TẬP SAN DƯỢC SƯ

Không Còn Phiền Muộn
Nguyên Châu
--o0o--
 
Cụ Nguyễn Du có nói:
- Sầu đong càng lắc càng đầy
Ba Thu dồn lại một ngày dài ghê
Quả thật những ai có tâm sự phiền muộn, thì cảm thấy cuộc đời không có ý nghĩa, do vậy mà ngày tháng như dài ra thêm theo sự mong mỏi của chúng ta. Phiền muộn là cái mà không ai tha thiết mong đợi, nhưng trong cuộc sống hằng ngày lại không có một ai dám bảo đảm chúng ta là người không có những bất an trước những nỗi lo âu phiền muộn, giông tố bảo bùng của kiếp làm người. Cho nên tinh thần cầu nguyện, mong muốn có một cuộc sống thảnh thơi, không còn phiền muộn là điều mọi người ai cũng đều mong ước. Do vậy mà người ta thường cầu nguyện bằng nhiều cách, tùy thuộc vào niềm tin và nhận thức của mỗi cá nhân.
Nếu những ai chưa thấm nhuần giáo pháp, thì họ thường đi khấn vái ở am này đền nọ. Đối với người thấm nhuần Phật pháp thì không cho lối cầu nguyện ấy là thích đáng, bởi vì người Phật tử nghĩ rằng:
- Duy chỉ đem tâm thành kính, thanh tịnh, trang nghiêm trì tụng kinh chú trước ngôi Tam Bảo, và vâng lời Phật dạy làm những việc ích mình lợi người, bố thí phóng sanh để cầu cho thế giới hòa bình chúng sanh an lạc, thì sự cầu nguyện ấy mới đúng với Chánh pháp.
Sự an bình hạnh phúc hay phiền muộn lo âu trong con mỗi người chúng ta được thể hiện ở trên hai lãnh vực là thân và tâm.
Nói Về Thân:
- Khi thân bị bệnh, bị đói khát, rét mướt, tai nạn, tật nguyền, đó là nói đến đời sống của những con người bình thường. Còn đối với những người vì lý do nào đó mà bị bắt bớ tù tội thì thân thể bị tra tấn đánh đập .. v.v... Tất cả những trạng thái đó là những bất an, phiền muộn của thân.
Nói Về Tâm:
- Khi tâm sầu muộn, bi ai, âu lo, sợ sệt, ân hận hay uất hận, giận hờn, do vì các phiền não của tham, sân, si chi phối đó là những mối bất an của tâm.
Nhìn chung thì chúng ta thấy những an bình, hạnh phúc, hay lo âu phiền muộn tuy là nhiều hình dạng khác nhau, nhưng thường xảy ra trong hai hạng người:
a- Những Con Người Nghiêm Túc
- Những con người nghiêm túc là những con người hiểu đạo lý nhân quả, nghiệp báo, cho nên cách hành xử của hạng người nầy luôn luôn có chánh niệm cho nên họ sống rất là thảnh thơi, không phiền muộn.
b- Những Con Người Phóng Túng:
Ở đời cũng có những hạng người sống hời hợt, chỉ biết tìm cầu sự an lành ở thể chất qua sự đáp ứng cho những đòi hỏi như:
- Ăn ngon, mặc đẹp,
- Lắm của nhiều tiền,
- Mong cho tai qua nạn khỏi,
- Công thành danh toại, chứ ít khi nghĩ đến sự an lành cho tâm hồn, nên họ thường thản nhiên để cho tham tâm khởi, si tâm, kiêu căng, ngã mạn sanh khởi.
Kết quả họ là phải chuốc lấy nhiều phiền muộn, ray rứt ân hận đè nặng lên tâm thức hằng ngày, hằng giờ, từng phút, từng giây không bao giờ nguôi.
Trong mối tương quan tương duyên giữa thân và tâm quyện vào nhau thì những nỗi lo âu phiền muộn hoặc sự an lành của thân và tâm khó mà có thể diễn tả một cách tường tận. Hơn nữa, vấn đề cảm nhận còn tùy vào nhận thức và khả năng tu tập của mỗi người. Tuy nhiên một cách giản lược, thì sự lo âu phiền muộn hoặc thảnh thơi an lành được tác động trên hai lãnh vực là: Bên ngoài và chính tự trong thân chúng ta.
a- Bên Ngoài:
Những cái bất an đau khổ từ bên ngoài đưa đến, đó là sự bất an của hoàn cảnh, như bị tai nạn, bị đánh đập, thiên tai bảo lụt, nạn dân ách nước. Muốn tránh, chúng ta phải có những hành động thích ứng để đem lại an lành, chẳng hạn như:
- Nếu những lo âu phiền muộn do đói rét, nghèo khổ mà sanh ra thì chúng ta phải tìm công ăn việc làm, phải cần mẫn, làm việc có phương pháp để đem lại cơm no áo ấm. Khi thân nhuốm bệnh, ta phải điều trị, uống thuốc, biết đi dưỡng và đề phòng.
b- Bên Trong:
Nếu những sự lo âu phiền muộn chính tự trong chúng ta như là những sầu, bi, khổ, ưu, não. Muốn tránh những bất an đó, chúng ta phải trì tụng kinh chú, thiền tọa, kinh hành tức là trau giồi tâm ta bằng cách tu tâm dưỡng tánh, thực hành theo giáo lý của đức Phật dạy như nếu:
- Đau khổ do vì tâm tham, thì chúng ta phải cố gắng tu pháp môn bố thí. Quán rõ thật tướng của vạn pháp là vô thường, khổ, vô ngã cho lòng tham lắng xuống.
- Phiền muộn do vì tâm sân làm chúng ta đau khổ, thì phải tu pháp quán từ bi, tu pháp nhẫn nhục, để đập tan ngọn lửa sân hận đang hừng hực đốt cháy từ trong tâm của ta.
- Nếu đau khổ phiền muộn do vì si mê tật đố, thì chúng ta phải tu pháp quán nhân duyên, để nhận thức rõ ràng tất cả sự vật đều do nhân duyên giả hợp, là trống rỗng, là hư dối, chứ không phải là chắc chắn như ta tưởng.
- Nếu đau khổ phiền muộn do vì tâm ganh tỵ, thì chúng ta phải phát khởi tâm hoan hỷ để chúng ta sẳn sàng tùy hỷ những cái hay và những sự thành tựu của người khác. 
Khi đã quán rõ được các pháp như vậy, thì tự nhiên tâm tham lam, tật đố sẽ lắng xuống để nhường chỗ cho một nhận thức rộng rãi hơn, sáng suốt hơn. Lúc đó chúng ta sẽ không bị cái tâm tình tham lam chấp thủ làm điên đảo. Như vậy khi mà chúng ta giải trừ được sự tác động, quậy rối của tham, sân, si trong tâm thì đó là cách cầu an làm cho tâm hồn nhẹ nhàng trong sáng, không còn phiền muộn.
Ngược dòng lịch sử, chúng ta thấy, Thầy Thần Quang đến cầu xin Tổ Bồ Đề Đạt Ma an tâm cho mình, cũng chính vì lẽ này.
Thần Quang là một cao tăng Trung Hoa, sau khi tham học nhiều nơi nhưng không thỏa mãn tâm cầu đạo. Cuối cùng nghe đến danh Tổ Sư Đạt Ma, Thầy không quản mệt nhọc lặn lội tìm đến để gặp Tổ Bồ Đề Đạt Ma, đang ngồi lặng yên nhìn vách tại chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn, và ân cần tha thiết van xin Tổ giải thoát nổi thống khổ ray rứt trong lòng. Theo truyền thuyết khi Thầy Thần Quang đến cầu đạo thì Tổ Bồ Đề Đạt Ma bảo:
- Ngày xưa chư Phật chư Tổ cầu đạo phải trải qua không biết bao nhiêu gian nan khó nhọc mới được đạo, ngày nay ngươi có được là bao mà đòi cầu đạo, thôi hãy đứng đó cho đến khi nào tuyết trắng thành hồng thì sẽ hay, và sau đó Tổ tiếp tục ngồi yên lặng, lầm lì thản nhiên một cách tàn nhẫn.
Thầy Thần Quang không nản chí, đứng suốt đêm giữa tuyết với đôi mắt long lanh, hoài vọng. Và sau đó lấy thanh kiếm chặt đứt cánh tay trái của mình và thưa:
- Bạch Thầy tuyết bây giờ đã biến thành hồng rồi.
Tổ cảm thấy động lòng, liền hỏi:
- Ngươi đến đây để cầu việc gì?
Thần Quang rưng rưng nước mắt vội thưa:
- Bạch Thầy, tâm con không an, xin Thầy an tâm cho.
Tổ bảo:
- Người hãy đem tâm ngươi ra đây, ta an cho.
Thần Quang sửng sốt một hồi lâu, rồi thưa tiếp:
- Bạch Thầy, con kiếm tâm mà chẳng thấy đâu cả.
Tổ đáp:
- Đó, ta đã an tâm cho người rồi đó.
Đây là một hình ảnh hết sức đẹp, để tưởng nhớ đến chư liệt vị tổ sư đã đi qua trong đời và cũng là để nhắc nhở, sách tấn chúng ta trên con đường tu học, chúng tôi xin được tóm tắc như sau:
- Lác đác tuyết rơi trắng một màu
Mây trời phiêu bạt hướng về đâu
Thiếu Lâm Thiền Tự trong tỉnh giác
Có khách thiền tăng đến nguyện cầu
 
Có kẻ tìm cầu đạo Thích Ca
Vượt qua muôn dặm, vượt quan hà
Ðể tìm chân lý cho nhân loại
Mong ước mai nầy dệt gấm hoa.
 
Và rồi thuở đó Tổ Ðạt Ma
Chín năm diện bích ngắm trăng tà
Tuyết rơi trên đỉnh Tung Sơn đó
Một Huệ Khả cầu đạo Thích Ca.
 
Và truyện lưu truyền ở cửa không
Cánh tay đứt xuống tuyết điểm hồng
Người cầu an tịnh tâm an tịnh
Khai lộ chân truyền giáo thiền tôn.
 
Không biết rồi đây có ai không?
Băng rừng đạp tuyết núi chập chùng
Ði tìm cái đạo như Nhị Tổ
Ðã có người chưa có ai không?
 
Thấy cảnh nhớ về Tổ xa xưa
Tâm từ tế độ mấy cho vừa
Người nay xin đốt hương lòng sáng
Dâng cúng mười phương sớm chiều trưa.
Đây là một cách an tâm thâm thúy nhất trong muôn vàn cách an tâm mà đức Phật đã dạy, được ghi lại thành văn và không thành văn. Nếu ai có một tâm hồn tha thiết cầu an tâm, để không còn phiền muộn và biết tiếp thu thấu đáo pháp an tâm của đức Phật thì chắc chắn cũng sẽ được an tâm như Thầy Thần Quang.
Vậy vấn đề thảnh thơi an lạc, không còn phiền muộn không phải chỉ một mực cầu an thân mà bỏ mất sự an ổn nơi tâm hồn. Lý do rất giản, nếu thân không có tâm thì cũng chỉ là một đống thịt, một xác chết. Cho nên, thể xác được an lạc khi có sự cảm nhận ấy của tâm thức, và cấp độ an lạc cũng tùy thuộc vào sức mạnh của tâm thức. Như có người dù bệnh nhẹ, nhưng tâm hồn yếu đuối, khiếp nhược thì những nỗi khổ đau của cơn bệnh sẽ tăng gấp bội. Và ngược lại, người bị bệnh nặng, nhưng với tâm thức bình tĩnh sáng suốt, có ý chí vững mạnh, không giải đải buông xuôi, thì nỗi khổ đau của cơn bệnh cũng trở nên nhẹ. Với sức mạnh của tâm hồn, tức là tâm an lạc, có tác động làm vơi đi những khổ đau ở thân xác.
Ở đời thường có hai hạng người sống theo hai lối sống thái quá:
- Có hạng chỉ chú trọng cưng dưỡng thân xác, tạo an lạc cho thân xác bằng sự thỏa mãn những ham muốn nhục dục.
- Lại có hạng quá khổ hạnh bằng sự tiết chế tất cả những nhu cầu tối thiểu và tự hành hạ thân xác. Đó chỉ là những lối sống không trung đạo, thiếu cân bằng mà ngày xưa đức Thế Tôn đã từ bỏ và cấm các đệ tử thực hành.
Trong bài pháp Bốn Sự Thật đầu tiên cho năm Thầy Tỳ Kheo, câu mở đầu Ngài dạy rằng:
Có hai thái cực cần phải tránh xa:
- Thái cực thứ nhất là sống xa hoa trụy lạc vật dục, đó là lối sống thấp hèn, không đưa đến giải thoát, cần phải tránh.
- Thái cực thứ hai là sống ép xác khổ hạnh, nhịn ăn nhịn mặc, chịu đói chịu rét, đứng giữa trời, nóng lạnh hành hạ, thì đó cũng là lối sống tà vạy không đưa đến giải thoát, cần phải tránh.
Đức Phật khuyên cần phải tránh xa hai lối sống ấy để tu hành mới đưa đến giải thoát. Như vậy Ngài không phủ nhận đời sống về thể xác, nhưng Ngài cũng không tán dương cái lối sống tham đắm vật chất, chỉ biết chú trọng đến thân mà không chú trọng đến tâm. Một trong những bài pháp không lời, nhưng hùng hồn nhất trong cuộc đời đức Phật, đó là sự quyết định dứt khoát ra đi tìm đạo. Sự ra đi nầy Ngài chấp nhận cuộc sống sương gió lạnh lùng, nắng cháy mưa chan. Bài pháp Đức Phật đã bỏ quốc thành, thê tử đi xuất gia là dạy cho chúng ta bài học, nhắc nhở cho tất cả những ai muốn đi trên con đường an lạc, thì trước nhất phải có lối sống quân bình, chứ không phải bỏ ăn, bỏ làm, ghét bỏ của cải hoặc phung phí của cải, nhưng phải biết sống không say mê vật chất, không say mê theo đời sống dục lạc, xa hoa, không tìm hạnh phúc, không chôn vùi cuộc đời vào những tham muốn thấp hèn. Bởi vì nhiều tiền chưa hẳn có hạnh phúc, chức trọng quyền cao chưa chắc có hạnh phúc. Các yếu tố vật chất chỉ là những phần phụ thuộc, còn cái hạnh phúc chân thật bao giờ cũng chính là trong lòng chúng ta.
Khi lòng ta khởi tham lam do bị tiền của chi phối, bị quyền lợi danh vọng chi phối, thì tấm lòng của ta trở nên hẹp hòi ích kỷ, khi đã ích kỷ thì nó không thể trải rộng để hứng lấy những hạnh phúc cao thượng, chân thật được. Bởi vậy, trên bước đường tu tập cầu giải thoát an lạc không còn phiền muộn, người Phật tử phải chú trọng tu tập cả hai mặt thể xác lẫn tâm hồn:
- Với thể xác luôn luôn phải biết tri túc, cần có cơm đủ no, mặc đủ ấm, cần đủ những tiện nghi tối thiểu mà không nên hưởng thụ tham đắm vật chất tức là phải sống quân bình không để rơi vào hai thái cực như Phật đã dạy.
- Với tinh thần, phải giữ cho tâm hồn luôn luôn được trong sáng, được rộng rãi. Người Phật tử càng biết mở rộng từ bi tâm, càng diệt trừ được chấp thủ, tham ái thì càng có hạnh phúc chân thật.
Khi tâm hồn không trong sáng, nhiều tham đắm thì dù ở trên vàng trên bạc thì chúng ta vẫn không cho là đủ, không cho là đủ vì còn mong cầu là còn khổ. Hạnh phúc chỉ đến với những tâm hồn biết tiết chế, có đạo đức cao cả, có tu tập theo giáo pháp đức Phật, sống trong sáng hướng thiện, sống không tham và biết đủ như trong kinh Di Giáo đã dạy:
- Người nhiều ham muốn, nhiều tham cầu lợi dưỡng nên khổ não cũng nhiều. Người biết đủ tuy nằm dưới đất mà vẫn lấy làm an vui, người không biết đủ, dù ở thiên đường vẫn không vừa ý.
Là ngời Phật Tử, chúng ta nên noi theo gương chư Tổ đức, nơi đó chúng ta thấy quý ngài có đời sống vật chất rất đơn sơ, đạm bạc, thế mà tâm hồn quý ngài rất tự tại, rất khoan khoái, rất an nhiên vui vẻ. Không hề thoáng những nét cau có, giận hờn hoặc buồn rầu. Bởi vì tâm hồn của quý ngài đã vượt lên trên tất cả những tầm thường của đời sống thế gian, đời sống của tham lam ích kỷ. Các ngài đã làm chủ được tâm, điều phục được tâm, để tâm không bị chi phối bởi ngoại cảnh, và tham, sân, si, nên đối trước hoàn cảnh nào các ngài cũng vẫn tự tại an vui.
Thông thường chúng ta chỉ đi tìm sự an bình trong thế giới hiện tượng, tìm nguồn vui trong thế giới vật chất. Tìm an bình trong thế giới hiện tượng thì muôn vạn sắc mầu, cho nên khó có thể làm cho chúng ta thỏa mãn. Tìm nguồn vui trong thế giới vật chất, thì vật chất luôn chuyển biến vô thường, một khi không thỏa mãn thì cũng khổ. Vì thế cho dù chúng ta chạy theo thế giới hiện tượng hay vật chất, rốt cuộc rồi chúng ta cũng chỉ nắm bắt được những bào ảnh an lạc. Và chính cái mà chúng ta cho là an lạc đó lại là nhân của cái khổ, nhân quả quả nhân, mãi mãi vận hành trong quá trình sinh tử.
Hình ảnh của một con người không chạy theo thế giới hiện tượng và vật chất là một con người thoát tục không ai xa lạ chính là hình ảnh của con người giải thoát đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Câu chuyện được trong kinh ghi lại. Một hôm đức Phật một mình ngồi trên đám cỏ, lúc đó có một người Bà La Môn đi qua thấy vậy liền hỏi:
- Sa môn Cù Đàm có sầu muộn hay sao mà ngồi một mình cô độc thế?
Đức Phật trả lời:
- Ta mất gì mà Ta sầu muộn?
Ông ta lại hỏi:
- Nếu không sầu muộn thì chắc là Ngài hoan hỷ, mà hoan hỷ thì sao lại ngồi cô độc một mình?
Đức Phật lại trả lời:
- Ta được gì mà Ta hoan hỷ?
Người đó ngạc nhiên hỏi lại:
- Không sầu muộn thì hoan hỷ, không hoan hỷ thì sầu muộn. Ngài không hoan hỷ, không sầu muộn là nghĩa làm sao?
Đức Phật trả lời rằng:
- Hoan hỷ chỉ đến với người có tâm sầu muộn, sầu muộn chỉ đến với người có tâm hoan hỷ. Ta đã dứt bỏ nguồn gốc của sầu muộn rồi, cho nên Ta không sầu muộn, cũng không hoan hỷ. Tâm ta không dao động.
Qua lời dạy ngắn gọn, nhưng hàm chứa một ý nghĩa thâm sâu vô cùng, giúp ta soi rọi vào thực tế cuộc đời để thấy rằng:
- Hoan hỷ là điều người đời mong muốn, và chỉ đạt sự mong muốn qua sự nắm bắt, chấp thủ, như mong cho được trúng số độc đắc, mong sự ước muốn tìm cầu của cải vật chất, như vậy thì cái hoan hỷ đó là những hoan hỷ đi đến với người có tâm thiếu thốn và sầu muộn, và sau hoan hỷ đó chắc chắn là những sầu muộn âu lo của mất mát. Như người vừa trúng số thì sung sướng vô cùng nhưng liền sau đó không khỏi lo sợ mọi người ai cũng biết, nhẹ thì bà con biết sẽ đến xin, đến mượn, hoặc bị mất, hoặc bị cháu con tranh giành làm mất hòa khí gia đình. Nặng thì chắc chắn sẽ có kẻ xấu rình rập trộm cắp, bắt cóc người tống tiền, cướp của giết người. Nếu cố giấu không cho ai biết thì cũng phập phồng sợ người ta biết.
Tham cầu là một nỗi khổ, khi thành đạt là một sự hoan hỷ, rồi mất mát lại là một nỗi khổ. Sầu muộn rồi hoan hỷ, hoan hỷ rồi sầu muộn cứ nối đuôi nhau mãi.
Có người đang cồn cào vì cơn đói, đang khổ vì đói, nếu ai đem cho thức ăn thì họ sẽ rất sung sướng, rất hoan hỷ. Thế là hoan hỷ đi đến với người có tâm sầu muộn.
Có người đang hoan hỷ trong cái nhà mới mua, bỗng bị một kẻ tinh nghịch ném phân chọi đá làm loang lỗ tường vách, làm người ấy tức tối, sầu muộn, như vậy là sầu muộn đi đôi với người có tâm hồn hoan hỷ.
Cuộc đời của chúng ta cứ mãi diễn đi diễn lại, hoan hỷ rồi sầu muộn, sầu muộn rồi hoan hỷ. Ngày qua tháng lại. Suốt cả cuộc đời mãi loanh quanh ở trong cái vòng, cái tâm lượng của chúng ta phân biệt, so đo phe mình, phe ta mà sanh ra như thế.
Đức Phật, Ngài đã dứt hết nguồn gốc chấp thủ, tức là diệt hết nguồn gốc của khổ đau. Ngài luôn hoan hỷ, một sự hoan hỷ không tạo nên bằng tiền tài danh vọng, chức quyền mà là một sự hoan hỷ đã dứt sạch nguồn gốc khổ đau, tức là dứt sạch vô minh, tham ái, chấp thủ. Bởi vậy, Ngài dạy:
- Ta không hoan hỷ cũng không sầu muộn.
Nhưng chính cái không hoan hỷ không sầu muộn trong đối đãi ấy, mới là một sự hoan hỷ không thể diễn đạt bằng cái quan niệm so sánh, có cái nầy vì cái kia có. Đây chính là sự hoan hỷ của đức Phật được tạo nên bằng trí giác ngộ, bằng tâm từ bi, lòng hỷ xả, đó là sự hoan hỷ vi diệu, vĩnh cửu. Một sự hoan hỷ phát xuất từ nội tâm của một người tu tập đã tự tại với nguồn tâm trong sáng. Đó là sự hoan hỷ không bị ai cướp mất vì không phải giành của ai mà có được, nhưng lại ban bố cho tất cả.
Chúng ta là người học Phật, ít nhiều gì chúng ta cũng đã có một số vốn luyến Phật Pháp căn bản, do vậy chúng ta nên cố gắng xây dựng niềm hoan hỷ, an lạc bằng những công phu tu tập, trưởng dưỡng từ bi, khơi sáng nguồn tri giác, thì đằng sau của sự hoan hỷ an lạc đó không nhuốm bóng dáng sầu muộn, sợ hãi.
Nói tóm lại, là người Phật Tử có học và hành giáo pháp của Phật, chúng ta nên quay trở về với nguồn nội tại của mình. Một khi chúng ta là người có tu tập là người hiểu biết tâm, cho nên khi tham tâm khởi, sân tâm khởi, tâm kiêu mạn khởi .. v.v... thì chúng ta phải lập tức điều phục tâm, chế ngự tâm để hướng dẫn tâm của chúng ta trở thành tự tại, và giải thoát. Được thế, thì khi chúng ta đứng trước bất cứ một hoàn cảnh nào, chúng ta cũng tĩnh giác, tâm không bị chi phối. Hơn nữa chúng ta lại còn chủ động, biết sử dụng mọi phương tiện, trong mọi hoàn cảnh, để phục vụ những mục đích cao đẹp, đó là làm chủ được đời sống cả vật chất lẫn tinh thần là một cách sống an lạc, tự tại giải thoát, không còn phiền muộn.
Là người Phật tử, chúng ta còn sống trong cuộc sống tương quan giữa cuộc đời, do vậy chúng ta cần phải có tiền, cần có cơm ăn, áo mặc, cần có mọi tiện nghi cần thiết trong cuộc sống. Tuy nhiên chúng ta cũng phải cần có tu trì, phải có từ bi hỷ xả, cần có trí tuệ, có bố thí, trì giới .. v.v...
Thực hiện lời Phật dạy, là chúng ta đã xây dựng bản thân và xã hội tốt đẹp, và cũng là cách mà chúng ta có thể sống cuộc sống không còn phiền muộn, trạng thái không còn phiền muộn nầy là một trạng thái thiết thực nhất, đem lại an lạc cho nhiều đời, ngay hiện tại cũng như các đời khác trong tương lai.
Thực hiện lờì Phật dạy, là chúng ta phải chịu khó tu học, tụng kinh, niệm Phật, thiền tọa kinh hành, trưởng dưỡng thiện tâm là mục đích hiện đời chúng ta không còn phiền muộn, và trong tương lai sẽ tiến dần đến đạo quả giác ngộ giải thoát.
--o0o--