta còn trẻ, chúng ta hầu như không biết gì. Nhưng khi chúng ta lớn
lên, ngày lại ngày, qua sự giáo dục và học tập chúng ta có thể có
được những kiến thức, và xua tan vô minh. Tuy nhiên nếu chúng ta
sao lãng với chính mình trong tình trạng vô minh, không có ý thức
mở mang sự học hỏi, chúng ta sẽ không thể nào xua tan vô minh. Cho
nên, nếu chúng ta bỏ quên mình trong trạng thái tự nhiên mà không
nỗ lực xua tan vô minh, thì các yếu tố đối kháng hay tác động của
giáo dục và học tập không tự nhiên mà đến. Tương tự như vậy, nhờ
rèn luyện thích đáng, chúng ta dần dần có thể giảm những cảm xúc
tiêu cực và tăng thêm trạng thái tâm tích cực chẳng hạn như:
-
- Tình thương từ bi và khoan dung
-
Để cân nhắc cách chống lại cảm xúc tiêu cực, và thay đổi vận mệnh
của chúng ta, chúng ta cần phải biết tâm của chính mình hành xử ra
sao là điều trước tiên. Mặc dù những nét tiêu cực như sân hận và
giận dữ là một phần của tâm chúng ta, nhưng chúng ta có thể dùng
sự cố gắng, trong đó chúng ta lấy giận dữ và sân hận làm đối tượng
kháng cự và phê bình với nó. Chẳng hạn như chúng ta phê bình:
-
- Trạng thái giận là làm chúng ta trở nên kỳ cục, trạng thái giận
nó làm cho tư cách chúng ta trở nên thấp kém ...
-
Trong thực tế không có hai cái tôi riêng biệt, đó chỉ là sự tiệm
tiến duy nhất của cùng một cá nhân. Dẫu là như vậy, nhưng việc phê
bình mình, cảm thấy giận dữ với chính mình là khôn ngoan. Đó là
điều biết rõ từ kinh nghiệm riêng của chúng ta. Cho nên mặc dù
trong thực tế chỉ có một sự tiệm tiến cá nhân mà thôi, nhưng chúng
ta có thể tiếp nhận hai cách nhìn khác nhau: Tốt và xấu, tích cực
và tiêu cực ...
-
Những điều này cho thấy, khi chúng ta hiểu về một cái gì đó bằng
khái niệm, có nghĩa là chúng ta có thể có khả năng nhìn vào một
hiện tượng từ nhiều góc độ khác nhau. Và khả năng nhìn sự việc từ
nhiều góc độ khác nhau hoàn toàn là do sự lựa chọn. Khả năng này
hết sức là quan trọng trong việc chúng ta tìm cách nhận biết, và
loại bỏ một số khía cạnh tiêu cực của chính mình, và nâng cao
những nét tích cực. Vì khả năng áp dụng để có cách nhìn khác nhau,
cho nên chúng ta có thể tách mình ra làm nhiều phần, rồi tìm cách
loại bỏ những tánh hư tật xấu.
-
Khi nói về những trạng thái tiêu cực của tâm, đó là một sự cố xúc
cảm và nhận thức bất thần làm chúng ta khổ tâm, đồng thời phá hoại
sự thanh thản, đầu óc của chúng ta, gây xáo trộn trong tâm trí khi
nó phát sinh. Nếu chúng ta chú ý thật kỹ, thì chúng ta rất dễ nhận
ra bản chất của nó là gây khổ sở, chỉ vì chúng có khuynh hướng phá
hoại sự an tĩnh của chúng ta. Cho nên, không có lý do gì mà chúng
ta phải chấp nhận những xúc cảm khổ sở, mà phải loại bỏ khỏi tâm
chúng ta. Trong tư tưởng Phật Giáo có ba tiền đề hay căn cứ mà
chúng tôi tin tưởng rằng điều đó có thể xẩy ra.
-
- Tiền đề trước tiên là tất cả những trạng thái tâm bị đánh lừa,
tất cả những tư tưởng và cảm xúc khổ sở, thực chất là bị bóp méo,
trong đó chúng bám chắc vào nhận thức sai về hoàn cảnh thực tế. Dù
mạnh đến đâu, thì trong cảm xúc tiêu cực ấy không có nền móng vững
chắc, tại vì đó là vô minh.
-
Mặt khác, mọi xúc cảm hay những trạng thái tâm tích cực như tình
thương, từ bi, tuệ giác, vân vân... có nền móng vững chắc. Khi tâm
trải qua những trạng thái tích cực này, không còn có sự bóp méo.
Hơn nữa, những nhân tố tích cực này có căn cứ trên thực tế, có thể
được kiểm chứng bằng kinh nghiệm của chính chúng ta. Thêm vào đó
tất cả những trạng thái tích cực của tâm có đặc tính nâng cao khả
năng, và tăng thêm tiềm năng của chúng ta đến mức vô hạn. Do vậy
nếu chúng ta tu tập, rèn luyện và làm quen không ngừng thì kết quả
rất tốt đẹp. Chẳng hạn như:
-
- Từ bi là một cảm xúc tích cực.
-
Để phát tâm từ bi, chúng ta bắt đầu bằng cách công nhận là chúng
ta không muốn khổ đau và có quyền có hạnh phúc. Điều này có thể
kiểm chứng hay được công nhận có giá trị bằng kinh nghiệm của
chính chúng ta. Rồi chúng ta công nhận rằng những người khác cũng
giống như mình, cũng không muốn khổ đau và họ cũng có quyền có
hạnh phúc. Điều này trở thành cơ sở để chúng ta bắt đầu phát tâm
từ bi. Về cơ bản, có hai loại cảm xúc và trạng thái tâm:
-
- Tích cực và tiêu cực.
-
Những cảm xúc tích cực là những cảm xúc có thể chứng minh, và
những cảm xúc tiêu cực thì không thể chứng minh được. Chẳng hạn
như nói về tham dục, làm sao có thể có tham dục tích cực hay tham
dục tiêu cực. Tham dục vì nhu cầu căn bản là một loại tham dục
tích cực. Nó có thể chứng minh được. Dựa vào thực tế là tất cả
chúng ta đều sống và có quyền sinh tồn, có một số nhu cầu cần phải
có. Vậy loại tham dục này có nền móng vững chắc. Những loại tham
dục tiêu cực như dục vọng và tham lam quá đáng. Những loại tham
dục này không dựa vào những lý do có căn cứ, và thường gây rắc rối
và làm phức tạp cho đời sống. Những loại tham dục này đơn giản là
dựa vào cảm nghĩ bất mãn, muốn nhiều, cả đến những thứ không thực
sự cần thiết. Những loại tham dục này không có lý do vững chắc.
Cho nên, trên phương diện này, chúng ta có thể nói những xúc cảm
tích cực có một nền móng vững vàng có giá trị, và những xúc cảm
tiêu cực không có nền móng có giá trị.
-
Khi nói về việc loại bỏ trạng thái tiêu cực của tâm, để chuyển đổi
vận mệnh có một điểm phải nhớ, và đặc biệt trong phạm vi tu tập
Phật Giáo, sự trau dồi một số các đức tánh tích cực tinh thần như:
-
- Nhẫn nại, khoan dung, tử tế, vân vân...
-
Các loại đức tính nầy có thể thực hiện vai trò hoá giải những
trạng thái tiêu cực của tâm như:
-
- Giận dữ, sân hận, và luyến ái.
-
Dùng chất giải độc như tình thương và từ bi có thể giảm thiểu đáng
kể mức độ hay ảnh hưởng của những đau đớn tinh thần và thể chất.
Về cơ bản những xúc cảm khổ sở này như luyến ái và sân hận, bắt rễ
nơi vô minh, cho nên có quan niệm sai lầm về bản chất thực sự của
thực tế. Trong tất cả các truyền thống Phật Giáo là muốn khắc phục
hoàn toàn những khuynh hướng tiêu cực này, chúng ta phải dùng
thuốc giải độc cho vô minh đó là yếu tố Trí Tuệ. Điều này không
thể thiếu được yếu tố Trí Tuệ, và đòi hỏi phải có hiểu biết thấu
đáo về bản chất thực sự của thực tế. Vậy, trong phạm vi truyền
thống Phật Giáo, chúng ta không những có thuốc giải độc đặc biệt
cho trạng thái đặc biệt của tâm, như: Nhẫn nại, khoan dung ...
Thực hiện vai trò thuốc giải độc đặc biệt cho giận dữ và sân hận,
mà chúng ta còn có thuốc giải độc cho tất cả những trạng thái tiêu
cực của tâm.
-
Bản chất cốt lõi của tâm là thuần khiết. Nó căn cứ vào niềm tin là
ý thức căn bản tiềm ẩn tinh tế không bị ô nhiễm bởi những xúc cảm
tiêu cực. Bản chất của nó là thuần khiết, một trạng thái được coi
là Sáng Tỏ. Bản chất căn bản này của tâm cũng được gọi là Phật
Tánh. Cho nên, vì những xúc cảm tiêu cực không phải là một phần
nội tại trong Phật Tánh, cho nên chúng ta có khả năng loại bỏ
chúng và làm cho tâm thanh tịnh. Dựa những yếu tố này Phật Giáo
chấp nhận những đau đớn tinh thần và cảm xúc, và cuối cùng có thể
loại bỏ được nhờ chủ tâm trau dồi các sức mạnh chuyển đổi vận mệnh
mà qua đó các yếu tố cần thiết như:
-
- Tình thương, từ bi, khoan dung, và vị tha ...
-
Khái niệm bản chất tiềm ẩn của tâm là thanh tịnh, và chúng ta có
khả năng loại bỏ hoàn toàn những kiểu suy nghĩ tiêu cực là một đề
tài mà người học Phật chúng ta thường nghe, mà qua đó chúng ta có
thể so sánh tâm như một ly nước đục ngầu, trạng thái tinh thần đau
đớn giống như những chất dơ bẩn hay bùn có thể loại bỏ để thấy bản
chất thanh tịnh cơ bản của nước. Dù người ta thực hiện biện pháp
nào, nhỏ đến đâu chăng nữa, cuối cùng cũng là để giảm thiểu ảnh
hưởng của những cảm xúc tiêu cực bất an. Nó nhất định gíúp cho ta
có đời sống hạnh phúc hơn và thỏa mãn hơn khi chúng ta quyết tâm
thay đổi vận mệnh. Quan niệm nầy bất cứ ai cũng có thể thực hiện,
đối với người cư sĩ cũng có thể đạt được mức độ nhận thức tinh
thần cao ở một số người có công ăn việc làm, có gia đình, có quan
hệ cuộc sống gia đình... Và không chỉ như thế, nhưng còn có những
người không bắt đầu rèn tập nghiêm túc cho đến cuối cuộc đời mới
có thể thông suốt.
-
Nhiều người Tây Phương tìm đến niềm tin tôn giáo làm nguồn của
hạnh phúc, nhưng đường lối giải quyết căn bản của sự tu học khác
hẳn những tôn giáo Tây Phương, mà qua đó phụ thuộc nhiều vào cách
luyện tâm hơn là vào đức tin. Trong khi một số khía cạnh khác, lối
giải quyết của Phật Giáo giống khoa học tâm trí, một hệ thống mà
chúng ta có thể áp dụng rất giống cách người ta xử dụng trong pháp
tâm lý trị liệu. Như vậy những gì mà Phật Giáo đưa ra còn đi xa
hơn nữa. Trong khi chúng ta đã quen với khái niệm dùng kỹ thuật
điều trị tâm lý, như cách chữa trị các hành vi để nhắm vào các
thói xấu đặc biệt là hút thuốc, uống rượu, nổi nóng... do vậy
người Tây Phương không quen trau dồi những thuộc tính tích cực
như: Tình thương, từ bi, nhẫn nại, rộng lượng làm vũ khí chống lại
những cảm xúc và trạng thái tinh thần tiêu cực. Phương pháp giành
hạnh phúc của Phật Giáo căn cứ vào khái niệm:
-
- Trạng thái tinh thần tiêu cực không phải là một phần nội tại của
tâm, chúng là những trở ngại nhất thời che lấp sự biểu lộ trạng
thái vui sướng và hạnh phúc tiềm ẩn tự nhiên.
-
Hầu hết các trường tâm lý trị liệu theo truyền thống Tây Phương có
khuynh hướng tập trung vào sự điều chỉnh chứng loạn thần kinh,
chức năng của chúng ta chứ không nhắm vào toàn bộ quan điểm con
người. Những trường này khảo sát tiểu sử cá nhân, mối quan hệ,
kinh nghiệm hàng ngày, kể cả những giấc mơ và những ý nghĩ kỳ
quặc. Ngay cả mối quan hệ với bác sĩ chuyên khoa trong cố gắng
giải quyết những mâu thuẫn nội tâm, những động cơ vô ý thức, và
những động lực tâm lý của bệnh nhân góp phần vào khó khăn và bất
hạnh của họ. Mục đích là để điều chỉnh và cải thiện các triệu
chứng mà không trực tiếp huấn luyện tâm để có hạnh phúc. Trong khi
đó nét khác biệt nhất trong phương pháp huấn luyện tâm của Phật
Giáo liên quan đến khái niệm trạng thái tâm tích cực, hay cách
thay đổi vận mệnh có thể thực hiện vai trò giải độc trực tiếp đối
với những trạng thái tâm tiêu cực. Tìm sự so sánh lối giải quyết
này với khoa học ứng xử hiện đại, có lẽ cách chữa trị bằng nhận
thức là gần gũi nhất. Hình thái điều trị tâm lý này, ngày càng trở
nên được ưa chuộng, và vào những thập niên vừa qua đã cho thấy rất
hiệu nghiệm trong việc điều trị hàng loạt những vấn đề phổ biến,
đặc biệt là rối loạn tâm trạng như suy nhược và lo âu. Cách điều
trị nhận thức hiện đại căn cứ vào khái niệm, những xúc cảm gây rối
loạn và cách ứng xử sai lầm gây ra bởi sự suy nghĩ méo mó và niềm
tin phi lý. Cách điều trị nhắm vào giúp người bệnh nhận dạng quan
sát, và sửa chữa có hệ thống những suy nghĩ bị bóp méo ấy. Những
tư tưởng được uốn nắn, trong một ý nghĩa nào đó, đã trở thành
thuốc giải độc cho những kiểu suy nghĩ bị bóp méo mà chúng là
nguồn khổ đau của người bệnh.
-
Nói tóm lại, phương thức thay đổi vận mệnh để sống đời an vui mà
qua đó những nhà nghiên cứu đã chứng minh bằng cách thay đổi lối
suy nghĩ bị bóp méo bằng những hiểu biết có căn cứ, do vậy mà
chúng ta có thể mang lại sự thay đổi cảm nghĩ và cải thiện tâm
trạng của con người. Chúng ta thay đổi cảm xúc, và chống lại ý
nghĩ tiêu cực bằng cách áp dụng đường lối suy nghĩ khác là thực
tế. Để hỗ trợ thêm cho lập trường của đạo giải thoát là chúng ta
có thể khắc phục trạng thái tinh thần tiêu cực của tâm. Khi thực
tế này được phối hợp với bằng chứng cụ thể thì chúng ta có thể
thay đổi cấu trúc và chức năng của bộ não bằng cách trau dồi các
tư tưởng mới, khái niệm mới thì chúng ta có thể đạt được hạnh phúc
do huân luyện tâm để thay đổi vận mệnh là một khả năng chúng ta có
thể làm được.
--o0o--
|
|