|
TẬP SAN DƯỢC SƯ
-
Tự Thắp Đuốc Mà Đi
-
Trúc Giao
-
---o0o---
-
-
- Dậy mà đi,
ơi dậy mà đi
-
Dậy
mà đi, thắp đuốc lên mà đi
-
Dậy
mà đi mang sứ mệnh con người
-
Dậy
mà đi mang sứ mệnh tuyệt vời
-
Giác ngộ nhân quần
-
Giác ngộ cho chúng sanh
-
Cho
mọi người đạo quả viên thành
-
-
Dậy mà đi, ơi dậy mà đi
-
Dậy
mà đi, thắp đuốc lên mà đi.
-
Cụm
từ Tự Thắp Đuốc Lên Mà Đi đó là lời dạy của Đức Phật lúc Ngài
sắp vào Niết Bàn. Đây là lời nhắc nhở quan trọng không chỉ riêng
cho phật tử tại gia mà là cả đệ tử xuất gia. Cũng không phải chỉ
riêng đối với đệ tử xuất gia mà còn các hàng đệ tử đã chứng
thánh, nhưng chưa phải là quả vị rốt ráo. Nói chung là đệ tử của
Phật khi không còn bóng cây đại thọ để nương nhờ thì tự mình
phải thắp ngọn đèn trí tuệ của chính tự thân để mà đi.
-
Là đệ tử của
Phật cho dù là xuất gia hay tại gia cũng được coi là tăng thân,
một tổ chức sống hòa hợp, tuy vậy đại thể có thể chia làm hai
loại lớn:
-
- Hạng người
siêu phàm nhập thánh, đó là hạng người đã dứt hết mọi mê hoặc,
chứng được chân như.
-
- Một loại nữa
là phàm phu tức là con người ở thế gian, tuy là tu nhưng vẫn còn
tham sân phiền não ...
-
Nói chung
người ta coi bậc thánh là đấng sùng kính, còn phàm phu thì kém
hơn. Do đó ngày nay có nhiều người tu hành tuy chưa đến đâu vẫn
tự xưng là chứng thánh để nâng cao giá trị của mình. Nhưng là
người phật tử có tu, chúng ta không những không tự khoe khoang
mà còn phải khiêm cung học hỏi.
-
Theo quan niệm
của thế gian, người ta thường phân chia ranh giới của sự hiểu
biết:
-
- Thượng trí
-
- Trung căn
-
- Hạ ngu
-
Nếu lấy thượng
trí để so sánh đối với hạ căn thấp kém, thì kẻ hạ căn thấp kém
đương nhiên không thể bằng bậc thượng trí. Hạ ngu tuy không bằng
thượng trí nhưng cả hai hạng người đó có một điểm chung đó là
khó thay đổi:
-
a- Người Trí
-
Bậc thượng trí
không thay đổi vì nghĩ rằng mình có trí tuệ cao siêu, nhận thức
chính xác mọi sự lý, cho nên quyết không thể quay gót theo người
và nghe người một cách dễ dãi. Với khả năng của người trí họ tự
nghĩ là chỉ có thể dựa vào trí tuệ của mình, kiên định hành động
theo điều mình hiểu. Đó là cái không thay đổi của bậc thượng
trí.
-
b- Căn Thấp
Kém
-
Đối với bậc hạ
căn thấp kém, tuy trí tuệ thua kém các bậc thượng trí, nhưng
cũng có sức kiên trì, khó thay đổi. Đó là tính cách thuần phác
của họ. Một khi đã được người khác hướng dẫn, bảo họ làm thế nào
thì họ kiên định làm theo như thế. Quả thật như vậy, chẳng hạn
như nhiều phật tử lớn tuổi, không hề biết chữ, xem ra rất hiền
hòa chất phát, nhưng nếu nói với họ rằng:
-
- Cụ cố gắng
niệm Phật A Di Đà thì Phật sẽ rước cụ về Tây Phương Cực Lạc.
-
Lời hướng dẫn
nầy họ sẽ tin tưởng giữ chặt cái tôn chỉ ấy, không ai lay chuyển
hoặc thay đổi được. Đó là cái bất di của kẻ hạ căn thấp kém. Với
những người hạ căn thấp kém như vậy, thật là hiếm hoi đáng quý
biết bao.
-
c- Trung Căn
-
Riêng về hạng
trung căn nếu so sánh thì khá hơn những bậc hạ căn, nhưng lại
không bằng bậc thượng trí, do vậy hạng người nầy là hạng người
dễ dàng thay đổi nhất, bấp bênh nhất. Hôm nay nghe nói đạo Phật
tốt thì tin thờ đạo Phật, ngày mai nghe nói đạo khác tốt lại
thay đổi tín ngưỡng. Những người như vậy rất khó mà hóa độ.
-
Là người tu,
chúng ta tự nhận là kẻ trí tuệ kém chẳng qua chỉ là tự mình
khiêm cung, những người như vậy chắc chắn không phải là người
ngu muội không biết gì. Cái kém cỏi mà chúng ta tự nhận, chúng
ta có thể hiểu là:
-
- Đại trí
nhược ngu
-
Nghĩa là:
-
- Bậc đại trí
xem ra như người ngu đần.
-
Đối với loại
người, biết mình là con người phàm phu, nhưng chúng ta có thể
hiểu biết về chúng ta. Chúng ta tự nhận xét, tuy là một người có
tu học, nhưng không giống một phật tử đúng phép, do vậy mà chưa
có đủ những phẩm cách hoàn mỹ của một kẻ tu học. Một khi đã hiểu
biết như vậy, thì chúng ta là người trí. Hơn thế nữa, trên thực
tế, người có chí tu học thì đã là người có chí của đại trượng
phu, mà lại có tâm cầu được vãng sinh Tây phương Cực Lạc thì
chắc hẳn không thể là người phàm phu bình thường. Vãng sinh Tây
phương, được gặp đức Di Đà mà giác ngộ, thì chắc chắn không phải
là người hạ căn kém cỏi.
-
Chúng ta nên
biết rằng, chư vị thiền tổ đã đi qua trên cuộc đời, là một đệ tử
của Phật, lẽ tất nhiên là phải nói năng khiêm tốn đối với mọi
người. Hơn nữa, Phật pháp là không thể nghĩ lường, thường thường
trong Pháp hội, lúc nào cũng có chư Phật, Bồ Tát chứng minh,
nhưng vì chúng ta là người phàm mắt thịt không thấy được mà
thôi. Đồng thời trong hàng đại chúng có mặt tại chỗ có thể có
những đại thiện tri thức, cho nên mỗi khi trình bày một quan
điểm nào đó thì đức tánh khiêm cung không thể thiếu.
-
Nếu chúng ta
là người có những suy tư như vậy, khi đứng trước hoàn cảnh đạo
pháp suy vi, chúng sinh đau khổ thì chắc chắn tự nhận cho mình
một trách nhiệm để cứu vãn Đạo Phật đang suy vi, cứu vớt chúng
sinh đang đau khổ. Chúng ta nên cảm thấy đó là niềm đau của
chính bản thân mình, nếu cần thổ lộ cũng nên thổ lộ lòng mình,
để cầu mong mọi người phát tâm hướng thượng, trên thì hoằng
dương Phật đạo, dưới thì hóa độ chúng sinh. Sự kiện nầy, ngoài
hiện tiền đại chúng ra, chúng ta còn phải có bổn phận truyền đạt
đến:
-
- Những Thính
Chúng Không Tham Dự.
-
Là những người
có mặt trên đời lúc bấy giờ, vì ngoài những người hiện có mặt
tham dự Pháp hội Niết bàn ra, đương thời còn rất nhiều tín đồ
khác không đến tham dự. Chúng ta cũng mong muốn họ cùng phát tâm
hướng thượng, và hành đạo Bồ Tát như chúng ta.
-
2- Người Đời
Sau.
-
Vì là giáo
pháp cao thâm vi diệu, không những cần tác động đến những tín đồ
Phật Giáo đương thời, mà còn mong muốn những lời đó tác động đến
những tín đồ các tôn giáo khác trong tương lai, hy vọng họ cũng
phát tâm Bồ Đề như thế. Cư sĩ là chỉ cho những người tu hành tại
gia. Tất cả những tín đồ học Phật tại gia, không luận là nam nữ,
trước hết cần phải có lòng tin đối với Tam bảo. Nếu không có
lòng tin, thì không những chúng ta không thể hành trì Phật pháp,
mà còn có thể làm tổn hại Phật pháp. Vì vậy, đối với tín đồ Phật
giáo, lòng tin là vô cùng quan trọng. Tuy là lòng tin, nhưng
lòng tin cũng cần phải có sự thanh tịnh đó là vấn đề rất quan
trọng. Bởi vì lòng tin thanh tịnh tuyệt đối thì gọi là tịnh tín,
là nói lòng tín ngưỡng Phật pháp rất thuần khiết, trong đó không
nhiễm một tí tư tưởng tà đạo nào. Tin tưởng Tam bảo nếu như còn
tạp nhiễm những tà kiến không thuần khiết, thì rất khó mà tu
hành Phật pháp, và đồng thời cũng khó thể hiện được sự thực hành
chân chính. Kinh nói:
-
- Tín vô trọc
nhiễm linh tâm tịnh,
-
Khí trừ ngã
mạn cung kính bản.
-
Nghĩa là:
-
- Lòng tin
không nhuốm đục là lòng thanh tịnh,
-
Trừ bỏ sự kiêu
mạn của cái tôi, là gốc của sự cung kính.
-
Kinh Thập Pháp
lại nói:
-
- Tín vi tối
thắng thừa,
-
Vận tải thành
chính giác,
-
Thị cố tín
đẳng sự,
-
Trí giả ưng
thân cận.
-
Nhược nhân vô
tín căn,
-
Bất sinh như
bạch pháp,
-
Thí như tiểu
cốc chủng,
-
Diệc bất sinh
nha kính.
-
Nghĩa là:
-
- Lòng tin là
cỗ xe tốt bậc nhất
-
Để chuyên chở
chúng sinh đến chốn giác ngộ chân chính.
-
Vì thế cho nên
-
Lòng tin là
điều mà bậc trí giả phải gần gũi.
-
Người ta nếu
không có gốc lòng tin
-
Thì không thể
nẩy sinh bất cứ thiện pháp nào
-
Cũng như hạt
giống thóc thối,
-
Không thể nẩy
mầm thành cây được.
-
Vì lẽ đó,
chúng ta phải cung kính phụng thờ Tam Bảo, tiếp thụ lời răn dạy
của Tam Bảo với một lòng tin tín thành thuần khiết nhất. Chúng
ta bất luận nghe gì, nếu chỉ nghe mà không xét thì cũng bằng như
không nghe, cho nên nghe rồi phải xem xét. Theo Phật pháp:
-
- Nghe là văn
tuệ, xét là tư tuệ.
-
Chỉ có nghe
rồi phải nghĩ thì mới tiếp thụ được Phật pháp. Thực ra, ngoài
nghe và nghĩ ra, còn phải hành, cho nên trong đoạn trên có đủ cả
ba loại trí tuệ:
-
- Văn, tư, tu.
-
Người nghe và
thực hành Phật pháp một cách thực sự thì phải dùng cả ba tuệ
văn, tư, tu. Nếu có thể nghe Phật pháp với cả ba tuệ thì sẽ tiếp
thụ được Phật pháp. Bởi vì cửa chính vào Đạo, phát tâm làm đầu,
việc cần kíp của người tu hành, trước hết phải lập nguyện.
Nguyện lập thì độ được chúng sinh, phát tâm thì Đạo Phật sẽ
thành, nếu như không phát tâm quảng đại, lập nguyện vững chắc
thì cũng vẫn không thoát khỏi luân hồi, tuy có tu hành nhưng vẫn
cứ uổng công vất vả.
-
Như những
người tu học Phật pháp, tất cả đều phải đi vào đạo Phật. Nhưng
muốn đi vào Đạo Phật thì nhất định phải qua một cái cửa. Như
muốn đi vào giảng đường, chắc chắn phải qua một cái cửa của
giảng đường. Cũng vậy, cái cửa chủ yếu phải đi qua để vào Đạo
Phật tức là phát tâm, tự mình thắp đuốc lên mà đi, tự mình mở
cửa bước vào nhà Phật Pháp. Chỉ có phát tâm, mở cửa mới vào được
Đạo Phật. Vì vậy bất kể trong kinh điển Đại thừa hay Tiểu thừa,
Đức Phật đều chỉ dạy cho chúng ta phát tâm là số một.
-
Chúng ta muốn
vào con đường giải thoát, cố nhiên phải phát tâm, muốn vào con
đường Bồ Đề lại càng phải phát tâm nhiều hơn. Cho dù là theo
thiên đạo và nhân đạo của thế tục đi cũng cần phát tâm. Nếu như
không phát tâm, thì dù cho cửa rộng mở, đường đi bằng phẳng,
chúng ta vẫn không thể qua cái cửa ấy để bước lên con đường lớn
mà chúng ta hy vọng bước lên. Theo đó, có thể chứng tỏ rằng phát
tâm quả là hết sức quan trọng. Nói một cách nghiêm túc, không
chỉ cho những ai muốn đi lên con đường lớn của Phật pháp mới cần
phải phát tâm, mà muốn hoàn thành bất cứ một việc gì ở thế gian
cũng phải phát tâm. Không phát tâm thì bất cứ việc lớn việc nhỏ
gì cũng không thể thành công.
-
Sau khi phát
tâm rồi, việc phải làm tiếp theo là theo cái tâm đã phát mà thực
hiện. Từ điểm khởi đầu cho đến điểm kết thúc, mọi việc phải liên
tiếp không gián đoạn, bước này tiếp với bước kia mà tiến lên,
như vậy mới có thể gọi là tu học đạo giải thoát. Như vậy việc
trước và trên hết trong sự nghiệp tu học là tự mình thắp đuốc
lên mà đi. Khi chúng ta muốn bước lên bất cứ một con đường lớn
nào của Phật pháp, thì trước hết là lập chí nguyện vững bền. Với
cái chí nguyện vững bền không thể chuyển lay ấy, chúng ta có
thể từng bước tiến mạnh đến mục tiêu, không ngừng không nghỉ. Vì
vậy, nếu chúng ta muốn tu hành có thành tựu, thì việc lập nguyện
là một sự kiện quan trọng tuyệt đối không thể thiếu được, hơn
nữa là một trong những điều kiện tiên quyết.
-
Về vấn đề này
như tất cả mọi người chúng ta ai cũng đều biết. Muốn làm bất cứ
việc gì ở thế gian, nếu không tự mình đứng lên mà đi thì không
thể hoàn thành được sự nghiệp chúng ta muốn hoàn thành. Sự
nghiệp thông thường ở thế gian còn như vậy, thì việc lớn tu học
Phật pháp, hóa độ chúng sinh, ở chốn trang nghiêm tịnh độ lại
càng không thể thiếu. Do vậy, nếu không lập được nguyện lớn kiên
định, thì khó có thể hoàn thành được những việc lớn. Vì vậy,
trong Kinh, đức Phật nhiều lần chỉ dạy cho chúng ta:
-
- Việc khẩn
cấp trong khi tu hành trước hết phải tự mình thắp ngọn đèn trí
tuệ cho chính mình.
-
Như vậy, việc
phát tâm và lập nguyện có tầm quan trọng ngang nhau trong Phật
pháp. Lập nguyện sở dĩ quan trọng là vì:
-
- Nguyện lập
tắc chúng sinh khả độ
-
Nghĩa là:
-
- Lập được
nguyện thì có thể hóa độ được chúng sinh.
-
Chúng ta biết
rằng, bất cứ việc gì trên đời, nếu không xác lập được ý nguyện
kiên định bất di bất dịch còn khó có thể hy vọng hoàn thành,
huống gì việc lớn học Phật, hóa chúng sinh độ?
-
Nhiệm vụ của
người tu phát tâm Bồ Đề không có gì trọng yếu hơn là hóa độ
chúng sinh nhiều đến vô lượng vô biên. Bồ Tát hóa độ được những
chúng sinh cang cường hay không mấu chốt không phải ở chỗ chúng
sinh nhiều và cang cường, mà là ở chỗ chúng ta có lập được chí
nguyện kiên định, rồi dựa vào cái nguyện lực kiên nghị đó để bền
bỉ nhẫn nại để hóa độ chúng sinh. Khi đã có tâm bền bỉ như vậy
thì sẽ có ngày chúng sinh sẽ được chúng ta hóa độ. Vì tầm quan
trọng của việc lập nguyện, cho nên Đức Phật đã từng khai thị
chúng ta:
-
- Như Lai đại
chí tôn,
-
Hiển công đức
chứng,
-
Nhẫn tuệ phúc
nghiệp lực,
-
Thệ nguyện lực
tối thắng.
-
Nghĩa là:
-
- Bậc Đại trí
Như Lai tôn kính
-
Đã từng nói rõ
công đức chúng.
-
Nhân lực, trí
lực, phúc lực, nghiệp lực,
-
Chỉ có nguyện
lực thù thắng nhất.
-
Ý nói bậc đại
trí đại bi Như Lai đã từng chỉ rõ công đức cho chúng ta, muốn
thành tựu công đức trong sự nghiệp tu học, vì thế trước và trên
hết chúng ta phải thực hiện:
-
1- Nhẫn Lực:
-
Tức là sức
nhẫn nhục chịu đựng. Trong Kinh nói:
-
- Năng hành
nhẫn giả, nãi khả danh vi hữu lực đại nhân
-
Nghĩa là:
-
- Người nào
chịu nhẫn nhục được, thì có thể gọi người đó là bậc đại nhân có
sức mạnh lớn.
-
Như vậy, một
người được coi là có sức mạnh hay không thì phải xem công phu
chịu đựng nhẫn nhục của người đó đạt đến mức nào. Người có thể
nhẫn nhục thì rốt cục sẽ thành công, có thể thấy rõ sức mạnh của
nhẫn lực đó là rất lớn.
-
2- Trí Lực:
-
Tức là sức
mạnh của trí tuệ. Có thể phân biệt trái phải, quyết định tà
chính được hay không, hoàn toàn là do có trí tuệ hay không.
Người không phân biệt được đúng sai, tà chính là người trái phải
không phân minh, tà chính không rõ. Do đó trí lực là không thể
coi nhẹ được.
-
3- Phúc Đức
Lực:
-
Người ta nếu
làm theo điều thiện thì phúc đức được tích tụ sau này rất lớn.
Phúc đức đó sẽ tạo ra một sức mạnh cho thân tâm chúng ta mà
không một ai có thể cướp đoạt được cái sức mạnh đó.
-
4- Nghiệp Lực:
-
Là sức mạnh
tạo nghiệp. Bất luận chúng ta tạo ra nghiệp thiện hay nghiệp ác
thì nó cũng tạo ra một sức mạnh thúc đẩy, khiến cho ta phải tất
tả chạy ngược chạy xuôi. Không một sức mạnh nào có thể kháng cự
nổi nghiệp lực. vì vậy nói:
-
- Nghiệp lực
là sức mạnh không thể nghĩ bàn.
-
Sau khi nói
đến các loại sức mạnh đó, Đức Phật chỉ rõ cho chúng ta biết:
-
- Thệ nguyện
lực tối thắng,
-
Nghĩa là:
-
- Nguyện lực
sức mạnh hơn tất cả các loại lực nói trên.
-
Chúng ta cứ
thử nghĩ:
-
- Mọi việc
chúng ta muốn làm trong thế gian này, cho đến việc liễu ngộ sinh
tử, được giải thóat, hóa độ chúng sinh, thành tựu Phật đạo, việc
nào chúng ta cũng đều cần đến sức mạnh của nguyện lực.
-
Không có việc
nào mà chúng ta không tự mình thắp đuốc lên mà đi. Như vậy không
tự mình thắp đuốc lên mà đi, không có nguyện lực thì việc gì
cũng không thành. Cho nên trong các Kinh Luận thường có lời
khuyên chúng ta nên phải phát nguyện. Vì khi đã thực sự phát
nguyện, thì dựa vào nguyện lực đó chúng ta sẽ không lười biếng,
lùi bước trên con đường tiến đến mục tiêu và nhất định có thể
đạt đến mục tiêu cuối cùng.
-
Trong sự tích
của chư Phật, và Bồ Tát, chúng ta có thể tìm thấy những tấm
gương lập nguyện lớn hóa độ hóa chúng sinh, với niềm tin chúng
sinh sẽ được chúng ta hóa độ. Chư Phật Như Lai sở dĩ có thể hóa
độ chúng sinh cần phải hóa độ, nguyên nhân là nhờ có sức mạnh
của chí nguyện lớn như:
-
- 48 nguyện
Phật A Di Đà,
-
- 12 nguyện
của Phật Dược Sư.
-
Các vị Đại Bồ
Tát tuy đang ở trong vòng sinh tử mà có thể hóa độ được chúng
sinh, chính là nhờ có sức mạnh của nguyện lực lớn như:
-
- 12 đại
nguyện của Đại Sĩ Quan Âm,
-
- 10 đại
nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền.
-
Quả thật, nếu
muốn hóa độ chúng sinh trong bể khổ sinh tử, nếu không tự mình
thắp đuốc lên mà đi, nếu không có nguyện lớn kiên định bất di
bất dịch thì không thể nào làm nổi. Mỗi vị Bồ Tát phát tâm đều
phải phát bốn thề nguyện lớn là vì thế
-
- Chúng sanh
vô biên thệ nguyện độ
-
Phiền não vô
tận thệ nguyện đoạn
-
Pháp môn vô
lượng thệ nguyệc học
-
Phật đạo vô
thượng thệ nguyện thành.
-
Chư Phật Như
Lai, chư Bồ Tát đều có chí nguyện riêng biệt của các Ngài, cũng
chính là vì thế chúng tôi xin được gợi ý đến đại chúng học Phật,
trước hết hãy lập nguyện vững bền.
-
Nếu có lúc
chúng ta biết việc lập nguyện là quan trọng cho việc thành tựu
đạo nghiệp, thì sự phát tâm là yếu tố quan trọng hỗ trợ cho việc
thành tựu đạo nghiệp. Quả thật, bất luận làm gì không phát tâm
thì thôi, một khi đã phát tâm thì làm gì cũng có thể thành công.
Trên lập trường Phật pháp, chúng ta đều hy vọng cuối cùng được
thành Phật. Để chứng được Phật quả tối cao vô thượng, trước hết
ta phải phát tâm Bồ Đề. Một khi đã phát tâm Bồ Đề rồi thì dù
hành trình đến quả vị Phật có xa xôi đến mấy, dù đường Bồ Đề khó
đi đến mấy, dù trên đường gặp bao nhiêu ma chướng, chịu bao
nhiêu đả kích cũng không lay chuyển được chúng ta. Được như thế
là vì nhờ đã có cái tâm mong muốn thành Phật, tinh tiến không
mệt mỏi trên đường tu học, mà qua đó chúng ta tìm được cách gạt
bỏ mọi khó khăn, phá trừ mọi ma chướng. Trên đường đạt Bồ Đề,
chúng ta cố gắng không ngừng, vấp váp không nản bước tiến trên
đường tu đạo giải thoát. Khi chưa đạt được Phật quả, thì quyết
không dừng bước. Như vậy, tầm quan trọng của việc tự mình thắp
đuốc lên mà đi là khởi đầu cho công việc lập nguyện và phát tâm,
nếu không phát tâm quảng đại, không lập nguyện kiên cố thì cũng
vẫn không thoát khỏi luân hồi, tuy có tu hành, cũng vẫn uổng
công vất vả.
-
Bàn về việc
phát tâm, chúng ta cũng phải biết sự phát tâm tuy là một, nhưng
có lớn có nhỏ khác nhau rất nhiều, chẳng hạn như:
-
1- Phát tâm vì
mình, vì gia đình, thôn xóm, quốc gia, cho đến vì cả thế giới mà
phát tâm. Sự phát tâm nầy không được coi là phát tâm quảng đại.
-
2- Phát tâm độ
tận chúng sanh như tận hư không, khắp pháp giới, thì gọi là tâm
quảng đại. Như chúng ta thường đọc được trong kinh Phật:
-
- Hư không hữu
tận
-
Ngã nguyện vô
cùng.
-
Nghĩa là:
-
- Hư không tuy
rộng lớn nhưng vẫn có chỗ cùng tận.
-
Trong khi đó
nguyện của chúng ta không cùng tận.
-
Chỉ có phát
tâm như vậy mới đủ tư cách là phát tâm quảng đại. Vì phải có tâm
quảng đại như vậy, thì mới có thể hóa độ hết thảy chúng sinh.
-
Còn nói về lập
nguyện, đứng trên phương diện thế gian mà nói. Mặc dù mỗi người
đều lập nguyện riêng, nhưng đại thể là ai cũng có chí nguyện của
mình. Có người lập nguyện rồi, có thể thành được sự nghiệp mà
mình kỳ vọng, hoàn thành được tâm nguyện của mình. Nhưng cũng có
người lập nguyện rồi, kết quả cũng không nên việc gì, không được
nguyện vọng của mình, đó là thiếu yếu tố tự mình thắp đuốc lên
mà đi, nghĩa là chúng ta không tùy thuộc vào bất cứ một chi phối
nào ở trong cuộc đời.
-
Cũng là lập
nguyện, nhưng lại có người thành công có người thất bại, lý do
là vấn đề lập nguyện có kiên cố hay không. Có người lập nguyện
rồi, không thể kiên định ý chí của mình, do vậy khi hơi bị trắc
trở, hơi bị đả kích một chút là lung lay chí nguyện, như thế
không thành công là lý đương nhiên. Đã lập nguyện rồi thì nguyện
đó phải cho kiên định:
-
- Không vì
trắc trở mà dao động
-
- Không vì đả
kích mà sợ hãi
-
- Không vì khó
khăn mà lùi bước
-
- Không vì trở
ngại mà nản lòng.
-
Lập nguyện
kiên cố như vậy thì không có việc gì là không làm nổi. Cho nên
lập nguyện không chỉ để mà lập nguyện, mà còn phải lập nguyện
kiên cố, dứt khoát không vì bất cứ khó khăn nào mà để mất bản
nguyện của mình, phải có quyết tâm, sinh mệnh ta có thể hy sinh,
chí nguyện ta quyết không thay đổi mới được.
-
Nếu không đạt
được sự phát tâm quảng đại như đã nói, thì cho dù chúng ta có tu
hành trong ba đại a tăng kỳ kiếp, cũng không thể nào thoát khỏi
vòng luân hồi sinh tử. Tức là, cho dù chúng ta có tu trì đúng
phép trong thời gian dài vô số kiếp vi trần, thì cũng cứ đắm
chìm trong bể khổ tử sinh không thể giải thoát được. Trần kiếp
là chữ thường nói trong kinh Phật có vẻ hơi khó hiểu, tuy nhiên
nếu lấy thế giới Ta Bà nơi mà chúng ta đang sống đây để nói thì
rất dễ hiểu:
-
- Đem cái thế
giới này chia nhỏ mãi ra thành những hạt bụi nhỏ li ti, lấy mỗi
hạt bụi như vậy làm một kiếp, có bao nhiêu hạt bụi như vậy là có
bấy nhiêu kiếp.
-
Tu hành trong
thời gian bấy nhiêu kiếp vi trần, mong thoát khỏi luân hồi sinh
tử, kết quả vẫn ở trong vòng sinh tử ấy, không sao thoát được.
Nói theo quan điểm chung, tu hành Phật pháp không ngoài hy vọng
đạt được thành tựu về Phật pháp. Nhưng nếu không có yếu tố tự
mình thắp đuốc lên mà đi, thì dù có tác dụng công sức tu hành,
kết quả vẫn là vất vả vô ích.
-
Cho nên cũng
là dụng công tu hành, mà tự mình thắp sáng ngọn đèn tuệ giác, tự
mình phát tâm quảng đại, lập nguyện kiên cố thì thành tựu sẽ
lớn. Ngược lại, với tâm hồn ươn yếu, không phát tâm quảng đại,
không lập nguyện kiên cố, thì thành tựu sẽ nhỏ, nhiều khi còn là
uổng phí công lao vất vả. Vì vậy, tự mình thắp sáng đèn tuệ
giác, tự mình phát tâm quảng đại, lập nguyện kiên cố là ba điều
kiện không thể thiếu được của việc tu đạo giải thoát. Cho nên
kinh Hoa Nghiêm nói:
-
- Vong thất Bồ
Đề tâm
-
Tu chư nghiệp
pháp
-
Thị danh ma
nghiệp
-
Nghĩa là:
-
- Quên mất tâm
Bồ Đề
-
Mà tu các
thiện pháp
-
Thì gọi là ma
nghiệp.
-
Quên mất còn
như vậy, huống gì chưa phát tâm, cho nên muốn học đạo giải
thoát, việc trước hết phải phát nguyện Bồ Tát, không thể chậm
trễ. Tự mình thắp đuốc lên mà đi, phát tâm quảng đại, lập nguyện
vững bền. Nói khác đi là chúng ta phải tinh tấn vượt bực, phải
phát tâm Bồ Đề, lập nguyện Bồ Tát. Với tuệ giác, phát khởi tâm
Bồ Đề, lập nên nguyện Bồ Tát, lấy cái tâm nguyện đó mà tu mọi
hạnh lành, mới có thể thành Phật nghiệp, Bồ Tát nghiệp, cũng gọi
là thiện nghiệp vô lậu xuất thế gian. Nếu không phát tâm Bồ Đề,
không lập nguyện Bồ Tát thì mọi thiện pháp đã tu, có thể tương
ứng với Phật pháp hay không cũng trở thành những khó khăn lớn.
Theo Kinh Hoa Nghiêm:
-
- Một hành giả
dù đã phát tâm Bồ Đề, động cơ phát tâm lúc đầu, tuy nói là để
hóa độ chúng sinh, nhưng lâu dần trên đường đạo Bồ Đề, hoặc vì
bận xử lý việc đời, hoặc vì không chịu được thử thách, hoặc vì
cảm thấy chúng sinh khó hóa độ, thế rồi tự nhiên quên mất tâm
nguyện Bồ Đề đã phát lúc đầu.
-
Về việc này
Đức Phật đã nói cho chúng ta biết:
-
- Quên mất tâm
Bồ Đề thì tu mọi thiện pháp cũng thành ma nghiệp.
-
Gọi là quên
mất tâm Bồ Đề. Chúng ta không nên nghĩ là chưa từng có tâm ấy.
Bởi vì trong Kinh nói:
-
- Xưa có một
vị Bồ Tát gặp được một đấng Như Lai, liền phát tâm Bồ Đề.
-
Như vậy đáng
lẽ là rất tốt, nhưng về sau trong tu hành ở thế gian, quên mất
cái tâm Bồ Đề đã phát, cứ như là chưa hề xãy ra chuyện đó. Chúng
ta quên mất tâm Bồ Đề như vậy, mặc dù vẫn tu hành thiện pháp ở
thế gian, như tu:
-
- Năm giới tại
gia,
-
- Mười giới
thiện,
-
- Như bắt cầu,
làm đường, bố thí quần áo, cơm ăn, thuốc men .. v. v.. đều có
thể gọi là thiện pháp.
-
Như vậy, phàm
việc gì có ích cho nhân quần xã hội, thế giới, nhân loại, dù các
loại việc từ thiện nhỏ đến đâu cũng đều có thể gọi là thiện
pháp. Nhưng mọi thiện pháp đã tu, nếu tương ứng với tâm Bồ Đề,
tự nhiên sẽ trở thành tư lương thành Phật. Còn nếu không tương
ứng với tâm Bồ Đề thì tất cả đều thuộc ma nghiệp.
-
Cái gọi là ma
nghiệp tức là ma vương, tác dụng duy nhất của ma vương là cản
trở chúng ta hướng lên, hướng về cái thiện, hướng về quang minh.
Tuy nhiên chúng ta không nên nghĩ chỉ có ma vương trên trời lục
dục mới là ma, mà chúng ta phải biết là những gì ngăn trở chúng
ta trên con đường xuất thế cũng đều gọi là ma. Vì thế khi có một
người muốn vượt ra ngoài ba giới, là ma vương phát hoảng, sợ
rằng quyến thuộc của nó lại thiếu đi một thành viên. Thế là nó
thi triển mọi chước quỷ mưu ma, cản trở lưu giữ những người ấy,
không cho ra khỏi tam giới. Do đó quên mất tâm Bồ Đề mà tu thiện
pháp, thì nhiều nhất cũng chỉ cảm thấy được quả phúc báu sinh
lên cõi trời mà thôi, không thể thoát ra khỏi bàn tay ma vương,
vẫn nằm trong sự khống chế của ma vương, ngoan ngoản làm họ hàng
thân thuộc của ma vương.
-
Nói là tu các
thiện pháp, không phải là chuyên chỉ cái thiện pháp thế gian, mà
bao gồm cả các thiện pháp xuất thế gian. Ở đây có người hỏi
rằng:
-
- Quên tâm Bồ
Đề mà tu các thiện pháp thế gian, cố nhiên có thể nói là ma
nghiệp. Quên tâm Bồ Đề mà tu các thiện pháp xuất thế gian, có
được coi là ma nghiệp không?
-
Trong Kinh
Lăng Nghiêm nói:
-
- Đem cả Thanh
văn, Duyên giác cũng liệt vào trong 50 loại ấm ma, thì nói tu
cái thiện pháp xuất thế cũng là ma nghiệp.
-
Hơn nữa ma
vương không những tu thập thiện nghiệp, và cũng tu thiền định
nữa. Nhưng sở dĩ không được địa vị như chư Bồ Tát, hoặc Phạm
Thiên ở cõi Trời chỉ vì ma vương không phát tâm Bồ Đề, cho nên
còn bị quả báo sinh vào cõi trời dục giới mà trở thành ma vương
nhiểu loạn thế gian, khiến cho mọi chúng sinh ở dục giới đều
thành quyến thuộc của nó. Hơn nữa phát tâm bồ đề rồi mà lại quên
mất tu các thiện pháp còn là ma nghiệp, huống gì căn bản không
tự mình thắp đuốc lên mà đi, không tự mình phát tâm Bồ Đề, không
tự mình lập nguyện Bồ Tát. Chỉ có quên đi còn như vậy, huống gì
là chưa phát. Từ đây có thể thấy rõ hơn phát tâm Bồ Đề rất là
quan trọng.
-
Căn cứ vào
những điều vừa trình bày có thể hiểu rõ, một người tu học đạo
giải thoát nếu như tự nguyện tu tập thiện pháp Nhân, Thiên thừa,
hoặc chỉ muốn tu Thanh Văn, Duyên giác thừa thì không nói, còn
nếu muốn tu học pháp Đại thừa, thì trước hết phải tự mình thắp
ngọn đèn tuệ giác, tự mình phát nguyện tu hạnh Bồ Tát, và điều
đó không thể chậm trễ.
-
Nói tóm lại,
chúng ta tu học đạo giải thoát, hy vọng sau này thành Phật, tức
là mục đích cuối cùng của việc tu học. Nhưng Phật do tu hạnh Bồ
Tát mà thành. Không có một đức Phật nào không qua con đường tu
học hạnh Bồ Tát mà thành được quả vị Phật tối cao. Vì thế, nói
đến người thực hành hạnh Bồ Tát là nói về người đã phát tâm Bồ
Tát. Có nhân tu Bồ Tát hạnh thì sẽ từng bước tiến đến Phật quả.
Còn nói quả vị Phật là nói đến mục tiêu, kết quả. Bồ Tát thừa là
nhân, Phật thừa là quả cả hai đều có quan hệ nhân quả. Bất luận
là Bồ Tát thừa hay Phật thừa, khi muốn bước lên con đường lớn Bồ
Đề này thì trước hết phải có một điều kiện, tức là phải khơi dậy
tánh giác, phát nguyện Bồ Tát. Khơi dậy tánh giác, phát nguyện
Bồ Tát không những là điều kiện không thể thiếu được, hơn nữa
còn phải mạnh dạn không thể nào trì hoãn. Trong khi đó tâm lý
con người thường có cái tật là rề rà trì hoãn, việc gì cũng muốn
để đến ngày mai, nhưng nhiều người đã không biết:
-
- Ngày mai là
ngày không bao giờ đến, bởi vì qua cái ngày mai này, lại đến cái
ngày mai khác.
-
Cho nên, chúng
ta không những phải khơi dậy tánh giác, phát tâm Bồ Đề, mà còn
phải phát tâm Bồ Đề thật sớm, phát tâm Bồ Đề ngay lập tức, không
thể đợi ngày mai. Nếu như ngày mai rồi lại ngày mai, qua mấy
ngày mai thì chúng ta đã lão rồi, thậm chí sắp xuống huyệt rồi.
Đến lúc đó cho dù muốn phát tâm Bồ Đề thì cũng quá muộn mất rồi.
Quả thật như vậy, việc gì cũng có thể từ từ, riêng việc học đạo
giải thoát, việc phát tâm Bồ Đề là tuyệt đối không thể từ từ,
phải bắt đầu ngay lập tức, bởi vì thời gian không bao giờ chờ
đợi chúng ta. Chúng ta hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi.
--o0o--
|
|