TẬP SAN DƯỢC SƯ

Bến Bờ Giác Ngộ
Trúc Giao
--o0o--
 
Trong số Phật Tử chúng ta ít nhiều gì cũng nghe đến từ ngữ:
- Ðáo Bỉ Ngạn.
Nghĩa là:
- Ðến Bờ Bên Kia.
Bờ bên kia là bờ của giác ngộ, bờ bên nầy là bờ của khổ đau phiền muộn.
Ý thức về cuộc đời, về kiếp người khổ nhiều vui ít, cho nên trong các buổi lễ, quý thầy tự sách tấn cho cuộc sống tu tập, nên thường đọc bài Sám Nguyện:
- Ðệ tử chúng con từ vô thỉ
Gây bao tội ác bơi lầm mê
Ðắm trong sanh tử đã bao lần
Nay đến trước đài vô thượng giác
Biển trần khổ lâu đời luân lạc
Với sinh linh vô số điêu tàn
Sống u hoài trong kiếp lầm than
Con lạc lỏng không nhìn phương hướng
Ðàn con dại từ lâu vất vưởng
.................................................
Và rồi cứ mãi trôi lăn trong biển đời đau khổ mãi mãi như vậy. Ðến một lúc nào đó mới ý thức được đâu là nẻo si mê, đâu là bến bờ giác ngộ nên đã phát nguyện một lòng vâng theo lời Phật:
- Chúng con khổ nguyện xin cứu khổ.
Chúng con khổ nguyện xin tự độ.
Trong tinh thần phát nguyện nầy có nhiều ý nghĩa, một mặt, chúng ta cầu nguyện xin Ðức Phật từ bi cứu khổ. Mặt khác, tích cực hơn, chúng ta phát nguyện theo Ðức Phật, để học hiểu và thực hành theo những lời dạy vô cùng quí báu của Ngài, để đạt được mục đích cứu kính là giác ngộ và giải thoát. Hay ít ra, ngay trong đời này, chúng ta cũng tạo dựng cho mình, cho đời, một cuộc sống an lạc và hạnh phúc, trên thế gian đầy phiền não và khổ đau này. Ðối với những người biết tu thì như vậy, nhưng hầu hết trong cuộc sống thế gian nầy, người đời thường kêu trời than khổ vì đủ thứ chuyện, chẳng hạn như:
- Vì nghèo khó,
- Vì bệnh tật,
- Vì tham cầu lợi dưỡng
- Vì thất tình ...
Tuy nhiên, có người cũng giàu có, khỏe mạnh, có sự nghiệp, có tình yêu, nhưng vẫn kêu khổ! Người già than khổ, người trẻ cũng than khổ! Người ngu dốt than khổ, người thông minh cũng than khổ! Già trẻ lớn bé, nam phụ lão ấu, ai ai sống ở đời, mỗi người đều có nỗi khổ riêng. Những người không có niềm tin kêu khổ đã đành, ngay cả những người có niềm tin vẫn cứ kêu khổ ... Quả thật cảnh khổ của con người thiên hình vạn trạng, vì thế mà Phật dạy:
- Ðời là bể khổ.
Ðức Phật dạy như vậy, không phải đạo Phật chủ trương bi quan yếm thế, thụ động chấp nhận định mệnh sẵn có, chấp nhận số phận đã an bài, chấp nhận những cảnh khổ đau của cuộc đời, mà Ðạo Phật chỉ từng cảnh khổ của kiếp người, nhằm mục đích giúp chúng ta phải đối diện với thực tế khi cần, và đồng thời dạy chúng ta phương pháp để:
- Làm sao cho đời sống của con người bớt khổ,
Làm sao cho cuộc đời hết khổ.
Ðây là quan điểm chính xác, và cũng là mục đích cuối cùng của đạo Phật. Nói về cảnh khổ như quý vị đã biết, khổ thì có rất nhiều, nhưng nói chung, có hai thứ khổ:
- Khổ về vật chất
- Khổ về tinh thần.
a- Khổ Về Vật Chất
Khổ về vật chất chẳng hạn như: nghèo khó, bệnh tật, thì có thể giải quyết được, bằng cách này cách khác, trong một thời gian nào đó. Thí dụ như để giải quyết chuyện nghèo khó, chúng ta phải làm việc siêng năng cần cù hơn, biết tiết kiệm hơn trong một thời gian thì sẽ hết khổ. Ðể giải quyết chuyện bệnh tật, chúng ta phải biết giữ gìn vệ sinh cá nhân và vệ sinh công cộng, phải đi bác sĩ khám định kỳ, dùng thuốc men đúng liều lượng chỉ dẫn, ăn ngủ điều độ, tập thể dục thường ngày.
b- Khổ Về Tinh Thần.
Vấn đề hiện nay con người chưa giải quyết được, hoặc chỉ giải quyết một số ít chính là cái khổ về mặt tinh thần. Con người có đến được bến bờ Giác Ngộ hay không phần lớn đều tùy thuộc vào đời sống tinh thần, vì vậy chúng ta hãy thử tìm hiểu nguồn gốc của cái khổ về mặt tinh thần này để tích cực tìm cách tạo dựng cho chúng ta một cuộc sống an lạc và hạnh phúc, ngay trên cuộc đời nầy.
Trong hai cảnh khổ, chúng ta thấy cảnh khổ về vật chất tuy có mệt nhọc về phần thể xác nhưng mà là cái khổ có thể dễ khắc phục, tuy nhiên cái khổ về tinh thần tuy nhẹ nhàng hơn nhưng rất khó đối trị. Thông thường khi gặp cảnh ngộ khổ sở về mặt tinh thần hay tâm linh, chẳng hạn như cuộc sống cá nhân hay gia đình không được hạnh phúc, không được như ý, chúng ta thường cầu nguyện các đấng thiêng liêng giúp đỡ phù hộ. Thành thực mà nói, việc cầu nguyện các đấng thiêng liêng cũng cần, nhưng việc quan trọng là chính mình phải chuyển đổi quan niệm sống mới có kết quả. Bởi vì hạnh phúc ở ngay trong tầm tay của chúng ta, ở ngay trước mặt mà chúng ta không nhận thấy đó thôi, do vậy mà chúng ta lại mất công chạy đông chạy tây, tìm thầy tìm thuốc, để mưu cầu hạnh phúc. Hạnh phúc là do chính chúng ta có biết cách xây dựng và gìn giữ hay không chớ không phải tìm cầu từ người khác và ngoài cuộc sống thực tế của chúng ta. Những ai biết tu học, nhờ giáo lý của đạo Phật, chúng ta sẽ tự tìm được nguyên nhân gây ra phiền não và khổ đau, biết cách tu tập để tiêu diệt hết phiền não và khổ đau, tức là chúng ta tìm được an lạc và hạnh phúc vậy. Theo lời dạy của Ðức Phật, nguồn gốc của sự đau khổ về mặt tinh thần chính là:
- Lòng cố chấp của chúng ta.
Trong Kinh Viên Giác, Ðức Phật có dạy:
- Con người vì vô minh cho nên có hai thứ chấp: chấp ngã và chấp pháp.
Ðó là hai nguyên nhân chính gây ra phiền não và khổ đau của cuộc đời. Khi nào hiểu được một cách rõ ràng và phá trừ được hai nguyên nhân chính gây ra khổ đau về mặt tinh thần này, chúng ta sẽ tìm được an lạc và hạnh phúc thực sự trong cuộc sống hiện tại vậy.
A- Chấp Ngã:
Nói về chấp ngã, có nghĩa là chúng ta chấp cái thân giả tạm và cái tâm vô thường của chúng ta là thực có, cho nên mới phiền não và khổ đau. Trong khi đó thân con người chúng ta được kết hợp bởi bảy đại và năm uẩn đó là: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, và Thức. Nhóm năm uẩn nầy tạm thời chia thành hai phần: Thân và Tâm
1- Sắc Thân
Tức là cái thân xác, lúc mới sanh ra đời chỉ độ một ký lô rưởi hay hai ký lô mà thôi, nhưng bây giờ thì cân nặng đến mấy chục ký lô, chỉ do các chất đất, nước, gió, lửa, tạo nên mà thôi.
- Chất đất là những thứ cứng trong thân người như: Tóc, lông, răng, móng, xương, thịt. Khi còn sống, chúng ta mượn những thứ từ đất mà ra, để bồi bổ cái thân này hằng ngày như: cơm gạo, bánh mì, trái cây. Ðến khi chết, những thứ này trở về với đất.
- Chất nước là những thứ lỏng trong thân người như: máu, mủ, nước miếng. Khi còn sống, chúng ta mượn những thứ từ nước mà ra, để bồi bổ cái thân này hằng ngày như: canh, sữa, nước giải khát. Ðến khi chết, những thứ này trở về với nước.
- Chất gió là những thứ hơi thở trong thân người. Khi còn sống, chúng ta mượn những thứ từ không khí, thở ra thở vô, để bồi bổ cái thân này hằng ngày. Ðến khi chết, những thứ này trở về với không khí.
- Chất lửa là những thứ nhiệt độ ấm trong thân người. Khi còn sống, chúng ta mượn những thứ sanh nhiệt, để bồi bổ cái thân này hằng ngày như: gừng, chất đạm. Ðến khi chết, những thứ này trở về với hư không.
Cái thân giả tạm nặng mấy chục ký lô này của chúng ta gồm những thứ nói trên, trong kinh sách gọi là bảy tứ đại, không phải thực là của chúng ta. Bởi vì nếu cái thân tứ đại này thực là của chúng ta, thì nó phải tuân lệnh và tùy thuộc quyền xử dụng của chúng ta. Chúng ta ai ai cũng muốn cái thân tứ đại này trẻ mãi không già, khỏe mãi không đau, còn mãi không hoại diệt. Nhưng từ xưa đến nay, từ đông sang tây, từ hoàng gia cho đến thứ dân, từ giàu sang đến nghèo hèn, từ học thức đến bình dân, chưa có ai được toại nguyện như ý mình muốn. Vậy mà ai động đến nó, chúng ta liền nổi xung. Cho dù người đó là ai đi nữa, nhứt định cũng phải tranh cải cho bằng được, quyết ăn thua đủ cho hả giận chỉ nhằm bảo vệ cái thân giả tạm không thực này, để rồi một ngày kia chúng ta cũng phải bỏ lại cõi đời giả tạm nầy.
Ðời người chẳng qua chỉ là hơi thở, khi thở ra mà không thở vào nữa thì ô hô tử vong! Ðời người chỉ là tạm vay mượn đất, nước, gió, lửa, từ bên ngoài, để bồi bổ cho đất, nước, gió, lửa, bên trong thân, từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây. Khi không còn vay mượn nữa thì con người cũng không còn tồn tại được. Chỉ vì con người mãi quay cuồng với cuộc sống, nên lúc nào cũng cứ tưởng đời còn dài nên mãi lo tranh chấp, giành giựt, hơn thua từng câu từng lời, cho nên mới đau khổ.
2- Tâm
Về phần tâm thì bao gồm: Thọ Tưởng, Hành, Thức....
a- Tâm Thọ
Như vừa rồi nói về cái sắc thân tứ đại mấy chục ký lô của chúng ta là như vậy. Con người chúng ta là một, mà cái tâm thì thay đổi liên miên không cùng. Chúng ta sở dĩ bị khổ đau nhiều đời nhiều kiếp, bởi vì chúng ta chấp lầm cái vọng tâm lăng xăng lộn xộn, thay đổi liên miên cho là chính mình, rồi theo đó mà chợt vui chợt buồn, suốt ngày suốt đêm, suốt tháng suốt năm, suốt cả cuộc đời này. Vọng tâm của chúng ta gồm có: thọ, tưởng, hành và thức.
Phải biết rằng cái tâm nghĩ suy tính toán, lăng xăng lộn xộn, suốt ngày đêm đó, không phải thực là của chúng ta. Quả thực như vậy, lý do đơn giản là cùng một câu nói, nếu tâm của chúng ta an ổn vui vẻ, thì cho là nói đúng, nói sao cũng được. Ngược lại, khi tâm của chúng ta đang bực bội, thì cho là nói xiên nói xỏ. Ðối với người thân, người mà chúng ta thương yêu, thì chúng ta luôn luôn có những cư xử tốt, và sẳn sàng hy sinh, che chở bảo vệ. Mặc dù người thân của chúng ta không chắc chắn là tốt, hoặc chưa chắc lúc nào cũng tốt như vậy, nhưng trong con mắt chúng ta vẫn thấy người đó là đẹp nhất, và hoàn hảo nhất trên đời, cho nên chúng ta sẳn sàng cung phụng cơm ăn áo mặt, phương tiện cho dù người mà chúng ta thương đó không thiếu thứ gì, nhưng mà trong con mắt chúng ta cứ thấy người mà chúng ta thương thiếu thốn đủ mọi thứ. Còn đối với người chúng ta không thích, thì chúng ta có tâm không tốt, sẵn sàng gây phiền não đau khổ cho họ. Ngay cả đáng được giúp đỡ, nhưng vô tình hay cố ý lơ được là chúng ta cứ lơ đi, ngay cả những việc mà chúng ta biết người kia cần, nhưng chính chúng ta không có cảm giác gì cả. Nghĩa đối với người mà chúng ta không thích, hoặc là kẻ thù của chúng ta, chúng ta thấy họ càng khổ thì mình càng khoái! Một cách ngắn gọn: Cùng một câu chuyện, nếu chúng ta ưa thích thì cho là đúng, ngược lại không ưa, chúng ta cho là sai. Cái tâm thay đổi bất thường như vậy thực sự không phải là của chúng ta. Bởi vậy, kinh sách có câu:
- Tùy tâm biến hiện.
Nghĩa là
- Mọi sự việc trên thế gian này biến hiện như thế nào, tốt hay xấu, lành hay dữ, đúng hay sai, phải hay quấy, được hay không, đều do tâm của chúng ta biến hiện ra cả.
Cho nên sự cảm thọ tùy theo tâm trạng của chúng ta, tùy theo từng cá nhân, không ai giống ai, không lúc nào giống lúc nào, không nơi nào giống nơi nào, không thời đại nào giống thời đại nào. Do đó, tâm thọ thực không đáng tin cậy chút nào.
b- Tâm Tưởng
Như chúng ta ai cũng biết, tâm của chúng ta luôn luôn giàu sự tưởng tượng, vì giàu tưởng tượng cho nên mới gây ra đau khổ. Vì giàu tương tượng cho nên chỉ vì một lời nói vô thưởng vô phạt, thì chúng ta cũng tưởng tượng thêm ra, suy diễn thêm ra, để rồi lên án người nầy, đả kích người kia, nhưng kết cuộc là tự chuốc lấy bực bội, phiền não và khổ đau. Chuyện này xảy ra rất nhiều như cơm bữa trong cuộc sống của mọi gia đình ở khắp mọi nơi. Trong mọi cuộc nói chuyện, thảo luận, thường dễ xảy ra mích lòng, chỉ vì một câu nói hiểu lầm nào đó của một người, cộng thêm tâm trí tưởng tượng của các người khác. Tâm tưởng tượng của người vợ hay người chồng thường dẫn tới chuyện ghen tuông, tạo nên sóng gió, làm giảm hạnh phúc gia đình. Do đó tâm tưởng thực hết sức là nguy hại.
c- Tâm Hành
Sự suy nghĩ của chúng ta là một chuổi dài của tư tưởng, luôn luôn tiếp nối không ngừng, từ chuyện này đến chuyện khác, từ việc này đến việc khác, từ người này đến người khác, từ nơi này đến nơi khác, từ đời này đến đời khác, tạo thành một dòng tư tưởng kéo dài vô cùng vô tận, gọi là tâm hành. Những lúc tâm của chúng ta có những dòng tư tưởng tiếp nối liên tục như vậy, chúng ta muốn dừng nó lại không phải dễ. Chỉ khi nào như vậy thì chúng ta mới biết rằng chúng ta không làm chủ được tâm hành của chính chúng ta. Lúc còn khỏe mạnh, còn hiện hữu trên đời nầy, chúng ta còn không kiểm soát, không điều khiển, không làm chủ được tâm hành của chính mình, thì lúc sắp chết, thân thể đau đớn rã rời vì sự phân ly của bảy đại hay bốn đại, nên tâm thần suy nhược, chắc chắn chúng ta sẽ bị nó dẫn đi đâu thì cũng chịu thôi. Quả thật như vậy, một cụ thể trong cuộc sống hằng ngày như:
- Lúc lên giường muốn ngủ mà cái tâm cứ lo lắng, suy nghĩ vớ vẫn vẫn vơ hoài, muốn dừng cũng không được, cứ tiếp nối liên tục, trằn trọc suốt đêm thâu, không thể nào chợp mắt được! Do đó, tâm hành thực là một động cơ dẫn dắt chúng ta vào vòng sanh tử luân hồi, nên còn được gọi là hành nghiệp.
d- Tâm Thức
Là loại tâm của luôn luôn khởi động vọng niệm về đẹp hay xấu  khi trông thấy một hình sắc nào đó. Chúng ta khởi vọng niệm dễ nghe hay khó nghe khi nghe một âm thinh nào đó, khởi vọng niệm dễ chịu hay khó chịu khi ngửi thấy một mùi nào đó, khởi vọng niệm ngon hay dở khi nếm thấy một vị nào đó, khởi vọng niệm thích hay không thích khi xúc chạm một vật nào đó. Những vọng niệm như vậy đưa đến một kho tàng tâm thức, trong kinh sách gọi là tàng thức, là nơi chứa đựng những chuyện vui hay buồn, thương hay ghét. Chính những vọng niệm, vọng thức này là nguồn gốc của khổ đau. Bởi vì, những vọng niệm đẹp hay xấu, dễ nghe hay khó nghe, dễ chịu hay khó chịu, ngon hay dở, thích hay không thích, không phải lúc nào cũng đúng tuyệt đối.
Chẳng hạn như cùng một con người, người khác chê xấu, chúng ta khen đẹp. Nhất là đối với người thân của mình, là con cũng được là cháu cũng xong, mặc dầu nó xấu, dỡ tệ, nhưng mà trong con mắt chúng ta vẫn cứ thấy nó đẹp nó hay, cho nên cứ sẳn lòng bảo vệ, thế là  đưa đến đấu tranh, cãi cọ cãi vã, cuối cùng đánh nhau, tức nhiên khổ đau. Ở điểm nầy đôi khi chúng ta cũng phải lưu ý trong cách đối xử hằng ngày trong cuộc sống. Chẳng hạn như khi chúng ta đến nhà bạn, thấy con người ta dỡ xấu, hay nó mất dạy, mình cảm thấy khó chịu, mình nhào vô đánh con người ta một trận, bảo là tôi dạy nó cho anh chị, thì cũng phải coi chừng, bởi vì:
- Con có đẻ có thương
Của có làm có tiếc.
Do vậy cho dù là dỡ tệ nhưng mà cũng con của người ta, người ta có quyền bảo vệ, chúng ta không nên can thiệp vào sự dạy dỗ, hay chuyện trong gia đình của người ta. Tương tự như vậy, cùng một món ăn, lúc mới bắt đầu, ăn vì đói bụng, chính mình khen ngon, ngon đáo ngon để, đến lúc no rồi, thì lại thấy dở, hết còn ngon miệng. Cùng một món trái cây như sầu riêng, người khen ngon thơm quá xá, thấy là phát thèm, trong khi đó có người lại chê hôi thúi, khó nuốt khó ngửi, tức nhiên sanh ra, tranh cãi phiền não, đưa đến khổ đau. Như vậy, tâm thức hay các vọng niệm, vọng thức đó chính là nguồn gốc của sự khổ đau.
Thân tứ đại gọi là hình sắc, và các tâm thọ, tâm tưởng, tâm hành, tâm thức, nói chung gọi là ngũ uẩn thực sự không có thật nhưng chúng ta vướng mắt vào sự chấp trước nên mới gây lắm sự. Cho nên trong Bát Nhã Tâm Kinh, Ðức Phật có dạy:
- Chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
Nghĩa là:
- Nếu chúng ta quán sát, chiếu soi, xem xét, thấu hiểu ngũ uẩn đều không, tức là không thực, không thường còn cố định, không đáng để chúng ta quan tâm, thì chắc chắn chúng ta sẽ qua được hết thảy mọi khổ đau ách nạn.
B- Chấp Pháp:
Chúng ta đã hiểu qua thế nào là chấp thân và chấp tâm, nói chung là chấp ngã. Bây giờ, chúng ta thử tìm hiểu: Thế nào là chấp pháp. Chấp pháp có nghĩa là đối với tất cả mọi sự, mọi việc trên đời, chúng ta thường chấp chặt ý kiến, sự suy nghĩ, sự hiểu biết, kinh nghiệm, tài năng của mình, không muốn thay đổi, không muốn cải thiện, cho dù có người khuyên bảo. Ngay cả có người biết mình sai nhưng vẫn cứ chấp chặt!
Có câu chuyện hai anh chàng vào rừng kiếm củi, cả hai mỗi người bó được một gánh củi đem về. Trên đường về, hai anh chàng gặp được cây quế. Anh thứ nhứt bỏ củi, gánh quế đem về vì biết quế có giá trị hơn, bán được nhiều tiền hơn. Anh thứ hai tuy cũng biết như vậy, nhưng chấp chặt cái công gánh củi từ nãy đến giờ, không chịu thay đổi.
Trên thực tế, lắm khi chúng ta biết là đi sai đường, làm sai việc, nói lỡ lời, suy nghĩ tầm bậy, nhưng đã lỡ rồi, cho lỡ luôn, sửa lại thì quê quá, xin lỗi thì chạm tự ái, mất mặt quá. Nhứt định là không được, tới đâu thì tới!
Lòng cố chấp nặng nề như vậy thường dẫn chúng ta đến chỗ đấu tranh bằng lời, đấu tranh bằng võ lực, tức nhiên dẫn đến khổ đau. Những người có thêm một chút học thức, lòng cố chấp càng tăng thêm một chút, họ ít khi chịu nhìn thấy sự thực, ít khi chịu nhận lỗi lầm, ít khi chịu nhường bước người khác. Trong kinh sách gọi đó là:
- Sở tri chướng.
Nghĩa là:
- Cái kiến thức, sự hiểu biết, đã có từ bấy lâu nay, thường làm chướng ngại, cản trở chúng ta nhận ra lẽ phải, nhận ra chân lý.
Trong cuộc sống, chúng ta chứa đầy ắp những cái thấy
- Thành Kiến
- Thiên Kiến,
- Biên Kiến,
- Tà Kiến,
- Ác Kiến,
- Thường Kiến,
- Ðoạn Kiến,
Trong tâm trí cứ luôn luôn đầy ắp những cái thấy sai lầm như vậy, cho nên khó mà chấp nhận được bất cứ ý kiến nào của người khác, khó mà nhận được thế nào là chánh kiến. Trong cuộc sống vợ chồng, ai cũng chấp chặt ý kiến của mình là đúng, không chịu nghe giải thích, không chịu bàn luận với nhau, làm sao gia đình có được hạnh phúc! Ðiều cần phải sửa chính là cái lòng cố chấp của chúng ta mà thôi.
Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy câu chuyện năm người mù rờ voi:
- Người rờ được cái vòi thì nhứt định cho là con voi giống như ống khói thật lớn.
- Người rờ được cái chân thì nhứt định cho là con voi giống như cái cột nhà.
- Người rờ được cái tai thì nhứt định cho là con voi giống như cái quạt thật lớn.
- Người rờ được cái bụng thì nhứt định cho là con voi giống như cái trống thật lớn.
- Người rờ được cái đuôi thì nhứt định cho là con voi giống như cái chổi.
Thế là cả năm người đều chấp chặt cái sở tri, cái hiểu biết của riêng mình, có chứng nghiệm rõ ràng qua sự rờ rẫm hiện vật, cho nên cãi vã nhau, chướng ngại nhau, không ai muốn nghe, không muốn tin điều người khác nói ra, nhứt định cho mình là đúng. Tức nhiên câu chuyện dẫn đến chỗ tranh chấp, ấu đả và khổ đau.
Sự khổ đau trong các gia đình, cũng như ngoài xã hội thường là do sự chấp chặt giữa cha mẹ và con cái. Cha mẹ thì nhứt định phải như vầy và như vầy thì mới đúng, khác đi là không được. Con cái thì nhứt định phải như vậy và như vậy thì mới được, khác đi là không đúng. Những gia đình như thế nhứt định không thể có hạnh phúc. Mỗi người đều có quan điểm sống, sự suy nghĩ và hành động cũng không giống nhau. Nếu biết thông cảm, dung hòa, tha thứ, hiểu biết, thì vui vẻ hạnh phúc. Trái lại nếu cố chấp, bảo thủ ý kiến, thì phiền não và khổ đau. Tệ hơn nữa nếu chúng ta là người không có chút trí tuệ thì cứ luôn luôn bị xúi dại, vì vậy mà chúng ta cứ luôn luôn bị động, cho nên cứ làm những chuyện lợi mình hại người, gây nên tội báo nghiệp báo.
Ít có người biết lo tu tâm dưỡng tánh, lo dừng nghiệp và chuyển nghiệp, lo tu nhân tích phước, lo làm việc phước thiện, để dành phước báo cho mai sau. Những lời bàn ra tán vào, chắn chắn không giúp cho chúng ta có được hạnh phúc, nhưng lại có tác dụng làm mất hạnh phúc của chúng ta.
Nói tóm lại, trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cũng thường mắc phải những lỗi lầm như thế cho nên đau khổ. Chúng ta thường nghe thoáng qua một câu chuyện truyền miệng, không biết đâu là xuất xứ, rồi vội vàng kết luận là người này tốt, lên án người kia xấu, người này phải, người kia quấy, đưa đến chỗ bất đồng ý kiến, tranh cãi gây sự xáo trộn, phiền não và khổ đau cho nhau. Trong lúc chúng ta không có thời gian, không có khả năng, không có hoàn cảnh, không có điều kiện, để tìm hiểu mà đã vội vàng kết luận thì hơi đáng tiếc. Có thể chúng ta chỉ đúng một phần thôi, vì vậy chúng ta nên tập lắng nghe ý kiến của người khác! Hạnh phúc có được là do chúng ta biết lắng nghe lời chân tình, bỏ được Lòng Cố Chấp của chính chúng ta. Bỏ được lòng cố chấp bao nhiêu thì hưởng được hạnh phúc bấy nhiêu. Vậy muốn tạo dựng an lạc và hạnh phúc đời này và đời sau, chúng ta hãy tích cực quán sát và dẹp bỏ hai thứ Chấp Ngã và Chấp Pháp. Thực hiện được như vậy, trước hết là chúng ta tránh được những cuộc tranh cãi vô ích trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Thực hiện được như vậy, chắc chắn chúng ta tránh được phiền não và khổ đau, chắc chắn chúng ta được an lạc và hạnh phúc. An lạc và hạnh phúc hiện hữu chính là chúng ta đã từ bỏ bờ bên nầy là bờ của khổ đau phiền muộn và sang bờ bên kia chính là Bến Bờ Giác Ngộ nơi mà chúng ta cứ mãi cả cuộc đời đi tìm.
--o0o--