|
TẬP SAN DƯỢC SƯ
-
Đời Đẹp & Tình Vẫn Xanh
-
Bạch Y
Thư Sinh
-
--o0o--
-
-
Chúng ta
đang sống tại Seattle, Washington là vùng đất được các giới văn
nghệ sĩ Việt Nam tại vùng Tây Bắc thường hay gọi là cao nguyên
tình xanh. Quả thật, những ai có sống ở Seattle mới thấy được
cây cảnh nơi đây đẹp nên thơ và khí hậu rất là trong lành. Tuy
tôi chưa có dịp viếng thăm Đà Lạt, miền cao nguyên trung phần
Việt Nam, nhưng tôi nghe nhiều người thường so sánh, ở Seattle
nếu mưa ít hơn một chút sẽ giống rất giống như khí hậu ở Đà Lạt.
Riêng về tôi thấy khí hậu ở đây rất dễ chịu, tuy là trời mưa hơi
nhiều, và mỗi năm có độ chừng một hay hai lần tuyết rơi. Lần đầu
tiên đến tiểu bang nầy, mỗi khi mưa hay tuyết rơi, trong tôi
thường có cảm giác êm dịu, mát mẻ và thường nhớ đến những cơn
mưa mùa hè ngày xưa. Tuổi thơ trong các xứ nông nghiệp, nhất là
miền quê Việt Nam, bất cứ một em bé nào cũng được dánh dấu bằng
những cơn mưa, vì khi còn là em bé, chúng ta thường hay đùa chơi
dưới mưa. Cái khung trời kỷ niệm đó không mất, vì cho đến bây
giờ và mãi mãi vẫn còn có những cơn mưa, do vậy mà chúng ta vẫn
có thể an trú trong khung trời kỷ niệm của tuổi thơ đó trong giờ
phút hiện tại.
-
Hồi đó,
mỗi khi Tết đến, tại các xứ nông nghiệp, miền quê chúng ta không
có nhiều quà, chỉ có một bộ quần áo mới nhưng chúng ta rất mừng
và thường nôn nao chờ đón ngày Tết. Vì sáng mồng một Tết được
mặc áo quần mới vào và đi chơi như có vẻ khoe khoang với mọi
người. Đến bửa ăn mẹ cho ăn bánh tét bánh chưng, ăn xong lại
tiếp tục đi chơi ... Những hạnh phúc đó tuy thời gian có bao
nhiêu năm đi nữa, những kỷ niệm đó vẫn còn lại trong tàng thức
chúng ta dưới dạng những hạt giống hạnh phúc. Khi lớn lên, chúng
ta đánh mất cái khung trời kỷ niệm đó, tại vì phải lo cho tương
lai, phải nghĩ về quá khứ. Khi đi học, chúng ta lo về chuyện
thầy cô giáo hỏi bài, về việc thi cử. Học xong đi làm chúng ta
lại mất nhiều thì giờ để lo quần áo cho thẳng tắp, lo đôi giày
cho bóng, lo chúng bạn chê cười ... Chúng ta mất đi cái hồn
nhiên và từ từ chúng ta đánh mất cái khung trời kỷ niệm của tuổi
thơ đó, cho nên khiến chúng ta thường có cảm tưởng thiên đường
đó đã mất và vì vậy mà chúng ta cứ mãi đi tìm. Ở điểm nầy người
Tây phương cũng như người Đông phương đều cùng có một cảm nghĩ
là quá khứ bao giờ cũng đẹp, và cứ bảo quá là đẹp nên cho quá
khứ là bằng vàng! Cứ cho những ngày tháng ngọc ngà ngày xưa bây
giờ đã biến mất rồi! Thuở đó đời sống đẹp hơn, mặt trời cũng
rạng rỡ hơn ngày hôm nay. Cái cảm nghĩ thiên đường trong quá khứ
bao giờ cũng đẹp hơn thực tế hiện tại, vì thường được nuôi dưỡng
bằng những kỷ niệm của tuổi thơ mà chúng ta thường nghĩ bây giờ
không còn nữa.
-
Đó là
theo sự suy tư của người đời, tuy nhiên đối với chúng ta là
người phật tử có thực tập chánh niệm, trong nguồn giáo lý vi
diệu đã giúp chúng ta khám phá ra rằng không có gì đã qua và đã
mất. Cái hạt giống hạnh phúc trong khung trời kỷ niệm của tuổi
thơ kia vẫn còn trong chúng ta. Nếu biết thực tập nghĩa là biết
cày bừa ruộng tâm, biết tưới tẩm và vun bón hạt giống, chúng ta
có thể tiếp xúc và làm phát khởi niềm hạnh phúc đó trở lại, thì
như vậy đời lúc nào cũng vẫn đẹp và tình đời, tình người, hay
bất cứ một thứ tình nào đó lúc nào cũng vẫn mãi mãi xanh tươi.
Đây là một sự thực rất đáng mừng.
-
Quả thật
trong Đạo Phật có một thứ dụng cụ rất mầu nhiệm để cày bừa, gieo
hạt giống, tưới tẩm, vun bón đó là Chánh Niệm. Chánh niệm là một
trong những năng lượng xây dựng mà chúng ta có thể phát khởi
trong đời sống hàng ngày. Bàn về năng lượng, như chúng ta đã
biết năng lượng có nhiều thứ, tuy nhiên chúng ta có thể ghi nhận
tổng quát có hai loại: Năng lượng xây dựng, và năng lượng phá
hoại.
-
a- Loại
Năng Lượng Xây Dựng:
-
Như khi
bỏ củi vào lò để đốt, chúng ta làm phát xuất một loại năng lượng
gọi là nhiệt lượng. Nhiệt lượng đó sưởi ấm căn phòng, làm cho
hết lạnh, giúp cho chúng ta có thêm hạnh phúc. Đó là một loại
năng lượng mà mùa đông chúng ta rất cần đến. Trong con người
cũng vậy, chúng ta cần phải có sức sống thì mới sống được. Vì
vậy mà chúng ta phải ăn cơm. Ăn cơm là đưa những nguyên liệu vào
trong cơ thể để các tế bào tạo nên một loại năng lượng gọi là
sức sống hay còn gọi là thân nhiệt.
-
b- Loại
Năng Lượng Phá Hoại
-
Bên cạnh
việc ăn cơm là đưa những nguyên liệu vào trong cơ thể để các tế
bào tạo nên sức sống hay loại thân nhiệt cần thiết. Loại thân
nhiệt nầy, khi giận trong người chúng ta cũng phát ra một loại
năng lượng gọi là giận, và cái năng lượng đó cũng làm cho ta
nóng, nhưng sức nóng nầy làm cho chúng ta khó chịu hơn là cái
nóng của lò sưởi mùa đông. Năng lượng giận nầy làm cho cơ thể ta
bốc cháy, đau khổ, và chúng ta có khuynh hướng vung vãi niềm đau
nỗi khổ của chúng ta lên những người và vật chung quanh.
-
Nghi ngờ
cũng là loại một năng lượng phá hoại. Khi đã có hạt giống nghi
ngờ, và lại tiếp tục tưới tẩm hạt giống nghi ngờ trong chúng ta,
thì nó phát sinh ra một loại năng lượng làm chúng ta uể oải, mất
hết sức sống, nhìn cái gì cũng thấy không thấy có ý nghĩa. Năng
lượng đó là loại năng lượng tiêu cực, có tính cách phá hoại.
Tương tự như thế, năng lượng giận cũng chứa rất nhiều tiêu cực,
và sức phá hoại của nó cũng rất trầm trọng.
-
Trong
chiều hướng làm đẹp cuộc đời, và giữ cho tình mãi mãi xanh tươi
theo thời gian năm tháng, người phật tử chúng ta luôn luôn có
những phương pháp tích cực tưới tẩm cho cuộc tình càng lúc càng
thêm xanh, mà qua đó năm căn là năm cơ quan phát sinh ra năm
nguồn năng lượng xây dựng. Năm căn đó chính là:
-
a- Tín:
-
Tín là
niềm tin. Nếu có niềm tin thì tự nhiên chúng ta có rất nhiều
năng lượng. Khi có một đối tượng tốt để tin tưởng thì tự nhiên
chúng ta có một nguồn năng lượng tích cực. Ba đối tượng để tin
của ta là:
-
- Chân là
một cái gì Thật
-
- Thiện
là một cái gì Lành, và
-
- Mỹ là
một cái gì Đẹp.
-
Được coi
là thật có nghĩa là không phải giả. Mọi vật, mọi thứ đều có thể
giả, kể cả đạo đức có khi cũng là giả. Nếu ban đầu chúng ta tin
vào đạo đức giả, nhưng sau một thời gian cái thần tượng đó nó
đổ, nó rớt xuống và lúc đó niềm tin trong chúng ta cũng tan
biến. Lâm vào tình trạng này là vì chúng ta đã nhận giả là thật,
nhận ác làm lành, nhận xấu làm đẹp. Tất cả vì chúng ta vô minh!
Khi niềm tin không được thắp sáng bởi trí tuệ thì nó dễ bị tan
vỡ, và từ chỗ không tin tưởng, chúng ta có thể lâm vào trạng
thái nghi ngờ. Một khi năng lượng của nghi ngờ phát sinh trong
tâm thức, chúng ta sẽ uể oải, rã rời, hết muốn làm gì nữa! Do đó
theo giáo lý đạo Phật, mọi niềm tin phải được làm bằng chất liệu
của trí tuệ. Tin mà không quán chiếu thì niềm tin đó rất nguy
hiểm. Phật dạy:
-
- Tín ta
mà không hiểu ta tức là bài báng ta.
-
Nếu nói
như vậy thì do có sự hiểu biết mà phát sinh ra niềm tin, vì vậy
nơi phát sinh ra nguồn năng lượng thứ hai trong đạo Phật là Tuệ.
-
b- Tuệ:
-
Tuệ là
cái thấy của sự hiểu biết. Năng lượng của niềm tin được chế tạo
từ nguồn năng lượng của trí tuệ. Quả thật như vậy, vì có quán
chiếu thì chúng ta mới thấy rõ được sự thật. Thấy rõ được sự
thật thì chúng ta mới có thể xa lìa những cái giả được ngụy
trang bằng vỏ chân, những điều ác ngụy trang bằng vỏ thiện, và
những việc xấu xa ngụy trang bằng vỏ tốt đẹp. Lúc đó niềm tin sẽ
được gọi là Chánh Tín.
-
c- Niệm:
-
Muốn có
trí tuệ, tức là muốn có cái thấy sâu sắc, chúng ta phải biết
nhìn. Nhìn cho sâu sắc tức là quán chiếu bằng năng lượng của
chánh niệm. Vì vậy nơi phát sinh năng lượng thứ ba trong đạo
Phật là chánh Niệm.
Mục đích
tu học
của chúng ta là tạo ra chánh niệm, do vậy tại các trung tâm tu
học, chúng ta được dạy nhiều phương thức để chế tác một loại
năng lượng tích cực gọi là năng lượng Chánh Niệm. Đây là một thứ
năng lượng rất cần thiết để chúng ta có thể nhìn sâu và thấy
được sự thật tiềm tàng trong sự sống.
-
d- Định:
-
An trú
trong chánh định, có nghĩa là chúng ta biết ăn cơm trong chánh
niệm, biết quét nhà trong chánh niệm, biết đi, đứng, nằm, ngồi,
và làm việc trong chánh niệm thì tâm của chúng ta hướng về sự
tập trung không bị tán loạn. Trạng thái đó gọi là Định. Định là
nơi phát xuất ra nguồn năng lượng thứ tư trong đạo Phật. Người
không có định thì không làm được gì cả. Muốn giải quyết một vấn
đề cho riêng mình hoặc cho đại chúng mà không có định thì không
đi tới kết quả nào, cho nên khi thực tập quán chiếu để tìm sự
thật của một vấn đề, chúng ta phải có định tâm, vì vậy Định rất
cần thiết. Nếu không có định thì không bao giờ chúng ta có tuệ
cả.
-
e- Tấn:
-
Khi có
được bốn nguồn năng lượng kể trên, thì đời sống của chúng ta là
một đời sống tinh chuyên, không uể oải, không bệ rạc. Và ngược
lại, nếu chúng ta uể oải, rã rời, không có niềm vui, không thiết
tha đến sự sống là vì chúng ta không có năng lượng tinh chuyên.
Đó là nơi phát sinh ra nguồn năng lượng thứ năm trong đạo Phật,
Tinh Tấn. Tinh Tấn tức là sự siêng năng, sự chuyên cần.
-
Năm nguồn
năng lượng đó người học Phật thường gọi một từ ngữ rất chuyên
môn đó gọi là năm căn. Căn ở đây là nguồn gốc phát sinh ra năng
lượng. Với năm nguồn năng lượng đó, khi chúng bắt đầu hoạt động
thì chúng phát sinh ra năm loại năng lượng gọi là năm lực. Vì
vậy năm căn gọi là Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ mà năm lực cũng gọi
là Tín Lực, Tấn Lực, Niệm Lực, Định Lực, và Tuệ Lực. Căn tức là
hình thức của nơi phát xuất ra năng lượng. Lực là năng lực phát
xuất từ sự vận hành của các nguồn năng lượng đó. Chúng ta đã
biết được nơi phát sinh nguồn năng lượng, do vậy
nếu
trong thân và tâm chúng ta không có đủ năng lượng, hoặc năng
lượng yếu ớt, thì chúng ta phải biết xét tìm trong năm nơi cung
cấp năng lượng đó có vấn đề gì không, xem xét coi những bộ phận
nào không là, việc để lập tức tìm cách chữa trị. Xem xét và chữa
trị thường xuyên mới đúng là đời sống tu tập tinh chuyên.
-
Như chúng
ta đã biết, năm nguồn gốc năng lượng chế tác ra năng lượng, được
thiết lập ngay trên mảnh đất tâm, và nếu năm nguồn gốc chế tạo
năng lượng tốt đẹp thì nó sẽ phát sinh ra năm nguồn năng lượng
rất cần thiết cho sự tu tập và chứng ngộ cho chúng ta. Do vậy mà
chúng ta phải biết giữ gìn và nơi lưu trử những nguồn năng lượng
đó. Để cho rõ ràng và hổ trợ tích cực hàng môn đệ, Đức Phật đã
lựu ý cho chúng ta là Tâm có hai dạng thức:
-
- Tàng
thức
-
- Và ý
thức.
-
Tàng thức
là nơi chứa giữ tất cả các hạt giống của năng lượng. Ý thức là
nơi các hạt giống biểu hiện, đơm hoa, kết trái. Có những điều mà
khi nhìn vào vùng ý thức chúng ta không thấy, cho nên chúng ta
quả quyết chúng ta không có điều đó. Thực ra điều đó có trong
tâm chúng ta, nó nằm trong tàng thức dưới dạng của những hạt
giống, và chưa phát hiện ra mà thôi. Nếu trang bị đầy đủ phương
tiện và chăm bón các hạt giống này, chúng sẽ phát sinh ra những
năng lượng trên vùng ý thức. Chẳng hạn như khi chúng ta nói:
-
- Bây giờ
tôi không giận ai hết.
-
Điều đó
đúng, bởi vì bây giờ đâu có ai đỏ mặt tía tai, đâu có ai sân si
la mắng ai đâu mà chúng ta giận họ, tuy nhiên khi đụng việc thì
chúng ta nhất định phải ăn thua đủ với nguời gây sự với chúng ta
ngay.
-
Thật ra
thì cái giận chỉ không có mặt ở trên phần ý thức, nhưng nó vẫn
có mặt ở dưới phần tàng thức. Chúng ta ai cũng đều đang có cái
giận trong lòng, nhưng nó đang ở trong trạng thái hạt giống và
đang ngủ yên trong tàng thức của chúng ta. Người phật tử tu học,
chúng ta phải khôn ngoan, phải biết lợi dụng lúc những hạt giống
tiêu cực đang ngủ yên để lo vun bón gieo trồng những hạt giống
tích cực. Chúng ta ru ngủ nội kết là một bài thực tập ru ngủ các
hạt giống tiêu cực. Nội kết là những niềm đau, nỗi khổ, ở trong
lòng. Nếu ru cho chúng ngủ thì chúng ta sẽ rảnh rang để cày bừa,
gieo trồng, tưới tẩm những hạt giống tốt tích cực. Ru ngũ chúng
bằng những suy tư:
-
- Đạo ta
tiến đời có sao mặc kệ
-
Có chông
gai chắc phải có Niết Bàn.
-
Ru ngũ
hạt giống tiêu cực để chúng ta rảnh rang cày bừa, gieo trồng,
tưới tẩm những hạt giống tốt đó là cách chúng ta lấy hạt giống
xấu ra khỏi tàng thức của chúng ta, tuy nhiên đừng nghĩ rằng khi
lấy hết những hạt giống xấu xa rồi thì ta mới có thể yên được.
Nếu những hạt giống xấu được lấy ra hết rồi thì chúng ta đã là
toàn mỹ, và đã là toàn mỹ thì có gì sai đâu mà phải sửa, phải tu
nữa. Trước hết là chúng ta nên nhận xét về các hạt giống đang có
mặt trong chúng ta:
-
a- Hạt
Giống Nghi Ngờ
-
Hạt giống
của nghi ngờ cũng có mặt trong tất cả chúng ta. Nếu ta không tu
tập Tín, Tấn, Niệm, Định, và Tuệ thì hạt giống nghi ngờ sẽ phát
sinh, nó sẽ bao trùm hết cả con người ta, và năng lượng tiêu cực
đó nó sẽ bào mòn cuộc đời chúng ta. Nó sẽ làm cho chúng ta khổ,
và những người chung quanh ta cũng sẽ khổ theo. Khi một người có
niềm tin, tin vào một điều thật lành, thật đẹp thì tự nhiên đôi
mắt người đó sáng long lanh, và người đó có rất nhiều năng
lượng. Người đó sống có định tâm, có chánh niệm và có sự hiểu
biết.
-
Như vậy
tu học là cày bừa mảnh đất tàng thức, làm tiêu hủy những hạt
giống như ngờ tiêu cực và gieo vào những hạt giống tốt, tưới tẩm
và gieo vào đó những hạt giống tốt, tưới tẩm để chúng nảy mầm
rồi mọc thành cây trên phần ý thức. Khi mọc, những cây đó sẽ đơm
hoa, kết trái rồi trở thành những hạt giống lành cùng loại và
rơi trở xuống mảnh đất tâm. Muốn cho một hạt giống tốt phát hiện
trên phần ý thức, làm đẹp cuộc đời và vận hành nhuần nhuyển
trong các cuộc tình, tình đời cũng được mà tình đạo cũng được,
cứ thế mà xanh tươi mãi mãi với thời gian, rồi gieo xuống tàng
thức những hạt giống tốt cùng loại, thì chúng ta phải cần những
điều kiện thuận lợi. Hạt giống nào ở dưới tàng thức cũng cần
những điều kiện thuận lợi mới phát hiện được trên phần ý thức,
kể cả hạt giống chánh niệm. Những điều kiện thuận lợi đó gồm có:
-
- Điều
kiện tăng thân,
-
- Điều
kiện thầy dạy đạo,
-
- Điều
kiện nơi đạo tràng tu học,
-
- Điều
kiện hướng dẫn giáo lý,
-
- Điều
kiện thực tập hành trì giáo pháp đã học ..v.v...
-
Khi chúng
ta trang bị đầy đủ những điều kiện đó, thì hạt giống tốt tiềm
tàng dưới tàng thức sẽ có cơ hội để nảy mầm và phát sinh, làm
đẹp cho cuộc sống của chúng ta luôn luôn xanh tươi và gieo lại
những hạt giống tốt đẹp tương tự vào đất tâm, làm cho rạng rỡ
môi trường sinh sống của chúng ta.
-
Mục đích
tu học của chúng ta là nhận thức, trong chúng ta có hạt giống
Phật và tìm đủ mọi cách, trang bị đủ điều kiện để cho hạt giống
Phật đó phát sinh và nảy nở một cách nhanh chóng. Chúng ta có
thể gọi hạt giống đó là hạt giống của chánh niệm, hay là hạt
giống của tuệ giác, hoặc hạt giống của chánh tín. Chúng cùng là
một thực tại nhưng tùy trường hợp chúng ta có thể gọi bằng nhiều
tên khác nhau. Trong trường hợp này chúng ta gọi là hạt giống
Chánh Niệm vì trong Niệm có chứa Định, trong Định có chứa Tuệ,
trong Tuệ có chứa Tín, trong Tín có chứa Tấn. Vì vậy Chánh Niệm
là hạt giống của Phật ở trong chúng ta. Chúng ta cũng có thể gọi
hạt giống ở trong ta là Định, Tuệ, Tín hay Tấn. Nhưng để cho dễ
dàng ta chúng lấy Niệm làm biểu tượng cho hạt giống Phật ở dưới
tàng thức.
-
Như chúng
ta đã biết, từ ngữ Phật có nghĩa là thức dậy, hiểu biết, thức
tỉnh, giác ngộ. Biết cái gì đang xảy ra, và biết một cách sâu xa
thì gọi là Phật. Chánh niệm nghĩa là biết cái gì đang xảy ra,
thấy được cái gì đang xảy ra. Và tùy theo trình độ thấy của mình
mà cái thấy đó sâu hay cạn. Nhưng tất cả đều là cái thấy. Phật
là người đã thấy, đã hiểu, đã tỉnh thức hoàn toàn. Trong mỗi
người chúng ta ai cũng đều có khả năng tỉnh thức. Cái khả năng
tính có thể thức dậy, có thể trở thành một vị Phật, gọi là Phật
tánh. Phật tánh tức là hạt giống Chánh Niệm. Chúng ta không thể
nói là chúng ta không có hạt giống đó. Tại vì chánh niệm trước
hết được định nghĩa là ý thức được cái gì đang xảy ra trong giây
phút hiện tại. Chẳng hạn như:
-
- Khi
đang ăn cơm, chúng ta biết chúng ta đang ăn cơm, thì lúc đó năng
lượng chánh niệm của chúng ta đang có mặt. Khi uống nước mà
chúng ta biết chúng ta đang uống nước thì lúc đó chánh niệm cũng
đang có mặt.
-
Năng
lượng của chánh niệm có mặt trong khi chúng ta nâng chén cơm
lên, và năng lượng của chánh niệm có mặt trong khi chúng ta đang
uống nước. Vì vậy không thể nói chúng ta không có Phật tánh. Tại
vì sự có mặt của chánh niệm chứng minh rằng chúng ta có hạt
giống chánh niệm trong tàng thức của chúng ta rồi. Điều đó không
lạ gì chư tôn đức dạy chúng ta khi gặp nhau chúng ta thường chắp
tay hình búp sen và câu chào hỏi câu:
-
- A Di Đà
Phật
-
Câu A Di
Đà Phật, có nghĩa là thanh tịnh, vô lượng thọ, vô lượng quang,
vô lượng công đức, như vậy câu chào tuy đơn giản nhưng ý muốn
nói lên rằng:
-
- Tôi đã
nhìn thấy hạt giống Phật tánh ở nơi anh, nơi chị, nơi em. Tôi
xin thân kính chào anh, chào chị chào em một vị Phật tương lai.
-
Tất cả
chúng ta đều là những vị Phật tương lai, nhưng chúng ta có mặc
cảm thấp kém và thường nghĩ rằng mình chỉ có thể là chúng sinh
thôi, không thể nào thành Phật được. Đó là vì chúng ta không
công nhận hạt giống Phật ở trong chúng ta. Một trong những mặc
cảm là:
-
- Mặc cảm
thấp kém.
-
Nói rõ ra
là mặc cảm cho rằng mình chỉ có thể là chúng sinh thôi. Thật ra
trong chúng ta ai cũng đều có hạt giống Phật, tức là có khả năng
thành Phật. Khả năng thành Phật là cách nói rõ ràng hơn của từ
ngữ mà chúng ta thường nói là mỗi người ai cũng có Phật tính. Do
vậy cho dầu chúng ta sống trong thất niệm 24 tiếng mỗi ngày và
chánh niệm không bao giờ có mặt trên vùng ý thức, nhưng trong
tâm chúng ta lúc nào chánh niệm cũng nằm trong tàng thức dưới
dạng một hạt giống đó là trạng thái tìm sinh.
-
Cái kho
tàng chúng ta thường đi kiếm nó nằm ngay trong tâm của ta mà ta
không hay. Chúng ta ai cũng nghĩ rằng mình chỉ là người bần
cùng, suốt đời đi cầu xin một chút tình thương, một chút hiểu
biết, một chút giác ngộ của Phật, còn chính chúng ta thì không
có gì cả. Vì vậy mà Phật nói Kinh Pháp Hoa với ví dụ viên trân
châu trong túi áo của anh chàng cùng tử để giúp ta đánh tan mặc
cảm thấp kém đó. Kinh dạy rằng trong tâm ta có đủ kho tàng của
giác ngộ, hiểu biết, thương yêu và hạnh phúc, đừng tìm kiếm đâu
xa
-
b- Hạt
Giống Thương Yêu
-
Một hạt
giống khác có liên hệ mật thiết với hạt giống Phật tánh là khả
năng tính yêu thương, hay khả năng thương yêu. Lắm khi chúng ta
có cảm tưởng ta không thương được ai cả. Trong tình trạng chán
nản, bất mãn đó, chúng ta thấy mình không còn là gì và không có
một giá trị tối thiểu nào hết! Không thương được ai là vì ta
không thương được chính bản thân của ta, do đó chúng ta thường
đi đến kết luận trong tôi không có tình thương. Điều đó có thể
đúng trong phạm vi ý thức, nhưng đứng trong chiều sâu của tàng
thức thì nó không đúng. Tại vì trong chúng ta ai cũng có hạt
giống thương yêu, tức hạt giống từ và hạt giống bi. Phật được
làm bằng chất liệu của tỉnh thức, của chánh niệm, nhưng Phật
cũng được làm bằng chất liệu của thương yêu, của từ, của bi.
Chánh niệm và thương yêu là hai bề mặt của cùng một thực tại.
Hiểu biết và thương yêu cũng cùng là một thực tại. Hễ có hiểu
biết thì có thể thương yêu được, ngược lại khi thương yêu đích
thực thì lòng thương yêu đó được làm bằng chất liệu của sự hiểu
biết. Tương tự như vậy, niềm tin mà ta gọi là Chánh Tín cũng
được làm bằng chất liệu của sự hiểu biết. Vì vậy khi nghi ngờ
cái khả năng thương yêu trong ta, ta phải nhớ lời Phật dạy:
-
- Trong
ta ai cũng có hạt giống thương yêu cả.
-
Hạt giống
thương yêu chưa mọc lên được vì chúng ta chưa biết cách gieo
trồng. Chúng ta hãy tự gieo trồng bằng những năng lượng của tinh
tấn, của chánh niệm, của chánh định, của chánh tín. Từ đây chúng
ta thấy một người bạn tu không tự thương mình và cũng không
thương được những người chung quanh, thì chúng ta đừng nản.
Chúng ta nên nghĩ người đó đang ở vào tình trạng khó khăn, nếu
được giúp mai kia họ có thể tiếp xúc và tưới tẩm hạt giống
thương yêu trong người, lúc đó hạt giống thương yêu sẽ nảy mầm,
đơm hoa và họ có thể mỉm cười.
-
Là một
người Phật Tử, chúng ta biết tu tập, chúng ta có bổn phận phải
quán chiếu, không phải chỉ ở trong tâm thức của chúng ta không
thôi, mà chúng ta còn phải quán chiếu nơi tâm thức người khác
nữa. Phật dạy quán chiếu trong tự tâm mình và quán chiếu trong
tâm của người khác nghĩa là như vậy.
-
Nếu chúng
ta có vốn liếng của sự hiểu biết, của thương yêu thì chúng ta
nên làm công việc giúp những người bạn đồng tu của chúng ta tiếp
xúc, vun bón, tưới tẩm hạt giống tốt để một mai người đó có thể
mỉm cười nhận ra rằng mình cũng có khả năng thương yêu, và cái
mặc cảm mình không ra gì, mình bất lực sẽ tan biến đi.
-
c- Hạt
Giống Hạnh Phúc:
-
Một khả
năng tính nữa là khả năng tính hạnh phúc, một khả năng rất quí
giá trong đời sống hàng ngày. Người có khả năng hạnh phúc thì
sống trong điều kiện nào cũng có thể có hạnh phúc, và được sống
chung với một người như vậy là chúng ta có phước lắm. Khi lâm
vào tình trạng khó khăn, người có khả năng hạnh phúc thường có
đủ khả năng tạo ra ánh sáng cùng niềm vui cho mình và cho người
chung quanh. Nếu đi vào địa ngục người đó sẽ làm cho địa ngục
sáng lên, làm cho tiếng cười vang lên nơi địa ngục. Những người
như vậy có thật. Những người đó trong Đại Thừa Phật Giáo chúng
ta thường nghe nhắc đến đó là Bồ Tát Địa Tạng, là một vị Bồ Tát
chuyên đi vào những chỗ tối tăm nhất, khổ đau nhất để làm cho
ánh sáng và tiếng cười có mặt ở những nơi đó. Làm được những
điều như vậy là do ở sự dày công tu tập và phát triển hạt giống
của hạnh phúc, đồng thời cũng dày công vun xới khả năng tính
hạnh phúc, cho nên chúng ta mới đi vào được những nơi tăm tối
như vậy để cứu giúp người.
-
Khả năng
tính hạnh phúc là một chất liệu tạo nguồn vui cho mọi người. Nếu
trong đại chúng có một người mà trong hoàn cảnh nào cũng cười
được, vui được và cũng không bao giờ mất niềm tin, thì đại chúng
đó đã được hưởng rồi, huống hồ khi trong đại chúng có được nhiều
người như vậy. Chúng ta ai cũng có khả năng làm một người như
vậy, nhưng bây giờ chúng ta không làm được vì chúng ta còn nghi
ngờ cái khả năng của mình, và như vậy chúng ta đã mang cái mặc
cảm thua kém. Chúng ta phải theo gương Bồ Tát Địa Tạng, Bồ Tát
Thường Bất Khinh, để nhìn sâu vào tàng thức và công nhận các khả
năng tính của chúng ta, công nhận chúng ta có thể có hạnh phúc
được. Muốn dễ dàng có hạnh phúc, trong đời sống hàng ngày chúng
ta phải tu tập và phát triển cái hỷ tính của mình, nghĩa là khả
năng trong trường hợp nào cũng vui cười được cả. Trong chúng ta
một khi biết ăn cơm là chúng ta biết rửa chén, tuy nhiên rửa cho
bản thân thì được mà cho nhiều người thì chúng ta thường có cảm
tưởng rửa chén là một cực hình. Tuy nhiên khi có tu tập, biết
ghi nhận, biết mỉm cười trong khi rửa chén, thì rửa chén có thể
là những giây phút tuyệt diệu. Rửa chén cũng có thể là một cơ
hội, một môi trường để tưới tẩm hạt giống hạnh phúc. Điều nầy
không phải chỉ có tăng chúng Chùa Dược Sư, mà ai ai trong cuộc
đời nầy cũng đều đã trải qua kinh nghiệm này rồi.
-
Nói tóm
lại, tất cả đều tùy thuộc vào cách chúng ta tiếp xử với hoàn
cảnh. Nếu có khả năng hạnh phúc thì trong điều kiện nào chúng ta
cũng có thể tạo dựng được hạnh phúc cho ta và cho những người
chung quanh. Ngược lại, nếu không tu tập và cứ nghĩ rằng hoàn
cảnh này không tạo được niềm vui cho chúng ta, chúng ta phải đi
kiếm một hoàn cảnh khác, và như vậy thì chúng ta cứ luôn luôn
làm gã cùng tử, làm một gã cô hồn lang thang mãi mãi.
-
Là một
người Phật Tử có tu học, thì hoàn cảnh nào cũng là hoàn cảnh lý
tưởng của chúng ta, và trong hoàn cảnh nào chúng ta cũng tạo
được hạnh phúc cả. Sống tại Mỹ chúng ta cũng thấy vui, mà ở Việt
Nam ta cũng tìm được hạnh phúc như thường. Sống ở đâu chúng ta
cũng có hạnh phúc, đó là nhờ trong khi tu tập chúng ta đã vận
dụng nhuần nhuyển, đắm mình trong giây phút hiện tại, và lấy tất
cả những điều kiện trong giây phút hiện tại làm nền tảng cho sự
sống, cho niềm vui của chúng ta. Có như vậy thì trời nắng cũng
vui, mà trời mưa chúng ta cũng thấy hạnh phúc. Trời mưa là một
trong những yếu tố không thể thiếu trên cao nguyên tình xanh
nầy, vì vậy cao nguyên tình xanh là một quê hương tươi mát. Ở
những nơi không có trời mưa thì chúng ta sẽ thấy thiếu thốn vô
cùng, chúng ta sẽ thấy rằng nơi đó chưa được toàn hảo, những
không phải vì vậy mà chúng ta không có hạnh phúc. Phải biết rằng
nơi chúng ta đang sống và tu học là một thực tại nhiệm mầu, cho
nên chúng ta không cần đi đâu cả, không cần du lịch về tương
lai, hay quá khứ mới có những điều đó. Những cái thuộc về hạnh
phúc đích thực của chúng ta nó đang có mặt ngay ở đây và trong
giờ phút này, chỉ vì chúng ta không có khả năng tiếp xúc với
những điều kiện hạnh phúc, chỉ vì ta đang làm thân cùng tử, đang
làm người hành khất, chỉ vì ta không có khả năng an trú trong
hiện tại cho nên ta chưa thấy thoải mái đó thôi.
-
Chúng ta
hãy tự đặt mình trong trường hợp, khi đi trong một khu vườn
không được chăm sóc, nơi đó có thể gặp một bông hồng rất tươi
đẹp, và muốn hái bông hồng đó, tuy nhiên muốn hái bông hồng,
chúng ta phải bước qua đám gai. Thường thì trong khu vườn hoang,
bông hồng nở nhưng những bụi gai cũng mọc đầy, nhưng không thể
vì gai mà chúng ta không hái được bông hồng. Muốn hái hoa, chúng
ta phải tìm cách rẽ cành gai cho đừng vướng áo, hay lấy gậy đè
nó xuống để bước tới được dễ dàng. Trong đời sống tu tập hàng
ngày cũng vậy, đừng nói rằng vì có chướng ngại cho nên chúng ta
không thể có hạnh phúc. Thật ra, vì trong tâm còn giận hờn, còn
buồn, còn chướng ngại cho nên không thể hưởng được cái hạnh phúc
mà đáng lý chúng ta được hưởng. Do vậy chúng ta phải biết xử lý
cơn giận, nỗi buồn để đừng đánh mất đóa hoa tươi thắm và niềm an
lạc trong đời sống hàng ngày. Chỉ cần khéo léo một chút thì sẽ
hái được bông hoa tươi thắm cho chúng ta, và cả cho những người
thân của chúng ta nữa.
-
Phải biết
rằng những lúc nội kết và niềm đau của ta ngủ yên, thì đó là
thời gian thuận lợi nhất cho sự tu tập để những hạt giống tốt,
những niềm vui có cơ hội đơm hoa, kết trái, để những hạt giống
của chúng rơi trở lại trong miếng đất tâm của ta. Nếu đợi cho
đến khi niềm đau, nỗi khổ ào ào nổi lên, xâm chiếm cả vùng ý
thức của chúng ta thì lúc đó tu tập khó hơn nhiều.
-
Do vậy,
đừng nên lấy cớ là chúng ta có niềm đau, nổi khổ mà không tu tập
bây giờ. Chúng ta phải hái đóa hoa hồng tươi thắm đó ngay trong
ngày hôm nay để trang trí cho cuộc đời, để cho đời chúng ta càng
lúc càng đẹp, cuộc tình càng lúc càng xanh tươi, và càng lúc
càng thăng hoa hơn.
--o0o--
|
|