|
TẬP SAN DƯỢC SƯ

-
Không Còn Phiền Muộn
-
Nguyên Châu
-
--o0o--
-
-
Cụ Nguyễn Du có nói:
-
- Sầu đong càng lắc
càng đầy
-
Ba Thu dồn lại một
ngày dài ghê
-
Quả thật những ai có
tâm sự phiền muộn, thì cảm thấy cuộc đời không có ý nghĩa, do
vậy mà ngày tháng như dài ra thêm theo sự mong mỏi của chúng ta.
Phiền muộn là cái mà không ai tha thiết mong đợi, nhưng trong
cuộc sống hằng ngày lại không có một ai dám bảo đảm chúng ta là
người không có những bất an trước những nỗi lo âu phiền muộn,
giông tố bảo bùng của kiếp làm người. Cho nên tinh thần cầu
nguyện, mong muốn có một cuộc sống thảnh thơi, không còn phiền
muộn là điều mọi người ai cũng đều mong ước. Do vậy mà người ta
thường cầu nguyện bằng nhiều cách, tùy thuộc vào niềm tin và
nhận thức của mỗi cá nhân.
-
Nếu những ai chưa thấm
nhuần giáo pháp, thì họ thường đi khấn vái ở am này đền nọ. Đối
với người thấm nhuần Phật pháp thì không cho lối cầu nguyện ấy
là thích đáng, bởi vì người Phật tử nghĩ rằng:
-
- Duy chỉ đem tâm
thành kính, thanh tịnh, trang nghiêm trì tụng kinh chú trước
ngôi Tam Bảo, và vâng lời Phật dạy làm những việc ích mình lợi
người, bố thí phóng sanh để cầu cho thế giới hòa bình chúng sanh
an lạc, thì sự cầu nguyện ấy mới đúng với Chánh pháp.
-
Sự an bình hạnh phúc
hay phiền muộn lo âu trong con mỗi người chúng ta được thể hiện
ở trên hai lãnh vực là thân và tâm.
-
Nói Về Thân:
-
- Khi thân bị bệnh, bị
đói khát, rét mướt, tai nạn, tật nguyền, đó là nói đến đời sống
của những con người bình thường. Còn đối với những người vì lý
do nào đó mà bị bắt bớ tù tội thì thân thể bị tra tấn đánh đập
.. v.v... Tất cả những trạng thái đó là những bất an, phiền muộn
của thân.
-
Nói Về Tâm:
-
- Khi tâm sầu muộn, bi
ai, âu lo, sợ sệt, ân hận hay uất hận, giận hờn, do vì các phiền
não của tham, sân, si chi phối đó là những mối bất an của tâm.
-
Nhìn chung thì chúng
ta thấy những an bình, hạnh phúc, hay lo âu phiền muộn tuy là
nhiều hình dạng khác nhau, nhưng thường xảy ra trong hai hạng
người:
-
a- Những Con Người
Nghiêm Túc
-
- Những con người
nghiêm túc là những con người hiểu đạo lý nhân quả, nghiệp báo,
cho nên cách hành xử của hạng người nầy luôn luôn có chánh niệm
cho nên họ sống rất là thảnh thơi, không phiền muộn.
-
b- Những Con Người
Phóng Túng:
-
Ở đời cũng có những
hạng người sống hời hợt, chỉ biết tìm cầu sự an lành ở thể chất
qua sự đáp ứng cho những đòi hỏi như:
-
- Ăn ngon, mặc đẹp,
-
- Lắm của nhiều tiền,
-
- Mong cho tai qua nạn
khỏi,
-
- Công thành danh
toại, chứ ít khi nghĩ đến sự an lành cho tâm hồn, nên họ thường
thản nhiên để cho tham tâm khởi, si tâm, kiêu căng, ngã mạn sanh
khởi.
-
Kết quả họ là phải
chuốc lấy nhiều phiền muộn, ray rứt ân hận đè nặng lên tâm thức
hằng ngày, hằng giờ, từng phút, từng giây không bao giờ nguôi.
-
Trong mối tương quan
tương duyên giữa thân và tâm quyện vào nhau thì những nỗi lo âu
phiền muộn hoặc sự an lành của thân và tâm khó mà có thể diễn tả
một cách tường tận. Hơn nữa, vấn đề cảm nhận còn tùy vào nhận
thức và khả năng tu tập của mỗi người. Tuy nhiên một cách giản
lược, thì sự lo âu phiền muộn hoặc thảnh thơi an lành được tác
động trên hai lãnh vực là: Bên ngoài và chính tự trong thân
chúng ta.
-
a- Bên Ngoài:
-
Những cái bất an đau
khổ từ bên ngoài đưa đến, đó là sự bất an của hoàn cảnh, như bị
tai nạn, bị đánh đập, thiên tai bảo lụt, nạn dân ách nước. Muốn
tránh, chúng ta phải có những hành động thích ứng để đem lại an
lành, chẳng hạn như:
-
- Nếu những lo âu
phiền muộn do đói rét, nghèo khổ mà sanh ra thì chúng ta phải
tìm công ăn việc làm, phải cần mẫn, làm việc có phương pháp để
đem lại cơm no áo ấm. Khi thân nhuốm bệnh, ta phải điều trị,
uống thuốc, biết đi dưỡng và đề phòng.
-
b- Bên Trong:
-
Nếu những sự lo âu
phiền muộn chính tự trong chúng ta như là những sầu, bi, khổ,
ưu, não. Muốn tránh những bất an đó, chúng ta phải trì tụng kinh
chú, thiền tọa, kinh hành tức là trau giồi tâm ta bằng cách tu
tâm dưỡng tánh, thực hành theo giáo lý của đức Phật dạy như nếu:
-
- Đau khổ do vì tâm
tham, thì chúng ta phải cố gắng tu pháp môn bố thí. Quán rõ thật
tướng của vạn pháp là vô thường, khổ, vô ngã cho lòng tham lắng
xuống.
-
- Phiền muộn do vì tâm
sân làm chúng ta đau khổ, thì phải tu pháp quán từ bi, tu pháp
nhẫn nhục, để đập tan ngọn lửa sân hận đang hừng hực đốt cháy từ
trong tâm của ta.
-
- Nếu đau khổ phiền
muộn do vì si mê tật đố, thì chúng ta phải tu pháp quán nhân
duyên, để nhận thức rõ ràng tất cả sự vật đều do nhân duyên giả
hợp, là trống rỗng, là hư dối, chứ không phải là chắc chắn như
ta tưởng.
-
- Nếu đau khổ phiền
muộn do vì tâm ganh tỵ, thì chúng ta phải phát khởi tâm hoan hỷ
để chúng ta sẳn sàng tùy hỷ những cái hay và những sự thành tựu
của người khác.
-
Khi đã quán rõ được
các pháp như vậy, thì tự nhiên tâm tham lam, tật đố sẽ lắng
xuống để nhường chỗ cho một nhận thức rộng rãi hơn, sáng suốt
hơn. Lúc đó chúng ta sẽ không bị cái tâm tình tham lam chấp thủ
làm điên đảo. Như vậy khi mà chúng ta giải trừ được sự tác động,
quậy rối của tham, sân, si trong tâm thì đó là cách cầu an làm
cho tâm hồn nhẹ nhàng trong sáng, không còn phiền muộn.
-
Ngược dòng lịch sử,
chúng ta thấy, Thầy Thần Quang đến cầu xin Tổ Bồ Đề Đạt Ma an
tâm cho mình, cũng chính vì lẽ này.
-
Thần Quang là một cao
tăng Trung Hoa, sau khi tham học nhiều nơi nhưng không thỏa mãn
tâm cầu đạo. Cuối cùng nghe đến danh Tổ Sư Đạt Ma, Thầy không
quản mệt nhọc lặn lội tìm đến để gặp Tổ Bồ Đề Đạt Ma, đang ngồi
lặng yên nhìn vách tại chùa Thiếu Lâm ở Tung Sơn, và ân cần tha
thiết van xin Tổ giải thoát nổi thống khổ ray rứt trong lòng.
Theo truyền thuyết khi Thầy Thần Quang đến cầu đạo thì Tổ Bồ Đề
Đạt Ma bảo:
-
- Ngày xưa chư Phật
chư Tổ cầu đạo phải trải qua không biết bao nhiêu gian nan khó
nhọc mới được đạo, ngày nay ngươi có được là bao mà đòi cầu đạo,
thôi hãy đứng đó cho đến khi nào tuyết trắng thành hồng thì sẽ
hay, và sau đó Tổ tiếp tục ngồi yên lặng, lầm lì thản nhiên một
cách tàn nhẫn.
-
Thầy Thần Quang không
nản chí, đứng suốt đêm giữa tuyết với đôi mắt long lanh, hoài
vọng. Và sau đó lấy thanh kiếm chặt đứt cánh tay trái của mình
và thưa:
-
- Bạch Thầy tuyết bây
giờ đã biến thành hồng rồi.
-
Tổ cảm thấy động lòng,
liền hỏi:
-
- Ngươi đến đây để cầu
việc gì?
-
Thần Quang rưng rưng
nước mắt vội thưa:
-
- Bạch Thầy, tâm con
không an, xin Thầy an tâm cho.
-
Tổ bảo:
-
- Người hãy đem tâm
ngươi ra đây, ta an cho.
-
Thần Quang sửng sốt
một hồi lâu, rồi thưa tiếp:
-
- Bạch Thầy, con kiếm
tâm mà chẳng thấy đâu cả.
-
Tổ đáp:
-
- Đó, ta đã an tâm cho
người rồi đó.
-
Đây là một hình ảnh
hết sức đẹp, để tưởng nhớ đến chư liệt vị tổ sư đã đi qua trong
đời và cũng là để nhắc nhở, sách tấn chúng ta trên con đường tu
học, chúng tôi xin được tóm tắc như sau:
-
- Lác đác tuyết rơi
trắng một màu
-
Mây trời phiêu bạt
hướng về đâu
-
Thiếu Lâm Thiền Tự
trong tỉnh giác
-
Có khách thiền tăng
đến nguyện cầu
-
-
Có kẻ tìm cầu đạo
Thích Ca
-
Vượt qua muôn dặm,
vượt quan hà
-
Ðể tìm chân lý cho
nhân loại
-
Mong ước mai nầy dệt
gấm hoa.
-
-
Và rồi thuở đó Tổ Ðạt
Ma
-
Chín năm diện bích
ngắm trăng tà
-
Tuyết rơi trên đỉnh
Tung Sơn đó
-
Một Huệ Khả cầu đạo
Thích Ca.
-
-
Và truyện lưu truyền ở
cửa không
-
Cánh tay đứt xuống
tuyết điểm hồng
-
Người cầu an tịnh tâm
an tịnh
-
Khai lộ chân truyền
giáo thiền tôn.
-
-
Không biết rồi đây có
ai không?
-
Băng rừng đạp tuyết
núi chập chùng
-
Ði tìm cái đạo như Nhị
Tổ
-
Ðã có người chưa có ai
không?
-
-
Thấy cảnh nhớ về Tổ xa
xưa
-
Tâm từ tế độ mấy cho
vừa
-
Người nay xin đốt
hương lòng sáng
-
Dâng cúng mười phương
sớm chiều trưa.
-
Đây là một cách an tâm
thâm thúy nhất trong muôn vàn cách an tâm mà đức Phật đã dạy,
được ghi lại thành văn và không thành văn. Nếu ai có một tâm hồn
tha thiết cầu an tâm, để không còn phiền muộn và biết tiếp thu
thấu đáo pháp an tâm của đức Phật thì chắc chắn cũng sẽ được an
tâm như Thầy Thần Quang.
-
Vậy vấn đề thảnh thơi
an lạc, không còn phiền muộn không phải chỉ một mực cầu an thân
mà bỏ mất sự an ổn nơi tâm hồn. Lý do rất giản, nếu thân không
có tâm thì cũng chỉ là một đống thịt, một xác chết. Cho nên, thể
xác được an lạc khi có sự cảm nhận ấy của tâm thức, và cấp độ an
lạc cũng tùy thuộc vào sức mạnh của tâm thức. Như có người dù
bệnh nhẹ, nhưng tâm hồn yếu đuối, khiếp nhược thì những nỗi khổ
đau của cơn bệnh sẽ tăng gấp bội. Và ngược lại, người bị bệnh
nặng, nhưng với tâm thức bình tĩnh sáng suốt, có ý chí vững
mạnh, không giải đải buông xuôi, thì nỗi khổ đau của cơn bệnh
cũng trở nên nhẹ. Với sức mạnh của tâm hồn, tức là tâm an lạc,
có tác động làm vơi đi những khổ đau ở thân xác.
-
Ở đời thường có hai
hạng người sống theo hai lối sống thái quá:
-
- Có hạng chỉ chú
trọng cưng dưỡng thân xác, tạo an lạc cho thân xác bằng sự thỏa
mãn những ham muốn nhục dục.
-
- Lại có hạng quá khổ
hạnh bằng sự tiết chế tất cả những nhu cầu tối thiểu và tự hành
hạ thân xác. Đó chỉ là những lối sống không trung đạo, thiếu cân
bằng mà ngày xưa đức Thế Tôn đã từ bỏ và cấm các đệ tử thực
hành.
-
Trong bài pháp Bốn Sự
Thật đầu tiên cho năm Thầy Tỳ Kheo, câu mở đầu Ngài dạy rằng:
-
Có hai thái cực cần
phải tránh xa:
-
- Thái cực thứ nhất là
sống xa hoa trụy lạc vật dục, đó là lối sống thấp hèn, không đưa
đến giải thoát, cần phải tránh.
-
- Thái cực thứ hai là
sống ép xác khổ hạnh, nhịn ăn nhịn mặc, chịu đói chịu rét, đứng
giữa trời, nóng lạnh hành hạ, thì đó cũng là lối sống tà vạy
không đưa đến giải thoát, cần phải tránh.
-
Đức Phật khuyên cần
phải tránh xa hai lối sống ấy để tu hành mới đưa đến giải thoát.
Như vậy Ngài không phủ nhận đời sống về thể xác, nhưng Ngài cũng
không tán dương cái lối sống tham đắm vật chất, chỉ biết chú
trọng đến thân mà không chú trọng đến tâm. Một trong những bài
pháp không lời, nhưng hùng hồn nhất trong cuộc đời đức Phật, đó
là sự quyết định dứt khoát ra đi tìm đạo. Sự ra đi nầy Ngài chấp
nhận cuộc sống sương gió lạnh lùng, nắng cháy mưa chan. Bài pháp
Đức Phật đã bỏ quốc thành, thê tử đi xuất gia là dạy cho chúng
ta bài học, nhắc nhở cho tất cả những ai muốn đi trên con đường
an lạc, thì trước nhất phải có lối sống quân bình, chứ không
phải bỏ ăn, bỏ làm, ghét bỏ của cải hoặc phung phí của cải,
nhưng phải biết sống không say mê vật chất, không say mê theo
đời sống dục lạc, xa hoa, không tìm hạnh phúc, không chôn vùi
cuộc đời vào những tham muốn thấp hèn. Bởi vì nhiều tiền chưa
hẳn có hạnh phúc, chức trọng quyền cao chưa chắc có hạnh phúc.
Các yếu tố vật chất chỉ là những phần phụ thuộc, còn cái hạnh
phúc chân thật bao giờ cũng chính là trong lòng chúng ta.
-
Khi lòng ta khởi tham
lam do bị tiền của chi phối, bị quyền lợi danh vọng chi phối,
thì tấm lòng của ta trở nên hẹp hòi ích kỷ, khi đã ích kỷ thì nó
không thể trải rộng để hứng lấy những hạnh phúc cao thượng, chân
thật được. Bởi vậy, trên bước đường tu tập cầu giải thoát an lạc
không còn phiền muộn, người Phật tử phải chú trọng tu tập cả hai
mặt thể xác lẫn tâm hồn:
-
- Với thể xác luôn
luôn phải biết tri túc, cần có cơm đủ no, mặc đủ ấm, cần đủ
những tiện nghi tối thiểu mà không nên hưởng thụ tham đắm vật
chất tức là phải sống quân bình không để rơi vào hai thái cực
như Phật đã dạy.
-
- Với tinh thần, phải
giữ cho tâm hồn luôn luôn được trong sáng, được rộng rãi. Người
Phật tử càng biết mở rộng từ bi tâm, càng diệt trừ được chấp
thủ, tham ái thì càng có hạnh phúc chân thật.
-
Khi tâm hồn không
trong sáng, nhiều tham đắm thì dù ở trên vàng trên bạc thì chúng
ta vẫn không cho là đủ, không cho là đủ vì còn mong cầu là còn
khổ. Hạnh phúc chỉ đến với những tâm hồn biết tiết chế, có đạo
đức cao cả, có tu tập theo giáo pháp đức Phật, sống trong sáng
hướng thiện, sống không tham và biết đủ như trong kinh Di Giáo
đã dạy:
-
- Người nhiều ham
muốn, nhiều tham cầu lợi dưỡng nên khổ não cũng nhiều. Người
biết đủ tuy nằm dưới đất mà vẫn lấy làm an vui, người không biết
đủ, dù ở thiên đường vẫn không vừa ý.
-
Là ngời Phật Tử, chúng
ta nên noi theo gương chư Tổ đức, nơi đó chúng ta thấy quý ngài
có đời sống vật chất rất đơn sơ, đạm bạc, thế mà tâm hồn quý
ngài rất tự tại, rất khoan khoái, rất an nhiên vui vẻ. Không hề
thoáng những nét cau có, giận hờn hoặc buồn rầu. Bởi vì tâm hồn
của quý ngài đã vượt lên trên tất cả những tầm thường của đời
sống thế gian, đời sống của tham lam ích kỷ. Các ngài đã làm chủ
được tâm, điều phục được tâm, để tâm không bị chi phối bởi ngoại
cảnh, và tham, sân, si, nên đối trước hoàn cảnh nào các ngài
cũng vẫn tự tại an vui.
-
Thông thường chúng ta
chỉ đi tìm sự an bình trong thế giới hiện tượng, tìm nguồn vui
trong thế giới vật chất. Tìm an bình trong thế giới hiện tượng
thì muôn vạn sắc mầu, cho nên khó có thể làm cho chúng ta thỏa
mãn. Tìm nguồn vui trong thế giới vật chất, thì vật chất luôn
chuyển biến vô thường, một khi không thỏa mãn thì cũng khổ. Vì
thế cho dù chúng ta chạy theo thế giới hiện tượng hay vật chất,
rốt cuộc rồi chúng ta cũng chỉ nắm bắt được những bào ảnh an
lạc. Và chính cái mà chúng ta cho là an lạc đó lại là nhân của
cái khổ, nhân quả quả nhân, mãi mãi vận hành trong quá trình
sinh tử.
-
Hình ảnh của một con
người không chạy theo thế giới hiện tượng và vật chất là một con
người thoát tục không ai xa lạ chính là hình ảnh của con người
giải thoát đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Câu chuyện được trong kinh
ghi lại. Một hôm đức Phật một mình ngồi trên đám cỏ, lúc đó có
một người Bà La Môn đi qua thấy vậy liền hỏi:
-
- Sa môn Cù Đàm có sầu
muộn hay sao mà ngồi một mình cô độc thế?
-
Đức Phật trả lời:
-
- Ta mất gì mà Ta sầu
muộn?
-
Ông ta lại hỏi:
-
- Nếu không sầu muộn
thì chắc là Ngài hoan hỷ, mà hoan hỷ thì sao lại ngồi cô độc một
mình?
-
Đức Phật lại trả lời:
-
- Ta được gì mà Ta
hoan hỷ?
-
Người đó ngạc nhiên
hỏi lại:
-
- Không sầu muộn thì
hoan hỷ, không hoan hỷ thì sầu muộn. Ngài không hoan hỷ, không
sầu muộn là nghĩa làm sao?
-
Đức Phật trả lời rằng:
-
- Hoan hỷ chỉ đến với
người có tâm sầu muộn, sầu muộn chỉ đến với người có tâm hoan
hỷ. Ta đã dứt bỏ nguồn gốc của sầu muộn rồi, cho nên Ta không
sầu muộn, cũng không hoan hỷ. Tâm ta không dao động.
-
Qua lời dạy ngắn gọn,
nhưng hàm chứa một ý nghĩa thâm sâu vô cùng, giúp ta soi rọi vào
thực tế cuộc đời để thấy rằng:
-
- Hoan hỷ là điều
người đời mong muốn, và chỉ đạt sự mong muốn qua sự nắm bắt,
chấp thủ, như mong cho được trúng số độc đắc, mong sự ước muốn
tìm cầu của cải vật chất, như vậy thì cái hoan hỷ đó là những
hoan hỷ đi đến với người có tâm thiếu thốn và sầu muộn, và sau
hoan hỷ đó chắc chắn là những sầu muộn âu lo của mất mát. Như
người vừa trúng số thì sung sướng vô cùng nhưng liền sau đó
không khỏi lo sợ mọi người ai cũng biết, nhẹ thì bà con biết sẽ
đến xin, đến mượn, hoặc bị mất, hoặc bị cháu con tranh giành làm
mất hòa khí gia đình. Nặng thì chắc chắn sẽ có kẻ xấu rình rập
trộm cắp, bắt cóc người tống tiền, cướp của giết người. Nếu cố
giấu không cho ai biết thì cũng phập phồng sợ người ta biết.
-
Tham cầu là một nỗi
khổ, khi thành đạt là một sự hoan hỷ, rồi mất mát lại là một nỗi
khổ. Sầu muộn rồi hoan hỷ, hoan hỷ rồi sầu muộn cứ nối đuôi nhau
mãi.
-
Có người đang cồn cào
vì cơn đói, đang khổ vì đói, nếu ai đem cho thức ăn thì họ sẽ
rất sung sướng, rất hoan hỷ. Thế là hoan hỷ đi đến với người có
tâm sầu muộn.
-
Có người đang hoan hỷ
trong cái nhà mới mua, bỗng bị một kẻ tinh nghịch ném phân chọi
đá làm loang lỗ tường vách, làm người ấy tức tối, sầu muộn, như
vậy là sầu muộn đi đôi với người có tâm hồn hoan hỷ.
-
Cuộc đời của chúng ta
cứ mãi diễn đi diễn lại, hoan hỷ rồi sầu muộn, sầu muộn rồi hoan
hỷ. Ngày qua tháng lại. Suốt cả cuộc đời mãi loanh quanh ở trong
cái vòng, cái tâm lượng của chúng ta phân biệt, so đo phe mình,
phe ta mà sanh ra như thế.
-
Đức Phật, Ngài đã dứt
hết nguồn gốc chấp thủ, tức là diệt hết nguồn gốc của khổ đau.
Ngài luôn hoan hỷ, một sự hoan hỷ không tạo nên bằng tiền tài
danh vọng, chức quyền mà là một sự hoan hỷ đã dứt sạch nguồn gốc
khổ đau, tức là dứt sạch vô minh, tham ái, chấp thủ. Bởi vậy,
Ngài dạy:
-
- Ta không hoan hỷ
cũng không sầu muộn.
-
Nhưng chính cái không
hoan hỷ không sầu muộn trong đối đãi ấy, mới là một sự hoan hỷ
không thể diễn đạt bằng cái quan niệm so sánh, có cái nầy vì cái
kia có. Đây chính là sự hoan hỷ của đức Phật được tạo nên bằng
trí giác ngộ, bằng tâm từ bi, lòng hỷ xả, đó là sự hoan hỷ vi
diệu, vĩnh cửu. Một sự hoan hỷ phát xuất từ nội tâm của một
người tu tập đã tự tại với nguồn tâm trong sáng. Đó là sự hoan
hỷ không bị ai cướp mất vì không phải giành của ai mà có được,
nhưng lại ban bố cho tất cả.
-
Chúng ta là người học
Phật, ít nhiều gì chúng ta cũng đã có một số vốn luyến Phật Pháp
căn bản, do vậy chúng ta nên cố gắng xây dựng niềm hoan hỷ, an
lạc bằng những công phu tu tập, trưởng dưỡng từ bi, khơi sáng
nguồn tri giác, thì đằng sau của sự hoan hỷ an lạc đó không
nhuốm bóng dáng sầu muộn, sợ hãi.
-
Nói tóm lại, là người
Phật Tử có học và hành giáo pháp của Phật, chúng ta nên quay trở
về với nguồn nội tại của mình. Một khi chúng ta là người có tu
tập là người hiểu biết tâm, cho nên khi tham tâm khởi, sân tâm
khởi, tâm kiêu mạn khởi .. v.v... thì chúng ta phải lập tức điều
phục tâm, chế ngự tâm để hướng dẫn tâm của chúng ta trở thành tự
tại, và giải thoát. Được thế, thì khi chúng ta đứng trước bất cứ
một hoàn cảnh nào, chúng ta cũng tĩnh giác, tâm không bị chi
phối. Hơn nữa chúng ta lại còn chủ động, biết sử dụng mọi phương
tiện, trong mọi hoàn cảnh, để phục vụ những mục đích cao đẹp, đó
là làm chủ được đời sống cả vật chất lẫn tinh thần là một cách
sống an lạc, tự tại giải thoát, không còn phiền muộn.
-
Là người Phật tử,
chúng ta còn sống trong cuộc sống tương quan giữa cuộc đời, do
vậy chúng ta cần phải có tiền, cần có cơm ăn, áo mặc, cần có mọi
tiện nghi cần thiết trong cuộc sống. Tuy nhiên chúng ta cũng
phải cần có tu trì, phải có từ bi hỷ xả, cần có trí tuệ, có bố
thí, trì giới .. v.v...
-
Thực hiện lời Phật
dạy, là chúng ta đã xây dựng bản thân và xã hội tốt đẹp, và cũng
là cách mà chúng ta có thể sống cuộc sống không còn phiền muộn,
trạng thái không còn phiền muộn nầy là một trạng thái thiết thực
nhất, đem lại an lạc cho nhiều đời, ngay hiện tại cũng như các
đời khác trong tương lai.
-
Thực hiện lờì Phật
dạy, là chúng ta phải chịu khó tu học, tụng kinh, niệm Phật,
thiền tọa kinh hành, trưởng dưỡng thiện tâm là mục đích hiện đời
chúng ta không còn phiền muộn, và trong tương lai sẽ tiến dần
đến đạo quả giác ngộ giải thoát.
--o0o--
|
|