|
TẬP SAN DƯỢC SƯ
-
Bến Bờ Giác Ngộ
-
Trúc Giao
-
--o0o--
-
-
Trong số Phật Tử chúng ta ít nhiều gì cũng nghe đến từ ngữ:
-
- Ðáo Bỉ Ngạn.
-
Nghĩa là:
-
- Ðến Bờ Bên Kia.
-
Bờ bên kia là bờ của giác ngộ, bờ bên nầy là bờ của khổ đau
phiền muộn.
-
Ý thức về cuộc đời, về kiếp người khổ nhiều vui ít, cho nên
trong các buổi lễ, quý thầy tự sách tấn cho cuộc sống tu tập,
nên thường đọc bài Sám Nguyện:
-
- Ðệ tử chúng con từ vô thỉ
-
Gây bao tội ác bơi lầm mê
-
Ðắm trong sanh tử đã bao lần
-
Nay đến trước đài vô thượng giác
-
Biển trần khổ lâu đời luân lạc
-
Với sinh linh vô số điêu tàn
-
Sống u hoài trong kiếp lầm than
-
Con lạc lỏng không nhìn phương hướng
-
Ðàn con dại từ lâu vất vưởng
-
.................................................
-
Và rồi cứ mãi trôi lăn trong biển đời đau khổ mãi mãi như vậy.
Ðến một lúc nào đó mới ý thức được đâu là nẻo si mê, đâu là bến
bờ giác ngộ nên đã phát nguyện một lòng vâng theo lời Phật:
-
- Chúng con khổ nguyện xin cứu khổ.
-
Chúng con khổ nguyện xin tự độ.
-
Trong tinh thần phát nguyện nầy có nhiều ý nghĩa, một mặt, chúng
ta cầu nguyện xin Ðức Phật từ bi cứu khổ. Mặt khác, tích cực
hơn, chúng ta phát nguyện theo Ðức Phật, để học hiểu và thực
hành theo những lời dạy vô cùng quí báu của Ngài, để đạt được
mục đích cứu kính là giác ngộ và giải thoát. Hay ít ra, ngay
trong đời này, chúng ta cũng tạo dựng cho mình, cho đời, một
cuộc sống an lạc và hạnh phúc, trên thế gian đầy phiền não và
khổ đau này. Ðối với những người biết tu thì như vậy, nhưng hầu
hết trong cuộc sống thế gian nầy, người đời thường kêu trời than
khổ vì đủ thứ chuyện, chẳng hạn như:
-
- Vì nghèo khó,
-
- Vì bệnh tật,
-
- Vì tham cầu lợi dưỡng
-
- Vì thất tình ...
-
Tuy nhiên, có người cũng giàu có, khỏe mạnh, có sự nghiệp, có
tình yêu, nhưng vẫn kêu khổ! Người già than khổ, người trẻ cũng
than khổ! Người ngu dốt than khổ, người thông minh cũng than
khổ! Già trẻ lớn bé, nam phụ lão ấu, ai ai sống ở đời, mỗi người
đều có nỗi khổ riêng. Những người không có niềm tin kêu khổ đã
đành, ngay cả những người có niềm tin vẫn cứ kêu khổ ... Quả
thật cảnh khổ của con người thiên hình vạn trạng, vì thế mà Phật
dạy:
-
- Ðời là bể khổ.
-
Ðức Phật dạy như vậy, không phải đạo Phật chủ trương bi quan yếm
thế, thụ động chấp nhận định mệnh sẵn có, chấp nhận số phận đã
an bài, chấp nhận những cảnh khổ đau của cuộc đời, mà Ðạo Phật
chỉ từng cảnh khổ của kiếp người, nhằm mục đích giúp chúng ta
phải đối diện với thực tế khi cần, và đồng thời dạy chúng ta
phương pháp để:
-
- Làm sao cho đời sống của con người bớt khổ,
-
Làm sao cho cuộc đời hết khổ.
-
Ðây là quan điểm chính xác, và cũng là mục đích cuối cùng của
đạo Phật. Nói về cảnh khổ như quý vị đã biết, khổ thì có rất
nhiều, nhưng nói chung, có hai thứ khổ:
-
- Khổ về vật chất
-
- Khổ về tinh thần.
-
a- Khổ Về Vật Chất
-
Khổ về vật chất chẳng hạn như: nghèo khó, bệnh tật, thì có thể
giải quyết được, bằng cách này cách khác, trong một thời gian
nào đó. Thí dụ như để giải quyết chuyện nghèo khó, chúng ta phải
làm việc siêng năng cần cù hơn, biết tiết kiệm hơn trong một
thời gian thì sẽ hết khổ. Ðể giải quyết chuyện bệnh tật, chúng
ta phải biết giữ gìn vệ sinh cá nhân và vệ sinh công cộng, phải
đi bác sĩ khám định kỳ, dùng thuốc men đúng liều lượng chỉ dẫn,
ăn ngủ điều độ, tập thể dục thường ngày.
-
b- Khổ Về Tinh Thần.
-
Vấn đề hiện nay con người chưa giải quyết được, hoặc chỉ giải
quyết một số ít chính là cái khổ về mặt tinh thần. Con người có
đến được bến bờ Giác Ngộ hay không phần lớn đều tùy thuộc vào
đời sống tinh thần, vì vậy chúng ta hãy thử tìm hiểu nguồn gốc
của cái khổ về mặt tinh thần này để tích cực tìm cách tạo dựng
cho chúng ta một cuộc sống an lạc và hạnh phúc, ngay trên cuộc
đời nầy.
-
Trong hai cảnh khổ, chúng ta thấy cảnh khổ về vật chất tuy có
mệt nhọc về phần thể xác nhưng mà là cái khổ có thể dễ khắc
phục, tuy nhiên cái khổ về tinh thần tuy nhẹ nhàng hơn nhưng rất
khó đối trị. Thông thường khi gặp cảnh ngộ khổ sở về mặt tinh
thần hay tâm linh, chẳng hạn như cuộc sống cá nhân hay gia đình
không được hạnh phúc, không được như ý, chúng ta thường cầu
nguyện các đấng thiêng liêng giúp đỡ phù hộ. Thành thực mà nói,
việc cầu nguyện các đấng thiêng liêng cũng cần, nhưng việc quan
trọng là chính mình phải chuyển đổi quan niệm sống mới có kết
quả. Bởi vì hạnh phúc ở ngay trong tầm tay của chúng ta, ở ngay
trước mặt mà chúng ta không nhận thấy đó thôi, do vậy mà chúng
ta lại mất công chạy đông chạy tây, tìm thầy tìm thuốc, để mưu
cầu hạnh phúc. Hạnh phúc là do chính chúng ta có biết cách xây
dựng và gìn giữ hay không chớ không phải tìm cầu từ người khác
và ngoài cuộc sống thực tế của chúng ta. Những ai biết tu học,
nhờ giáo lý của đạo Phật, chúng ta sẽ tự tìm được nguyên nhân
gây ra phiền não và khổ đau, biết cách tu tập để tiêu diệt hết
phiền não và khổ đau, tức là chúng ta tìm được an lạc và hạnh
phúc vậy. Theo lời dạy của Ðức Phật, nguồn gốc của sự đau khổ về
mặt tinh thần chính là:
-
- Lòng cố chấp của chúng ta.
-
Trong Kinh Viên Giác, Ðức Phật có dạy:
-
- Con người vì vô minh cho nên có hai thứ chấp: chấp ngã và chấp
pháp.
-
Ðó là hai nguyên nhân chính gây ra phiền não và khổ đau của cuộc
đời. Khi nào hiểu được một cách rõ ràng và phá trừ được hai
nguyên nhân chính gây ra khổ đau về mặt tinh thần này, chúng ta
sẽ tìm được an lạc và hạnh phúc thực sự trong cuộc sống hiện tại
vậy.
-
A- Chấp Ngã:
-
Nói về chấp ngã, có nghĩa là chúng ta chấp cái thân giả tạm và
cái tâm vô thường của chúng ta là thực có, cho nên mới phiền não
và khổ đau. Trong khi đó thân con người chúng ta được kết hợp
bởi bảy đại và năm uẩn đó là: Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, và Thức.
Nhóm năm uẩn nầy tạm thời chia thành hai phần: Thân và Tâm
-
1-
Sắc Thân
-
Tức là cái thân xác, lúc mới sanh ra đời chỉ độ một ký lô rưởi
hay hai ký lô mà thôi, nhưng bây giờ thì cân nặng đến mấy chục
ký lô, chỉ do các chất đất, nước, gió, lửa, tạo nên mà thôi.
-
- Chất đất là những thứ cứng trong thân người như: Tóc, lông,
răng, móng, xương, thịt. Khi còn sống, chúng ta mượn những thứ
từ đất mà ra, để bồi bổ cái thân này hằng ngày như: cơm gạo,
bánh mì, trái cây. Ðến khi chết, những thứ này trở về với đất.
-
- Chất nước là những thứ lỏng trong thân người như: máu, mủ,
nước miếng. Khi còn sống, chúng ta mượn những thứ từ nước mà ra,
để bồi bổ cái thân này hằng ngày như: canh, sữa, nước giải khát.
Ðến khi chết, những thứ này trở về với nước.
-
- Chất gió là những thứ hơi thở trong thân người. Khi còn sống,
chúng ta mượn những thứ từ không khí, thở ra thở vô, để bồi bổ
cái thân này hằng ngày. Ðến khi chết, những thứ này trở về với
không khí.
-
- Chất lửa là những thứ nhiệt độ ấm trong thân người. Khi còn
sống, chúng ta mượn những thứ sanh nhiệt, để bồi bổ cái thân này
hằng ngày như: gừng, chất đạm. Ðến khi chết, những thứ này trở
về với hư không.
-
Cái thân giả tạm nặng mấy chục ký lô này của chúng ta gồm những
thứ nói trên, trong kinh sách gọi là bảy tứ đại, không phải thực
là của chúng ta. Bởi vì nếu cái thân tứ đại này thực là của
chúng ta, thì nó phải tuân lệnh và tùy thuộc quyền xử dụng của
chúng ta. Chúng ta ai ai cũng muốn cái thân tứ đại này trẻ mãi
không già, khỏe mãi không đau, còn mãi không hoại diệt. Nhưng từ
xưa đến nay, từ đông sang tây, từ hoàng gia cho đến thứ dân, từ
giàu sang đến nghèo hèn, từ học thức đến bình dân, chưa có ai
được toại nguyện như ý mình muốn. Vậy mà ai động đến nó, chúng
ta liền nổi xung. Cho dù người đó là ai đi nữa, nhứt định cũng
phải tranh cải cho bằng được, quyết ăn thua đủ cho hả giận chỉ
nhằm bảo vệ cái thân giả tạm không thực này, để rồi một ngày kia
chúng ta cũng phải bỏ lại cõi đời giả tạm nầy.
-
Ðời người chẳng qua chỉ là hơi thở, khi thở ra mà không thở vào
nữa thì ô hô tử vong! Ðời người chỉ là tạm vay mượn đất, nước,
gió, lửa, từ bên ngoài, để bồi bổ cho đất, nước, gió, lửa, bên
trong thân, từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây. Khi không
còn vay mượn nữa thì con người cũng không còn tồn tại được. Chỉ
vì con người mãi quay cuồng với cuộc sống, nên lúc nào cũng cứ
tưởng đời còn dài nên mãi lo tranh chấp, giành giựt, hơn thua
từng câu từng lời, cho nên mới đau khổ.
-
2- Tâm
-
Về phần tâm thì bao gồm: Thọ Tưởng, Hành, Thức....
-
a- Tâm Thọ
-
Như vừa rồi nói về cái sắc thân tứ đại mấy chục ký lô của chúng
ta là như vậy. Con người chúng ta là một, mà cái tâm thì thay
đổi liên miên không cùng. Chúng ta sở dĩ bị khổ đau nhiều đời
nhiều kiếp, bởi vì chúng ta chấp lầm cái vọng tâm lăng xăng lộn
xộn, thay đổi liên miên cho là chính mình, rồi theo đó mà chợt
vui chợt buồn, suốt ngày suốt đêm, suốt tháng suốt năm, suốt cả
cuộc đời này. Vọng tâm của chúng ta gồm có: thọ, tưởng, hành và
thức.
-
Phải biết rằng cái tâm nghĩ suy tính toán, lăng xăng lộn xộn,
suốt ngày đêm đó, không phải thực là của chúng ta. Quả thực như
vậy, lý do đơn giản là cùng một câu nói, nếu tâm của chúng ta an
ổn vui vẻ, thì cho là nói đúng, nói sao cũng được. Ngược lại,
khi tâm của chúng ta đang bực bội, thì cho là nói xiên nói xỏ.
Ðối với người thân, người mà chúng ta thương yêu, thì chúng ta
luôn luôn có những cư xử tốt, và sẳn sàng hy sinh, che chở bảo
vệ. Mặc dù người thân của chúng ta không chắc chắn là tốt, hoặc
chưa chắc lúc nào cũng tốt như vậy, nhưng trong con mắt chúng ta
vẫn thấy người đó là đẹp nhất, và hoàn hảo nhất trên đời, cho
nên chúng ta sẳn sàng cung phụng cơm ăn áo mặt, phương tiện cho
dù người mà chúng ta thương đó không thiếu thứ gì, nhưng mà
trong con mắt chúng ta cứ thấy người mà chúng ta thương thiếu
thốn đủ mọi thứ. Còn đối với người chúng ta không thích, thì
chúng ta có tâm không tốt, sẵn sàng gây phiền não đau khổ cho
họ. Ngay cả đáng được giúp đỡ, nhưng vô tình hay cố ý lơ được là
chúng ta cứ lơ đi, ngay cả những việc mà chúng ta biết người kia
cần, nhưng chính chúng ta không có cảm giác gì cả. Nghĩa đối với
người mà chúng ta không thích, hoặc là kẻ thù của chúng ta,
chúng ta thấy họ càng khổ thì mình càng khoái! Một cách ngắn
gọn: Cùng một câu chuyện, nếu chúng ta ưa thích thì cho là đúng,
ngược lại không ưa, chúng ta cho là sai. Cái tâm thay đổi bất
thường như vậy thực sự không phải là của chúng ta. Bởi vậy, kinh
sách có câu:
-
- Tùy tâm biến hiện.
-
Nghĩa là
-
- Mọi sự việc trên thế gian này biến hiện như thế nào, tốt hay
xấu, lành hay dữ, đúng hay sai, phải hay quấy, được hay không,
đều do tâm của chúng ta biến hiện ra cả.
-
Cho nên sự cảm thọ tùy theo tâm trạng của chúng ta, tùy theo
từng cá nhân, không ai giống ai, không lúc nào giống lúc nào,
không nơi nào giống nơi nào, không thời đại nào giống thời đại
nào. Do đó, tâm thọ thực không đáng tin cậy chút nào.
-
b-
Tâm Tưởng
-
Như chúng ta ai cũng biết, tâm của chúng ta luôn luôn giàu sự
tưởng tượng, vì giàu tưởng tượng cho nên mới gây ra đau khổ. Vì
giàu tương tượng cho nên chỉ vì một lời nói vô thưởng vô phạt,
thì chúng ta cũng tưởng tượng thêm ra, suy diễn thêm ra, để rồi
lên án người nầy, đả kích người kia, nhưng kết cuộc là tự chuốc
lấy bực bội, phiền não và khổ đau. Chuyện này xảy ra rất nhiều
như cơm bữa trong cuộc sống của mọi gia đình ở khắp mọi nơi.
Trong mọi cuộc nói chuyện, thảo luận, thường dễ xảy ra mích
lòng, chỉ vì một câu nói hiểu lầm nào đó của một người, cộng
thêm tâm trí tưởng tượng của các người khác. Tâm tưởng tượng của
người vợ hay người chồng thường dẫn tới chuyện ghen tuông, tạo
nên sóng gió, làm giảm hạnh phúc gia đình. Do đó tâm tưởng thực
hết sức là nguy hại.
-
c-
Tâm Hành
-
Sự suy nghĩ của chúng ta là một chuổi dài của tư tưởng, luôn
luôn tiếp nối không ngừng, từ chuyện này đến chuyện khác, từ
việc này đến việc khác, từ người này đến người khác, từ nơi này
đến nơi khác, từ đời này đến đời khác, tạo thành một dòng tư
tưởng kéo dài vô cùng vô tận, gọi là tâm hành. Những lúc tâm của
chúng ta có những dòng tư tưởng tiếp nối liên tục như vậy, chúng
ta muốn dừng nó lại không phải dễ. Chỉ khi nào như vậy thì chúng
ta mới biết rằng chúng ta không làm chủ được tâm hành của chính
chúng ta. Lúc còn khỏe mạnh, còn hiện hữu trên đời nầy, chúng ta
còn không kiểm soát, không điều khiển, không làm chủ được tâm
hành của chính mình, thì lúc sắp chết, thân thể đau đớn rã rời
vì sự phân ly của bảy đại hay bốn đại, nên tâm thần suy nhược,
chắc chắn chúng ta sẽ bị nó dẫn đi đâu thì cũng chịu thôi. Quả
thật như vậy, một cụ thể trong cuộc sống hằng ngày như:
-
- Lúc lên giường muốn ngủ mà cái tâm cứ lo lắng, suy nghĩ vớ vẫn
vẫn vơ hoài, muốn dừng cũng không được, cứ tiếp nối liên tục,
trằn trọc suốt đêm thâu, không thể nào chợp mắt được! Do đó, tâm
hành thực là một động cơ dẫn dắt chúng ta vào vòng sanh tử luân
hồi, nên còn được gọi là hành nghiệp.
-
d-
Tâm Thức
-
Là loại tâm của luôn luôn khởi động vọng niệm về đẹp hay xấu
khi trông thấy một hình sắc nào đó. Chúng ta khởi vọng niệm dễ
nghe hay khó nghe khi nghe một âm thinh nào đó, khởi vọng niệm
dễ chịu hay khó chịu khi ngửi thấy một mùi nào đó, khởi vọng
niệm ngon hay dở khi nếm thấy một vị nào đó, khởi vọng niệm
thích hay không thích khi xúc chạm một vật nào đó. Những vọng
niệm như vậy đưa đến một kho tàng tâm thức, trong kinh sách gọi
là tàng thức, là nơi chứa đựng những chuyện vui hay buồn, thương
hay ghét. Chính những vọng niệm, vọng thức này là nguồn gốc của
khổ đau. Bởi vì, những vọng niệm đẹp hay xấu, dễ nghe hay khó
nghe, dễ chịu hay khó chịu, ngon hay dở, thích hay không thích,
không phải lúc nào cũng đúng tuyệt đối.
-
Chẳng hạn như cùng một con người, người khác chê xấu, chúng ta
khen đẹp. Nhất là đối với người thân của mình, là con cũng được
là cháu cũng xong, mặc dầu nó xấu, dỡ tệ, nhưng mà trong con mắt
chúng ta vẫn cứ thấy nó đẹp nó hay, cho nên cứ sẳn lòng bảo vệ,
thế là đưa đến đấu tranh, cãi cọ cãi vã, cuối cùng đánh nhau,
tức nhiên khổ đau. Ở điểm nầy đôi khi chúng ta cũng phải lưu ý
trong cách đối xử hằng ngày trong cuộc sống. Chẳng hạn như khi
chúng ta đến nhà bạn, thấy con người ta dỡ xấu, hay nó mất dạy,
mình cảm thấy khó chịu, mình nhào vô đánh con người ta một trận,
bảo là tôi dạy nó cho anh chị, thì cũng phải coi chừng, bởi vì:
-
- Con có đẻ có thương
-
Của có làm có tiếc.
-
Do vậy cho dù là dỡ tệ nhưng mà cũng con của người ta, người ta
có quyền bảo vệ, chúng ta không nên can thiệp vào sự dạy dỗ, hay
chuyện trong gia đình của người ta. Tương tự như vậy, cùng một
món ăn, lúc mới bắt đầu, ăn vì đói bụng, chính mình khen ngon,
ngon đáo ngon để, đến lúc no rồi, thì lại thấy dở, hết còn ngon
miệng. Cùng một món trái cây như sầu riêng, người khen ngon thơm
quá xá, thấy là phát thèm, trong khi đó có người lại chê hôi
thúi, khó nuốt khó ngửi, tức nhiên sanh ra, tranh cãi phiền não,
đưa đến khổ đau. Như vậy, tâm thức hay các vọng niệm, vọng thức
đó chính là nguồn gốc của sự khổ đau.
-
Thân tứ đại gọi là hình sắc, và các tâm thọ, tâm tưởng, tâm
hành, tâm thức, nói chung gọi là ngũ uẩn thực sự không có thật
nhưng chúng ta vướng mắt vào sự chấp trước nên mới gây lắm sự.
Cho nên trong Bát Nhã Tâm Kinh, Ðức Phật có dạy:
-
- Chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.
-
Nghĩa là:
-
- Nếu chúng ta quán sát, chiếu soi, xem xét, thấu hiểu ngũ uẩn
đều không, tức là không thực, không thường còn cố định, không
đáng để chúng ta quan tâm, thì chắc chắn chúng ta sẽ qua được
hết thảy mọi khổ đau ách nạn.
-
B- Chấp Pháp:
-
Chúng ta đã hiểu qua thế nào là chấp thân và chấp tâm, nói chung
là chấp ngã. Bây giờ, chúng ta thử tìm hiểu: Thế nào là chấp
pháp. Chấp pháp có nghĩa là đối với tất cả mọi sự, mọi việc trên
đời, chúng ta thường chấp chặt ý kiến, sự suy nghĩ, sự hiểu
biết, kinh nghiệm, tài năng của mình, không muốn thay đổi, không
muốn cải thiện, cho dù có người khuyên bảo. Ngay cả có người
biết mình sai nhưng vẫn cứ chấp chặt!
-
Có câu chuyện hai anh chàng vào rừng kiếm củi, cả hai mỗi người
bó được một gánh củi đem về. Trên đường về, hai anh chàng gặp
được cây quế. Anh thứ nhứt bỏ củi, gánh quế đem về vì biết quế
có giá trị hơn, bán được nhiều tiền hơn. Anh thứ hai tuy cũng
biết như vậy, nhưng chấp chặt cái công gánh củi từ nãy đến giờ,
không chịu thay đổi.
-
Trên thực tế, lắm khi chúng ta biết là đi sai đường, làm sai
việc, nói lỡ lời, suy nghĩ tầm bậy, nhưng đã lỡ rồi, cho lỡ
luôn, sửa lại thì quê quá, xin lỗi thì chạm tự ái, mất mặt quá.
Nhứt định là không được, tới đâu thì tới!
-
Lòng cố chấp nặng nề như vậy thường dẫn chúng ta đến chỗ đấu
tranh bằng lời, đấu tranh bằng võ lực, tức nhiên dẫn đến khổ
đau. Những người có thêm một chút học thức, lòng cố chấp càng
tăng thêm một chút, họ ít khi chịu nhìn thấy sự thực, ít khi
chịu nhận lỗi lầm, ít khi chịu nhường bước người khác. Trong
kinh sách gọi đó là:
-
- Sở tri chướng.
-
Nghĩa là:
-
- Cái kiến thức, sự hiểu biết, đã có từ bấy lâu nay, thường làm
chướng ngại, cản trở chúng ta nhận ra lẽ phải, nhận ra chân lý.
-
Trong cuộc sống, chúng ta chứa đầy ắp những cái thấy
-
- Thành Kiến
-
- Thiên Kiến,
-
- Biên Kiến,
-
- Tà Kiến,
-
- Ác Kiến,
-
- Thường Kiến,
-
- Ðoạn Kiến,
-
Trong tâm trí cứ luôn luôn đầy ắp những cái thấy sai lầm như
vậy, cho nên khó mà chấp nhận được bất cứ ý kiến nào của người
khác, khó mà nhận được thế nào là chánh kiến. Trong cuộc sống vợ
chồng, ai cũng chấp chặt ý kiến của mình là đúng, không chịu
nghe giải thích, không chịu bàn luận với nhau, làm sao gia đình
có được hạnh phúc! Ðiều cần phải sửa chính là cái lòng cố chấp
của chúng ta mà thôi.
-
Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy câu chuyện năm người mù rờ
voi:
-
- Người rờ được cái vòi thì nhứt định cho là con voi giống như
ống khói thật lớn.
-
- Người rờ được cái chân thì nhứt định cho là con voi giống như
cái cột nhà.
-
- Người rờ được cái tai thì nhứt định cho là con voi giống như
cái quạt thật lớn.
-
- Người rờ được cái bụng thì nhứt định cho là con voi giống như
cái trống thật lớn.
-
- Người rờ được cái đuôi thì nhứt định cho là con voi giống như
cái chổi.
-
Thế là cả năm người đều chấp chặt cái sở tri, cái hiểu biết của
riêng mình, có chứng nghiệm rõ ràng qua sự rờ rẫm hiện vật, cho
nên cãi vã nhau, chướng ngại nhau, không ai muốn nghe, không
muốn tin điều người khác nói ra, nhứt định cho mình là đúng. Tức
nhiên câu chuyện dẫn đến chỗ tranh chấp, ấu đả và khổ đau.
-
Sự khổ đau trong các gia đình, cũng như ngoài xã hội thường là
do sự chấp chặt giữa cha mẹ và con cái. Cha mẹ thì nhứt định
phải như vầy và như vầy thì mới đúng, khác đi là không được. Con
cái thì nhứt định phải như vậy và như vậy thì mới được, khác đi
là không đúng. Những gia đình như thế nhứt định không thể có
hạnh phúc. Mỗi người đều có quan điểm sống, sự suy nghĩ và hành
động cũng không giống nhau. Nếu biết thông cảm, dung hòa, tha
thứ, hiểu biết, thì vui vẻ hạnh phúc. Trái lại nếu cố chấp, bảo
thủ ý kiến, thì phiền não và khổ đau. Tệ hơn nữa nếu chúng ta là
người không có chút trí tuệ thì cứ luôn luôn bị xúi dại, vì vậy
mà chúng ta cứ luôn luôn bị động, cho nên cứ làm những chuyện
lợi mình hại người, gây nên tội báo nghiệp báo.
-
Ít có người biết lo tu tâm dưỡng tánh, lo dừng nghiệp và chuyển
nghiệp, lo tu nhân tích phước, lo làm việc phước thiện, để dành
phước báo cho mai sau. Những lời bàn ra tán vào, chắn chắn không
giúp cho chúng ta có được hạnh phúc, nhưng lại có tác dụng làm
mất hạnh phúc của chúng ta.
-
Nói tóm lại, trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta cũng thường mắc
phải những lỗi lầm như thế cho nên đau khổ. Chúng ta thường nghe
thoáng qua một câu chuyện truyền miệng, không biết đâu là xuất
xứ, rồi vội vàng kết luận là người này tốt, lên án người kia
xấu, người này phải, người kia quấy, đưa đến chỗ bất đồng ý
kiến, tranh cãi gây sự xáo trộn, phiền não và khổ đau cho nhau.
Trong lúc chúng ta không có thời gian, không có khả năng, không
có hoàn cảnh, không có điều kiện, để tìm hiểu mà đã vội vàng kết
luận thì hơi đáng tiếc. Có thể chúng ta chỉ đúng một phần thôi,
vì vậy chúng ta nên tập lắng nghe ý kiến của người khác! Hạnh
phúc có được là do chúng ta biết lắng nghe lời chân tình, bỏ
được Lòng Cố Chấp của chính chúng ta. Bỏ được lòng cố chấp bao
nhiêu thì hưởng được hạnh phúc bấy nhiêu. Vậy muốn tạo dựng an
lạc và hạnh phúc đời này và đời sau, chúng ta hãy tích cực quán
sát và dẹp bỏ hai thứ Chấp Ngã và Chấp Pháp. Thực hiện được như
vậy, trước hết là chúng ta tránh được những cuộc tranh cãi vô
ích trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Thực hiện được như
vậy, chắc chắn chúng ta tránh được phiền não và khổ đau, chắc
chắn chúng ta được an lạc và hạnh phúc. An lạc và hạnh phúc hiện
hữu chính là chúng ta đã từ bỏ bờ bên nầy là bờ của khổ đau
phiền muộn và sang bờ bên kia chính là Bến Bờ Giác Ngộ nơi mà
chúng ta cứ mãi cả cuộc đời đi tìm.
--o0o--
|
|