|
TẬP SAN DƯỢC SƯ
-
Nguy Hiểm Cuả Chấp Ngã
-
Bạch Y Thư Sinh
-
--o0o--
-
-
Trong cuộc sống hàng ngày, theo thói quen thông thường:
-
- Đói thì ăn,
-
- Khát thì uống,
-
- Mệt nghỉ ...
-
Cần làm ra tiền thì chúng ta cứ đi làm việc, cứ như thế mà ngày
lại tháng qua, năm dài tiếp nối ... Không bao giờ chúng ta để ý
và cũng không cần tìm hiểu:
-
- Động cơ nào mà chúng ta có mặt trên cuộc đời này.
-
Chúng ta cũng chẳng cần tìm hiểu:
-
- Động cơ nào khiến cho chúng ta có những cách hành xử thiếu nhã
nhặn.
-
Và chúng ta cũng không buồn tìm hiểu:
-
- Động cơ nào làm cho chúng ta có những lời nói thiếu chánh niệm
...
-
Đây là điểm then chốt hết sức quan trọng. Về mặt đời cũng vậy, về
mặt đạo cũng vậy. Cho nên nếu thấy được chỗ này thì cuộc sống của
chúng ta sẽ có ý nghĩa hơn. Và lẽ tất nhiên cuộc đời của chúng ta
sẽ thảnh thơi an nhàn nhiều hơn.
-
Đức Phật cũng đã từng dạy, chư tôn đức cũng thường nhắc nhở, và
chúng ta xét cho kỹ các vấn đề từ lời nói cho đến mọi việc làm của
chúng ta:
-
- Tất cả đều vì cái Ta chứ không có gì khác.
-
Quả thật, ngay từ buổi ban đầu, lúc mới sinh ra đời là đã có cái
Ta. Trước khi chưa sinh thì cái Ta chưa có, chưa biết chúng ta là
ai, và tên gọi cũng không có, cho đến khi có mặt trên cuộc đời này
cha mẹ mình mới chọn một cái tên nào đó để tạm gọi. Từ đó cái Ta
của chúng ta mới thành hình. Theo các bậc tôn đức dạy:
-
- Do lòng tham ái, chấp vào cái Ta cho nên chúng ta mới có mặt
trên cuộc đời này. Nếu không có nó thì đã là vô sinh.
-
Vì thế, nếu sự sống này chấm dứt, tức là cái Ta của chúng ta không
có. Do vì lòng tham ái chấp vào cái Ta, cho nên nếu có mất đi cái
thân này là chúng ta nhất định phải tìm cái thân khác để thay vào,
cũng từ đây mà dòng sinh tử tiếp nối không bao giờ ngừng nghỉ. Và
cái gọi là cuộc sống cũng từ đó luân lưu trôi chảy theo nhịp vận
hành của ân duyên, nhân quả, thiện ác ... Cũng từ đó trong cuộc
đời chúng ta có rất nhiều hoàn cảnh chúng ta gặp phải, để chúng ta
thọ nhận, nếm thấy mọi thứ. Tuy rằng nhiều khía cạnh nó đưa đến
trong cuộc đời của chúng ta, nhưng tất cả cũng không ngoài ân
duyên nhân quả. Khi có ân thì có nghĩa là được ân đền nghĩa đáp,
mà khi có thù thì oán phải trả. Dầu cho thay hình đổi dạng các vấn
đề như thế nào đi nữa, nhưng cũng không ngoài ân duyên nhân quả,
thiện và ác. Cho nên, trừ những bậc Bồ tát thị hiện, còn ngoài ra
bất cứ ai có mặt trên đời này cũng đều mang theo một cái tình chấp
ngã luôn luôn có mặt trong cuộc sống. Đây gọi là cái vô minh của
chúng sinh. Do vì vô minh cho nên chúng ta không biết chỗ nào cần
dừng để mà dừng lại. Cứ như vậy mà theo nhịp đời trôi chảy, chúng
ta càng chôn vùi cuộc đời chúng ta theo dòng sông vô minh. Chỉ có
một số ít thôi, tức là các bậc Bồ Tát thị hiện trở lại cõi đời
này, hay là những ai có một nhân duyên lớn mà biết tu học thì mới
biết dừng nghỉ. Thành ra có một bài thơ nói như thế này.
-
- Ta đi vào cõi trần sa,
-
Nhặt từng hạt bụi kết hoa sen vàng.
-
Rồi đem cắm giữa thế gian,
-
Tỏa hương ngào ngạt muôn ngàn tanh hôi.
-
Ai hay trong cõi luân hồi,
-
Mà ta đã vạn muôn đời khổ đau.
-
Dừng chân vọng tiếng kinh cầu,
-
Hóa trầm giải thoát buổi sầu thế gian.
-
Chỉ có những bậc Bồ Tát vào đời, chỉ có những ai đó ngộ nhân duyên
lớn, ý thức được cuộc đời mới biết dừng lại. Còn hầu hết chúng ta
đều theo nhịp vận chuyển của dòng đời, rồi lăn lộn trong cuộc sống
luân hồi sanh tử. Do vậy mà vô minh làm duyên cho hành, hành làm
duyên cho thức ..v..v. Cứ như thế mà dẫn tới sanh già bệnh chết.
-
Quả thật, nếu chịu khó để một vài phút trong một ngày, mỗi người
chúng ta sống thật lòng với mình, chiêm nghiệm kỹ lại thì sẽ thấy
ngay mọi thứ như là:
-
- Buồn,
-
- Vui,
-
- Mừng,
-
- Giận,
-
- Thương,
-
- Ghét,
-
- Hơn thua ...
-
Tất cả những trạng thái tâm lý đó sở dĩ mà có trên đời này là vì
cái Ta của chính ta nó không được như ý, không được thỏa mãn, hài
lòng. Quả thật:
-
- Vui là vì cái Ta được thỏa mãn,
-
- Thương vì thuận với Ta nên ta thương,
-
- Ghét bởi vì nghịch với Ta nên ta ghét.
-
Rõ ràng là như thế, cho nên dù ai có chấp nhận hay không chấp
nhận, và dù cố biện luận, bào chữa như thế nào đi nữa thì sự thật
vẫn là sự thật không bao giờ thay đổi được mà cũng không bao giờ
chối bỏ được lý lẽ này.
-
Cả một cuộc đời tranh giành được mất, hơn thua, khổ nhọc tạo tác
sự nghiệp tốn hao không biết bao nhiêu mồ hôi, xương máu, có lúc
chém giết nhau, cũng vì cái ta này thôi. Rồi nào là tự ái, tự
trọng, tự tôn, tự đại, tự kiêu, tự mãn, tự hào, mặc cảm, tự ti
..v..v.. Đủ loại trạng thái tâm lý xuất hiện. Rồi từ đó nếu một ai
đụng một chút xíu vào cái Ta là chúng ta thấy không vừa lòng. Đụng
tới chỗ ngứa chúng ta không vừa lòng, đụng tới chỗ đau chúng ta
cũng không vừa lòng. Đụng tới chỗ nhột chúng ta lại càng nhảy vọt
lên nữa. Đụng tới cái tự trọng, chúng ta chửi người ta ngay, tại
vì người đó bần tiện quá. Hay là đụng tới cái tự tôn chúng ta chửi
tại sao dám ngang hàng với chúng ta. Như thế sự tự đại, tự kiêu,
tự mãn, tất cả những cái đó điều là những yếu tố tâm lý nó tạo
thành một con người rất là dễ ghét, hay làm cho chúng ta bực bội
khó chịu khi thấy thái độ kiêu ngạo của người kia. Nói cho cùng
cũng từ gốc cái Ta thôi.
-
Tự ái là bị chạm đến cái ta. Tự trọng là nâng cái ta lên thôi.
Cũng chỉ vì một cái ta mà sinh ra đủ thứ chuyện trên đời. Cũng
chỉ vì một cái ta mà anh em thù địch với nhau, chồng vợ cắn đắn
với nhau, sẵn sàng chia tay nhau vì sự tự ái. Không có cái Ta,
chắc có lẽ chúng ta, hay những con người khác trên cuộc đời này sẽ
không bao giờ giành giật, trách móc, hờn giận, báng bổ lẫn nhau.
Lúc đó chúng ta sẽ có cuộc sống rất là hòa bình, rất là tốt đẹp.
-
Thông thường chúng ta thường hay đổ lỗi cho người, cho huynh đệ,
cho hoàn cảnh, nghĩa là nếu có thể quàng lên mình người nào đó cái
lỗi gì đó, hay là cái sai nào đó là chúng ta sẵn sàng đặt lên vai
người đó liền, không thương tiếc ân hận. Hành động phản kháng, và
những hành động không biết nhìn lại bản thân của mình, là kiểu
cách trốn tránh trách nhiệm, là bảo bọc cái ta này quá kỹ. Cho nên
mỗi người hãy tự xét lại:
-
- Khi chúng ta buồn phiền, hay oán trách ai, thì phải coi là tại
vì ai mà có buồn phiền, oán trách.
-
Nhưng điều chắc chắn con người ít khi tự nghĩ lại những gì chúng
ta làm. Cho nên nếu có một sự cố nào, khi đó nếu có mặt người nào
tại đó, chắc chắn chúng ta nghĩ ngay:
-
- Tại vì cái mặt đó, hay tại vì con người đó đâm thọc cho nên tui
mới ra thân thể như thế này.
-
Hay là:
-
- Tại vì người kia mà tôi mới bị người này chửi mắn tui, người kia
chê trách tui,
-
Nghĩa là chúng ta luôn luôn không bao giờ thấy được cái lỗi của
mình. Vì thế mà chúng ta thường nói tại cái này, tại cái kia, tại
người này, người nọ, tại lý do này, tại lý do khác mà quên điểm
chính là tại vì cái Ta của chúng ta bị đụng chạm! Lo trách người
mà quên trách cái Ta này của chúng ta. Cho nên nó từng được mang
tên:
-
- Cái ta nguy hiểm! Và nguy hiểm của cái chấp Ta là ...
-
Chủ đề hôm nay là chúng ta giới thiệu đến đại chúng là:
-
- Nguy hiểm của chấp ngã.
-
Quả thật rất là nguy hiểm. Bởi vì, do cái Ta mà nó quậy rối, tạo
tác không biết bao nhiêu là cái chướng duyên, không biết bao nhiêu
cái buồn phiền. Không phải chỉ làm khổ bản thân của mình mà còn có
liên quan đến môi trường, liên quan đến cá nhân người khác, liên
quan đến trọng đại của tổ chức nữa. Cái ta của Ta nó nguy hiểm
thật. Trong Kinh Bách Dụ có câu chuyện:
-
- Thuở xưa có một lão sư có hai người đệ tử theo hầu. Vì chân ông
có bệnh không duỗi ra được, thường phải chống nạng đi, ông phải
nhờ hai người đệ tử đấm bóp, mỗi người một chân. Nhưng hai người
đệ tử này thường ngày không hòa thuận với nhau, người nào cũng
nói:
-
- Không phải là Ta chán ghét ngươi, mà chính là ngươi chán ghét
Ta.
-
Hai người coi nhau như oan gia nghiệp báo. Hôm nọ, một người có
việc đi ra ngoài phố, người ở lại nhà liền dùng búa đập gãy chân
lão sư mà người đệ tử đi vắng thường ngày xoa bóp. Khi người đệ tử
kia trở về, thấy vậy rất phẫn nộ và định tâm báo thù. Lập tức cũng
dùng chiếc búa người kia đã sử dụng đập gãy chân lão sư mà người
đệ tử ở nhà thường đấm bóp. Kết quả hai chân lão sư đều bị gãy
hết.
-
Ðọc xong, câu chuyện này ai cũng tức giùm cho vị Lão Sư kia vì lỡ
có hai thằng đệ tử ngu ơi là ngu! Chỉ vì sân hận cái mặt kia khó
chịu, cho nên nhẫn tâm đập gãy chân của người kia săn sóc, rồi
người kia trả đũa lại đập gãy cái chân còn lại. Thù oán là do hai
người đệ tử ngu dốt, chỉ vì do lòng sân hận mà không biết thương
mến nhau, nhưng hậu quả là vị lão sư lãnh đủ.
-
Vị Lão Sư là dụ cho đức Phật, hai thằng đệ tử ngu đần kia chính
không ai xa lạ mà là chính bản thân chúng tôi và quý vị đó. Là tại
vì nhiều sân hận quá, nhiều đố kỵ quá, cho nên chúng ta sẵn sàng
thanh toán nhau, bắn vào nhau những mũi tên ngôn ngữ đau đớn cay
độc nhất. Thấy chưa đủ đau thì chúng ta dùng cây dùng gậy, dùng đá
phang ném, ném cho đến khi lỗ đầu chảy máu, rồi nhìn mặt nhau
trách mắng:
-
- Tại anh, tại chị, hay là tại điều kiện nào đó mà chúng ta đánh
nhau cho bể đầu u trán ...
-
Phải biết trong giáo pháp của Phật có vô lượng pháp môn để tùy cơ
đáp ứng với chúng sanh, nếu chỉ nhắm vào sở thích, hay định kiến
của riêng chúng tôi hay quý vị thì không ai có thể chấp nhận.
Trong cuộc sống này cũng tương tự như vậy. Cho nên những điều mà
chúng ta nói ra không chắc người kia có thể chấp nhận, hay là
người kia nói ý kiến gì ra, không chắc là chúng ta chấp nhận. Vấn
đề chấp nhận hay không còn tùy theo hoàn cảnh, tâm lý, tùy theo
mọi thứ. Do vậy chúng ta không nên buồn phiền khi một người nào đó
họ không theo ý của mình, hay là chúng ta cũng đừng cảm thấy khó
chịu tại vì người kia đưa ra những nguyên tắc bắt buộc làm những
điều đó. Phải hiểu rằng tất cả những cái gì chúng ta nói, có thể
có người nghe được và có người không nghe được. Nếu nghe được thì
họ sẽ làm nếu không nghe được thì họ có quyền không làm, lúc đó
phải tự hiểu rằng những điều chúng ta nói ra rất có thể là vô lý.
Như vậy chúng ta phải tự hiểu, tự bản thân và người khác phải ghi
nhận nguyên tắc:
-
- Mọi ý kiến có thể phát biểu đề xuất ra để cho mọi người nghe.
Nếu đúng thì chúng ta hoặc người kia nghe, còn nói không đúng thì
chúng ta hoặc người kia có quyền không nghe.
-
Hiểu được như vậy, thì không có gì là buồn cả. Vì thế cách hành xử
tương đối trong đời sống hằng ngày, đừng bao giờ đặt sở thích của
chúng ta vô đó, rồi bắt người ta phải làm theo chúng ta. Mà chúng
ta phải hiểu rằng mọi việc nó phải hợp tình hợp lý, để cho đối
phương có cơ hội chấp nhận. Có tính cách hiểu biết, chúng ta phải
ghi nhận:
-
- Lời nói, và hành động của chúng ta phần lớn đều do ảnh hưởng
phong tục tập quán của mỗi miền của đất nước.
-
Do vậy nếu không chịu khó tìm hiểu để thương nhau thì chúng ta khó
có thể chấp nhận, và không thể nào hài hòa để cùng sống với nhau.
Quả thật, ở Việt Nam chúng ta thấy miền Bắc có phong tục của Bắc,
miền Trung có phong tục của Trung, Nam có phong tục của Nam. Nếu
như chúng ta không hiểu phong tục của mỗi địa phương thì chúng ta
sẽ bị hiểu lầm dài dài. Khi chúng ta không chịu tìm hiểu phong tục
tập quán của mỗi miền đất nước, thì chúng ta không thể hiểu được
hoàn cảnh của mỗi trường hợp đặc biệt. Không hiểu mỗi trường hợp
đặc biệt thì không thể thương nhau, và như thế dẫn đến tình trạng
khó có thể chấp nhận cuộc sống chung. Trái lại, nếu chúng tôi hay
là quý vị để ý tìm hiểu thì đương nhiên chúng ta không có lý do để
đả kích, không có lý do để lên án, không có lý do để đập phá cuộc
sống bình an của người khác. Tại vì chúng ta hiểu và biết được lời
nói đó do vì vô tình hay là cố ý. Nếu là vô tình thì chúng ta có
cách xử lý cho nó đẹp, nếu mà cố ý thì chúng ta cũng có cách xử
lý để cho nó trở nên bình thường. Vì không hiểu do vậy mà chúng ta
chính là hai thằng đệ tử ngu dốt trong câu chuyện mà chúng tôi vừa
kể cho quý vị nghe. Vì không hiểu nhau, không dung chứa nhau, cho
nên sẵn sàng thanh toán nhau, mà khi đã thanh toán nhau rồi thì
nguy hiểm, bất lợi, thất bại nó không phải ở nơi bản thân của hai
người mà là cho tổ chức, cho gia đình, cho xã hội. Có lẽ vì thế mà
trong bốn hoằng thệ nguyện, chúng ta phải khấn nguyện một cách sâu
sắc:
-
- Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
-
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
-
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
-
Phật Đạo vô thượng thệ nguyện thành.
-
Tại sao chúng ta lại nguyện:
-
- Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
-
Chúng ta đã biết là chúng sanh, thì phải biết người tánh này,
người tánh nọ, người tánh kia. Có người lùn, có người cao, có
người trắng, có người đen, cho nên không thể nào bắt người ta
giống chúng ta được. Khi đã có người lùn, người cao, người trắng,
người đen, thì phải có người có tánh dễ thương, cũng có cái tánh
kỳ cục. Bây giờ chúng ta nói:
-
- Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ,
-
Có nghĩa là cho dù người đó tánh dễ thương thì chúng ta độ được
thì độ. Tánh người kia có kỳ cục, khó chịu đến kiểu nào đi nữa thì
chúng ta cũng phải độ. Cho nên nói chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ. Hay nói có tính cách thực dụng hơn. Nếu các cô cậu thanh niên
lập gia đình, đã cưới hỏi với nhau thành vợ thành chồng rồi, thì
phải nên biết: Là ông chồng hay bà vợ cả hai đều có những tính
tốt, mà cũng có những tính xấu. Nếu đã vì thương cái tốt mà cưới
nhau thì cũng phải thương luôn cái xấu khi cùng chung sống. Nếu mà
phải ông chồng có tánh ngủ ngáy đến cỡ nào đi nữa, chúng ta cũng
phải thương luôn cái ngáy của ông, hay là bà vợ có dơ dáy mỗi buổi
tối không rữa chân, để chân thúi lên giường mà ngủ, thì chúng ta
cũng phải thương, tại vì đã lỡ cưới nhau rồi.
-
Câu thứ hai là:
-
- Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.
-
Là một người tu chúng ta biết rằng cuộc đời này, không bao giờ mọi
thứ mọi việc đến với chúng ta một cách êm đềm. Có nhiều khi cũng
trôi chảy, có nhiều khi cũng gặp sóng gió. Nhiều khi cũng mang đến
chúng ta những niềm vui, mà nhiều khi cũng mang đến chúng ta nhiều
cái đau khổ buồn phiền, bất mãn, chán chường. Bởi vì đặc tính của
cuộc đời, luôn luôn có những cái buồn phiền và đau khổ, nếu chúng
ta không vượt qua thì chắc chắn chết. Như vậy trong định luật sinh
tồn bất cứ giá nào cũng phải vượt qua. Cho nên bảo rằng:
-
- Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn.
-
Phiền não đến cỡ nào đi nữa, nhưng chúng ta muốn thành tựu những
cái gì mà chúng ta đang thực hiện thì cũng phải vượt qua, không
vượt qua thì chúng ta sẽ chết chắc. Cho nên chư Tôn Đức thường
dạy:
-
- Nếu mà có phải mười lần mình ngã xuống thì chúng ta phải mười
một lần đứng dậy.
-
Còn nói rằng:
-
- Pháp môn vô lượng thệ nguyên học.
-
Như chúng ta đã biết các pháp rất nhiều vô cùng vô tận, cho nên
chúng ta phải thệ nguyện, phải thực tập. Chúng ta biết pháp môn
nào cứ thực tập pháp môn đó, gặp được pháp môn nào chúng ta cũng
phải học, học cho đến nơi đến chốn.
-
Và câu:
-
- Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
-
Trong Phật đạo, quả vị Phật là quả vị cao tột, phải tu học dài lâu
mới thành đạo. Tuy nhiên nếu có tu thì một ngày nào đó chúng ta
cũng thành Phật.
-
Sở dĩ mà chúng ta không thương mến nhau, không thể sống hài hòa
với nhau, là do vì bản ngã, đó là một chướng ngại. Chướng ngại
trong cuộc sống gia đình, trong cuộc sống bất cứ ở nơi Tu Viện
nào, hay ngoài xã hội cũng vậy. Cho nên dưới ánh sáng của Bốn
Hoằng Thệ Nguyện chúng ta phải lột xác cái Ta đáng ghét để chu
toàn cho con đường tu học và phục vụ chúng sanh. Quả thật, cái
chân ông thầy đâu có tội vạ gì, nhưng vì sao đưa đến trường hợp
đau đớn như thế. Xét kỹ, chỉ vì cái ta đố kỵ mà ra. Nguy hiểm của
sự chấp cái Ta là như vậy.
-
Đã thấy được cái gốc của mọi sự phát sinh trên cõi đời là từ cái
ta mà ra. Và chính sự chấp ngã mà chúng ta tự đóng khung trong cái
vỏ chết, tự mình làm thu hẹp tình thương, tự mình làm cho mình
thiếu sức sống, tự mình cô lập không linh động uyển chuyển trong
khi làm việc, rồi cuối cùng chúng ta cảm thấy cô độc, cảm thấy
chết dần chết mòn trong vỏ cứng của chính mình. Phật gọi đó là
sống trong vô minh.
-
Là người phật tử chắc chắn chúng ta không đành cam chịu sống trong
vô minh mãi. Chắc chắn không bao giờ đành cam để chết dần chết mòn
trong cô độc. Do vậy, một khi mà ánh sáng của Phật Pháp soi đến
đâu, có cơ duyên nghe được Phật Pháp thì chúng ta phải kịp thời tu
sửa đến đó. Tu hành có nhiều cách, nhiều phương tiện gồm cả tám
mươi bốn ngàn pháp môn, nhưng căn bản để dứt sạch hết tình chấp
ngã nguy hiểm là phải nói đến:
-
- Nhân vô ngã,
-
- Pháp vô ngã.
-
a- Nhân Vô Ngã:
-
Lúc chúng ta thực tập áp dụng tinh thần nhân vô ngã, thì chúng ta
phải áp dụng đúng mức. Thí dụ như trong lúc thực tập nhân vô ngã,
nếu có ai chửi:
-
- Ê cái mặt mày tệ lắm ...
-
Thông thường nếu là tên đó thì chúng ta lên tiếng liền, và phản
ứng, giận dữ, khó chịu ... Nhưng thật sự xét cho kỹ tên đó do ai
đặt, đặt trong trường hợp nào ... Điều chắc chắn sở dĩ có tên đó
là do cha mẹ đặt lúc chúng ta chào đời, đó là nói theo thế gian.
Còn các Phật Tử đến Chùa phát tâm quy y Tam Bảo rồi các Thầy mới
đặt cho một tên pháp danh. Tất cả đều là tạm, vậy mà khi một ai
kia mà đụng tới tên đó, chúng ta nhận là tên của mình, lúc đó nhất
định phải ăn thua đủ liền. Nhưng mà thật ra tên đó chỉ là tạm đặt
để gọi chứ không phải thật là của mình. Cho nên nói nhân vô ngã
thì chúng ta phải hiểu, nếu mà ai có chửi là người đó đang chửi
nghiệp của chúng ta, đừng có nghĩ là người ta chửi cái mặt mình.
Nếu nghĩ là người ta chửi cái nghiệp mình, thì mình khoái lắm, tại
vì khi chửi nghiệp thì nghiệp của chúng ta nó giảm đi, nghiệp giảm
thì chúng ta khỏe. Biết như vậy thì chúng ta có nên để tự nhiên
nghe người ta chửi, hay sợ người ta chửi. Chúng tôi bảo đảm điều
chắc chắn không ai thích bị chửi, nhưng nếu có bị chửi có lẽ không
đến độ chúng ta phải sợ sệt. Tại vì càng chửi thì nghiệp chúng ta
càng nhẹ. Thực ra chúng ta không mong mỏi ai chửi, nhưng mà nếu có
chửi nếu có nhắc nhở đến tên, thì chúng ta phải hiểu rằng người ta
đang chửi cái nghiệp nó không liên quan gì tới chúng ta.
-
b- Pháp Vô Ngã:
-
Pháp vô ngã cũng vậy, những gì chúng ta sử dụng đây tất cả điều là
tạm, cả kể chúng ta đang ở cái nhà bây giờ đây, nhưng mà nó cũng
không thực là của mình. Bởi vì nếu mai mốt chúng ta thích cái nhà
tốt hơn, mới hơn, đẹp hơn, thì chúng ta bán nhà cũ mua nhà mới,
thì như vậy nó đâu phải của mình nữa. Nói chung là tất cả những
cái gì mà chúng ta sử dụng trong cuộc sống hiện tại đều là tạm
hết. Nắm được mấu chốt này rồi, khi chúng ta hạ thủ công phu thì
cái ta nào cũng đều phải tiêu diệt. Ai mà nói tới tên, hoặc sự
việc của chúng ta, thì chúng ta cũng không cảm thấy mất mát điều
gì. Một khi mà của không mất danh không kém đi, thì có gì để bận
tâm. Cho nên Kinh Kim Cang nói:
-
- Thông đạt các pháp vô ngã, gọi là Bồ tát.
-
Tức là:
-
- Bồ tát thì phải vượt qua nhân vô ngã và thông suốt pháp vô ngã.
Thông suốt điều đó thì gọi là Bồ Tát.
-
Bởi vì, nếu mang cái ta này mà tu hành, quyết không thể giải
thoát. Hoặc khi mang cái nghĩ này mà tu, thì chắc chắn chúng ta
phải khổ sở vì cái ngã này không bao giờ chấm dứt. Vì thế cho dù
tu đạo cao đến cỡ nào đi nữa mà còn mang cái ngã, thì cũng không
cách chi thoát khỏi sanh tử luân hồi. Tiêu biểu như ông Uất Đầu
Lam Phất là vị thầy đã từng dạy đạo cho Thái Tử Tất Đạt Đa tu sau
này thành Phật. Lúc mà Thái Tử Tất Đạt Đa mới học đạo với ông Uất
Đầu Lam Phất, ông này chứng đắc được thiền phi tưởng phi phi tưởng
định, nhưng do vì ông chấp cái ngã cho nên đến khi ông mất, do nhờ
phước báo cho nên ông sanh lên cõi trời phi tưởng phi phi tưởng
xứ, nhưng sau khi hết tuổi thọ trên cõi Trời, ông phải sinh trở
lại cõi đời làm con chồn bay. Tức là một khi còn chứa cái ngã vô
đó, thì đương nhiên là hiện tại có thể có phước có thể hưởng
phước, nhưng mà rồi đến khi hết phước chúng ta sẽ bị đọa ngay. Còn
mang cái ngã là chúng ta không thể nào dứt khoát được sanh tử luân
hồi. Bởi vậy, trong Kinh Đại Bát Nhã có dạy:
-
- Bồ tát Thường Đề vì cúng dường Pháp Sư và học Bát Nhã mà sẵn
sàng bố thí tim, gan, tủy sống cho tất cả mọi người không luyến
tiếc.
-
Có người thắc mắc:
-
- Đã bố thí tim gan, vậy lấy gì học Bát nhã?
-
Thực ra học kinh cũng vậy, hành pháp cũng vậy. Hành pháp không có
nghĩa là mình ngồi đây mà đọc kinh cho cả ngày mới gọi là hành
pháp. Hay chúng ta ngồi thiền từ ngày này sang ngày nọ. Đương
nhiên phương tiện căn bản đầu tiên của những người mới tu học điều
đó là cần. Học pháp và hành pháp như đó, là những người mới sơ cơ
học đạo thôi. Việc này khác so với sự học Kinh Bát Nhã của Bồ Tát
Thường Đề. Ngài Thường Đề không phải học trên chữ nghĩa văn tự
thông thường, tại vì khi mà chúng ta còn học trên chữ nghĩa, tức
là chúng ta căn cứ trên bản ngã để học. Do vậy khi mà giải trừ
tình chấp ngã đó là oan gia cấu kết lâu đời rồi, thì chúng ta phải
trừ nó. Cho nên học pháp không có nghĩa là chúng ta phải học từng
câu từng chữ, không phải chúng ta nhớ nhiều học rộng. Cái đó chỉ
là nghĩa hẹp để chúng ta hiểu biết thêm, hay là nói với người đời
biết rằng tôi đây có học, có hành như vậy. Nhiều khi hiểu nhiều
lại rơi vào trạng thái tình chấp ngã, nhiều khi lại trở thành cống
cao ngã mạn, thì đó là cái chướng ngại cho vấn đề tu học của chúng
ta. Do vậy mà vô minh lại sống dậy. Trong khi đó một mặt thì chúng
ta lại vượt thoát khỏi vô minh, một mặt chúng ta không biết gì là
vô minh, rồi cuối cùng chúng ta lại bị lôi cuốn trong vòng vô minh
sanh tử.
-
Phải ý thức nếu cứ cái gì cũng là của ta, thì đây là nguyên do
đang đưa chúng ta đi vào cái hố sâu của tội lỗi. Cái ta đó nó làm
cho chúng ta ngăn cách đạo bạn, không còn tình người, làm cho
chúng quay mặt với nhau trở thành thù địch, thay vì chúng ta có
thể nhìn mặt nhau cười, chia sẻ nhau những cái ngọt bùi, cay đắng.
Vì cái Ta mà chúng ta lại quay mặt chửi bới nhau, làm khổ cho
nhau. Trong Kinh Viên Giác, Phật định nghĩa vô minh rất rõ. Phật
bảo Bồ Tát Văn Thù Sư Lợi:
-
- Này thiện nam tử! Tất cả chúng sinh từ vô thỉ đến nay, nhiều thứ
điên đảo giống như người mê lạc, thấy bốn phương đổi chỗ, vọng
nhận bốn đại làm tướng tự thân, cái bóng duyên theo sáu trần làm
tướng tự tâm. Ví như người bệnh mắt thấy hoa đốm trong hư không và
mặt trăng thứ hai.
-
Này thiện nam tử! Hư không thật không có hoa mà người bệnh vọng
chấp. Do vì vọng chấp nên chẳng những lầm tự tánh của hư không
này, cũng lại mê luôn chỗ hoa sinh kia là thật có. Do đây vọng có
luân chuyển nơi sinh tử, nên gọi là vô minh. Vì chúng ta thiếu
hiểu biết, không thấy rõ vấn đề mà sống trong vô minh điên đảo,
không nhận được tình chân thật người thân của mình, chúng ta không
tiếp nhận được những thâm tình những ân ái, mà người thân đã trao
cho chúng ta.
-
Vọng chấp thân bốn đại này và tâm duyên theo sáu trần để làm ta,
đó là vô minh. Bởi nó không phải thật ta mà chấp là Ta. Chính đó
là nguồn gốc của sinh tử. Chừng nào còn bóng dáng của cái Ta, là
còn đi trong luân hồi không thể nào tránh khỏi.
-
Đã thấy rõ cái nguy hiểm của tình chấp ngã như thế rồi, đó là chỗ
chướng đạo, là che mờ chân lý! Tình chấp có khả năng đào sâu chia
rẽ tình cảm của chồng vợ, của gia đình đạo bạn, thầy trò và tất
cả. Rõ ràng nó ở ngay trước mắt đây thôi, nhưng chúng ta không
thấy, nguyên do chỉ vì chúng ta còn thấy có cái Ta của chính mình
nó to, nó quan trọng. Cho nên chúng ta còn bám víu vào cái Ta của
một trăm mấy chục pounds này thì làm sao sống yên bình với nhau
được, làm sao chúng ta có thể chấp nhận được cuộc sống chung của
những người thân, làm sao chúng ta có thể nhìn nhau với những
người đạo bạn của mình. Một ngày nào đó cái Ta đáng ghét còn ngự
trị trong tâm hồn của mỗi cá nhân, ngày đó còn có chiến tranh,
chiến tranh trong gia đình, chiến tranh trong tổ chức, tôn giáo,
và trong cộng đồng xã hội thì làm sao thấy Đạo được!
-
Hiểu rõ lẽ thật đó rồi, điều quan trọng nhất là phải ứng dụng thực
hành. Tức là phải luôn luôn soi sáng lại mình, để thấy rõ mọi chỗ,
mọi kẻ hở của cái Ta len lỏi vào và sống dậy. Phải khám phá trọn
vẹn cái Ta nguy hiểm, không nên để bóng tối mọi ngõ ngách trong
tâm hồn cho cái Ta có chỗ ẩn núp. Vì chúng ta cứ mãi lo chiếu cố
đến những lỗi lầm của người này, người nọ mà quên chiếu cố cái Ta
nguy hiểm của bản thân! Chúng ta chỉ thích nhìn mặt người kia,
nhìn mặt người nọ, chê người đó kẻ lông mày không đẹp, chê người
kia có cái môi méo xẹo, cái mũi vuốt lên ... Thấy lỗi người khác
mà quên, hoặc không thấy lỗi của tự thân.
-
Nên nhớ mọi sự sai biệt ngăn cách trong cuộc sống này đều từ cái
Ta mà ra. Cho nên tuy hai người ngồi bên nhau mà quên sự có mặt
của nhau, là vì mỗi người đang sống với một cái ta riêng trong
đầu, mà qua đó cuộc sống gia đình là một bằng chứng cụ thể. Có
nhiều khi chồng vợ ngủ chung giường, nhưng mà mỗi người theo đuổi
một ý, cho nên gọi là:
-
- Đồng sàng dị mộng.
-
Nghĩa là:
-
- Ngủ chung giường mà mỗi người thấy một giấc chiêm bao khác nhau.
-
Một khi mà hai vợ chồng không thống nhất ý chí, chồng thì nghĩ
xuôi, vợ thì nghĩ ngược, mà người Việt Nam thường hay ví von:
-
- Trống đánh xuôi kèn thổi ngược.
-
Thì ngày đó sự nghiệp không bao giờ thành tựu được, và trong cuộc
sống hằng ngày còn xáo trộn dài dài, và xa hơn nữa không biết hai
người lúc nào phải lôi nhau ra tòa ly dị!. Không có cái Ta nguy
hiểm thì không có động cơ để chia cách, mọi người chắc chắn thông
cảm, hiểu nhau, và sẽ thương mến nhau lắm.
-
Vì vậy, người học đạo phải thường nhìn lại mình, để thấy rõ tướng
Ta mê lầm của tự thân mà giải trừ, bào mòn. Đừng bao giờ nói rằng
tại cha sanh mẹ đẻ tui ra nó đã vậy rồi thì không ai thay đổi tui
được. Đừng tưởng tuyên bố dõng dạc như vậy là oai, không oai đâu.
Tuyên bố về cái gì còn là quá đáng thì huống gì tuyên bố về cái Ta
kỳ cục của mình. Nếu có tuyên bố thì nên tuyên bố:
-
- Lúc cha sanh mẹ đẻ ra đời, tui kỳ cục ghê lắm, nhưng từ khi biết
tu rồi, tui không còn những cái kỳ cục đáng ghét đó nữa.
-
Có soi lại tự thân mới thấy rõ chính chúng ta, mới khám phá những
điều còn dở, xấu để gạn lọc, tiến tu, không tự kiêu, ngã mạn. Làm
phơi bày những chỗ thiếu sót của chính mình mà lo công phu tu tập,
trau giồi sửa đổi càng ngày càng cho tốt đẹp hơn. Nên nhớ, dù là
một chút tình phân biệt không đáng kể còn bị chư tôn đức quở rầy,
còn bị nghiệp chướng, thì huống gì là giận hờn phiền não ôm ấp
trong lòng thì rất khó mà tu học.
-
Càng bị Tình Chấp Ngã che đậy, càng khó tu cho sáng được đạo.
Người tu hành là nhắm đến con đường giải thoát khổ đau. Tình Chấp
Ngã là đầu mối mọi thứ phiền não đau khổ trên thế gian này. Người
biết tu, khéo biết được giáo lý vô ngã là chúng ta không bao giờ
tiếp tay, và không thể nào nuôi dưỡng bản ngã đáng ghét này.
-
Vào đạo Phật là phải vứt bỏ cái Ta. Bỏ ít thì bớt khổ ít, bỏ nhiều
thì bớt khổ nhiều, bỏ trọn vẹn thì dứt khổ, có được niết bàn an
vui. Người tu mà còn ôm ấp cái Ta nặng nề, cố chấp không buông là
trái với con đường chúng ta đi, là quay lưng với ánh sáng giác
ngộ. Mà như thế là đi ngược lại cái nguyện vọng tha thiết của chư
Phật, Chư Tổ. Để hiểu rõ thêm về sự từ bỏ cái Ta, trong kinh có
ghi lại rằng:
-
- Xưa Bồ Tát Đề Bà để lại tấm gương vô ngã sáng ngời. Khi Ngài cảm
hóa một vị quốc vương trước đây vốn tin theo ngoại đạo. Rồi lại
dùng biện luận hướng dẫn quần chúng, đánh bại chủ thuyết của ngoại
đạo. Chỉ trong vòng ba tháng đã thắng các ngoại đạo, và độ hơn một
trăm vạn người. Trong số ngoại đạo có một đệ tử vì căm hận cho
Thầy mình bị thua, liền thề:
-
- Ngươi đã dùng miệng mà thắng phục Thầy ta, ta phải dùng dao
thắng phục ngươi. Ngươi dùng dao không làm khốn Thầy ta, ta sẽ
dùng dao thực làm khốn ngươi.
-
Một hôm Ngài Đề Bà đi một mình trong rừng vắng, gã ấy xách dao đến
bảo:
-
- Ngươi dùng miệng phá đổ Thầy ta, sao bằng ta dùng dao phá vỡ
bụng ngươi!
-
Nói xong y bèn mổ bụng Ngài. Ngài Đề Bà tuy bị mổ bụng, ruột lòi
ra ngoài nhưng mà chưa chết, Ngài vẫn thương xót kẻ ngu si kia nên
bảo:
-
- Tôi có y bát để ở đằng kia, ngươi có thể đến đó lấy, rồi hãy lên
núi gấp, đừng đi bằng đường bằng. Những đệ tử của tôi chưa chứng
được pháp nhẫn họ sẽ bắt ngươi, ngươi có thể bị bắt giải đến quan,
hay là giết chết nhà ngươi.
-
Khi các đệ tử hay tin chạy vội đến hiện trường, lúc đó rượt theo
bắt được người đã làm khổ Thầy Đề Bà, có những vị chưa được pháp
nhẫn bèn gào khóc. Ngài Đề Bà thấy vậy bảo đừng làm khổ nó để cho
nó đi. Nhân cơ duyên này Ngài khai thị cho các đệ tử rằng:
-
- Lý thực của các pháp, chính là ở chỗ không có người thọ, không
có người hại. Thân ai, oán ai, giết ai, hại ai? Kẻ bị si độc lừa
dối, mê lầm nảy sinh chấp trước mà gào khóc, trồng căn bất thiện.
Ta bị kẻ kia hại, là hại nghiệp báo không phải hại ta. Các ngươi
phải xét thận trọng, đừng đem cái cuồng đuổi theo cái cuồng, mà
hãy đem cái thương buồn cho cái tình thương!
-
Dặn dò xong, Ngài nằm xuống rồi thị tịch.
-
Theo tinh thần từ bỏ cái Ta mà Thầy Đề Bà bị ngoại đạo mổ bụng vẫn
thương xót kẻ kia, không sanh tâm thù hận, kết oán. Trong khi đó
chồng vợ thương nhau, hứa hẹn ở với nhau cho trọn đời, thế nhưng
do vì cái Ta mà làm khổ cho nhau. Trong các ngôi Chùa cũng vậy,
các huynh đệ cùng một thầy, sống chung với nhau hằng ngày, lại vì
một chút bất đồng ý kiến, vì một chút hơn kém nhau, một chút không
chìu chuộng cái Ta của chính mình, mà đành xem nhau như kẻ nghịch,
do vậy mà sẵn sàng dứt áo ra đi. Còn người ở lại cũng phải mang
tiếng, và tổ chức rối loạn lên. Phải xét kỹ lại chỗ này, phải
giải tỏa cái Ta đáng ghét và cũng nên nhận thức sự nguy hiểm của
chấp ngã. Bởi vậy, Kinh Kim Cang bảo:
-
- Quét sạch hết tâm ba thời qua khứ, hiện tại, vị lai. Trừ tận
cùng bốn tướng ngã, nhân, chúng sanh, thọ giả, tức là làm mất dấu
vết cái Ta.
-
Phải làm cho tận diệt cái Ta này, để rồi không còn cái bám víu vào
cái Ta nữa, vì biết rằng ngày nào còn bám vào cái Ta là chúng ta
còn khổ hoài. Cho nên chúng ta phải tinh tấn tu tập để tận diệt
cái Ta thì mới thật sự thể nhập thật tướng Bát Nhã, sống trong Vô
Thượng Bồ Đề. Đến đây xin kể đại chúng nghe câu chuyện:
-
- Xưa có con chim Cú mèo làm tổ chung trên một cây với chim Gáy.
Một hôm Cú mèo từ giã chim Gáy để dọn đi nơi khác, Gáy ngạc nhiên
hỏi:
-
- Bác đi đâu thế?
-
- Tôi dời nhà sang phương Tây.
-
- Sao thế? Có việc gì làm trở ngại cho bác? Tôi trông nơi đây sinh
sống dễ dàng, mát mẻ, sao bác lại bỏ đi?
-
Cú mèo buồn rầu đáp:
-
- Dân cư vùng này không ưa tui. Ai cũng ghét tui gặp tui đâu cũng
lấy cây liệng lấy đá ném, ai cũng chỉ mặt tui mắng nhiết là đồ Cú
Mèo thì làm sao tui sống được.
-
Chim Gáy dịu dàng bảo:
-
- Này bác ạ! Chỗ thân tình với nhau tôi nói cho bác nghe ... Sở dĩ
người ta không ưa bác là vì tiếng kêu của bác. Khi mà bác kêu lên
là người ta có cái cảm tưởng giống như bác đang mang tang tóc đến
cho họ. Thay vì bác đi một nơi nào đó thì chi bằng bác đổi tiếng
kêu của bác, rồi thì sống ở bên Đông cũng được bên Tây cũng được
chẳng ai ghét bác nữa đâu. Nếu sang phương Tây bác cũng kêu như
thế thì người ta cũng ghét bác thôi ...
-
Cú Mèo nghe nói, nó giận lắm:
-
- Mày dám dạy đời tao hả, cha sanh mẹ đẻ tao ra, tao đã có tiếng
gáy đó rồi, mày còn lên mặt dạy đời tao biểu tao đổi hả! Còn lâu
tao mới đổi!
-
Cú Mèo giận dữ bỏ đi đến miền Tây ở. Ðúng như lời tiên đoán của
chim Gáy, dân chúng miền Tây cũng ghét bỏ nó. Cú Mèo đâm ra hận
người, hận đời và thề:
-
- Từ đây về sau tui không thèm nhìn đến mặt loài người nữa. Tui
phải vào rừng sâu sống với thế giới của tui ...
-
Và từ đó con chim Cú Mèo bay vào thâm sơn cùng cốc, lánh xa loài
người, loài vật, mặt trời, mặt trăng ... Không còn trông thấy loài
người nữa. Nhưng mà có một điều, nơi nào có Cú Mèo xuất hiện là
nơi đó có tang tóc đến với loài người.
-
Nói tóm lại, thật ra đổi chỗ ở bao giờ cũng dễ dàng hơn sửa đổi
một số tật của tự thân. Chúng ta bỏ đi thì dễ, nhưng thay đổi tính
kỳ cục của mình rất là khó. Cho nên dầu cho chúng ta có đến nơi
nào đó cũng thế, nếu không thay đổi chứng kỳ cục của chúng ta thì
ở nơi nào người ta cũng chửi như thường. Nhưng phản ứng nhất thời
của chúng ta mỗi khi gặp trở ngại, thường hay nghĩ hay tưởng tượng
là bị bạc đãi. Hoặc khi bị người ta nhắc nhở, thì chúng ta giận dữ
bảo rằng người này thích sửa lưng tui, người kia oán ghét tui,
người này thù hận tui ... Chúng ta viện đủ lý do rồi giận dữ bỏ
đi.
-
Tâm lý thông thường, chúng ta chỉ muốn giữ lại mối tương giao nào
mà cái huyễn ngã của chúng ta được ái mộ chìu chuộng vuốt ve, và
những hành động của chúng ta được tung hô vạn tuế ... Tung hô vạn
tuế là chúng ta thích lắm, bằng ngược lại chúng ta hờn, dỗi, hận
đời đen bạc. Chúng ta chỉ biết trách người tại sao nhỏ mọn, tại
sao hẹp hòi, tại sao cứ nói móc chuyện này, soi tui chuyện kia.
Lên án đời tại vì đời đen bạc xấu xa đối với tui, rồi than rằng
sao người ta không hiểu, rằng sao mà mình cô đơn quá không ai sống
chung với mình ...
-
Vậy thì nên đổi cảnh hay đổi tâm đây?
-
Đổi tâm hơi khó, nhưng chúng ta đổi tâm được cũng nên đổi vẫn hơn.
Bởi vì chúng ta không có buồn mình, không buồn đời, không trách
người, không trách mình lúc đó chúng ta sẽ thấy yên ổn lắm. Chúng
ta thấy rằng chư vị Bồ Tát dù ở địa ngục mà vẫn sống cuộc sống hỷ
lạc. Địa ngục là nơi cực hình của những tội nhân nhưng mà chư vị
Bồ Tát vẫn vui. Tại vì các ngài đã có một thái độ hỷ lạc chấp nhận
vào nơi đó để hóa độ chúng sanh, cho nên các ngài không thấy đó là
cực hình mà còn thấy đó như ở cõi trời, như cảnh giới niết bàn.
Còn chúng ta ở giữa cảnh đời này với trăng thanh gió mát, hoa thắm
lá xanh, bụng no thân ấm mà vẫn phiền muộn. Có những cái chúng ta
không vừa lòng, bất mãn, hận đời hận người, có phải tại vì mộng
ước, hay tham vọng của chúng ta nhiều quá chăng? Nếu mà cứ nghĩ
như vậy, thì có lẽ chúng ta cứ mang cái mạng mộc của mình đi lang
thang từ nơi này sang nơi khác, dù gặp được những chốn thong dong
như cõi Cực lạc của Ðức Phật A Di Ðà đi nữa, chúng ta vẫn để cái
ngã to tướng lên bàn rồi chúng ta tự làm phiền mình và các chúng
sanh lân cận mà thôi.
-
Mong rằng tất cả mọi người phải hiểu điều này, thay đổi tâm vẫn
tốt hơn là thay đổi hoàn cảnh. Chấp nhận cuộc sống chuyển hóa tâm
của mình từ xấu trở nên tốt, từ dở trở nên hay, mỗi hành giả luôn
luôn soi sáng lại mình, để thấy rõ tường tận mọi bóng dáng cái Ta
lộ ra mà cảnh tỉnh không lầm theo. Quyết không để nó làm mờ đi ánh
sáng chánh giác. Đó là con đường tiến tu đạo chân thật.
--o0o--
|
|