TẬP SAN DƯỢC SƯ

Không Còn Mặc Cảm
Nguyên Hải
---o0o---
 
Như chúng ta đã biết thông thường tâm lý của con người, nếu không phải là đắc đạo hoặc là người có tu, có hiểu biết thì dẫu như thế nào đi nữa thì tâm tư của chúng ta cũng đều vướng vào ba khuynh hướng:
- Tự cho là cao hơn người
- Tự cho là bằng người
- Tự cho là thấp hơn người
a- Tự Cho Là Cao Hơn Người
Một khi đã có tâm lý tự cho là cao hơn người rồi, khi thấy có người bằng chúng ta thì chúng ta cũng không thích. Có người hơn chúng ta thì chúng ta lại càng không thích.
b- Tự Cho Là Bằng Người
Một khi đã có loại tâm lý nầy rồi thì chúng ta không bao giờ ngừng nghỉ mà trong thâm lúc nào cũng sợ có người hơn mình.
c- Tự Tôn Mặc Cảm:
Một khi đã có mầm mống của loại tâm lý nầy, khi thấy có người thua chúng ta thì chúng ta lại sanh tâm khinh thị, hất hủi ....
Sỡ dĩ mà có những tình huống nầy đều do trong tâm chúng ta có sự kỳ thị, sự ganh tị, sự cao ngạo, khinh thường mà ra ... Tuy rằng những tình huống nầy chỉ được thể hiện trong cung cách hành xử, có nhiều khi chỉ được biểu lộ qua lời nói, nhưng tâm của chúng ta cũng vẫn bị lay động. Nếu ta không bị lay động bởi ba mặc cảm, ba loại tư tưởng đó, thì chúng ta không còn cái ý niệm kém người, bằng người hay hơn người nữa, và lúc đó thì chúng ta không mềm yếu, hèn nhát, vô dụng.
Từ ba mặc cảm này có thể là nguyên nhân phát sinh ra nhiều khổ nạn như:
- Giận hờn, ganh ghét, ghen tuông, tủi hổ .. v..v... Chỉ cần tủi thân thôi cũng có thể đưa đến chán đời, tự tử rồi!
Do vậy nếu chúng ta biết tu và diệt trừ được ba cái mạn này rồi là đạt tới cái triÕgiác gọi là bất động, tức là không bị những mặc cảm, những giận hờn, tủi hổ và chán đời đó làm cho chúng ta khuynh động, nghiêng ngữa. Lúc đó chúng ta sẽ đứng vững như một gốc đại thụ. Chữ bất động có nghĩa là vững chãi và thảnh thơi. Bất động là một trong những thuộc tính của Niết Bàn như lời Thầy A Nan phát nguyện được biểu lộ trong bài tựa thời Lăng Nghiêm mà quý Thầy thường tụng vào mỗi buổi sáng như:
- Tâm chánh định như như bất động
Phật ba thân nhân thế khó tìm
Trăm ngàn muôn kiếp đảo điên
Vô minh dứt sạch chứng liền Pháp Thân
             Nay con nguyền chứng ngôi Chánh Giác
Ðộ chúng sanh như cát sông Hằng
Thân, tâm nát như bụi trần
Hồng ân chư Phật, chút phần báo ơn.
Lẽ tất nhiên hạnh phúc sẽ không có được nếu chúng ta còn kẹt vào trong vòng tranh chấp. Tại vì tranh chấp có thể bằng ngôn ngữ, bằng tư tưởng, mà cũng có thể bằng hành động. Trong Kinh Tam Di Đề là một bộ Kinh nói về hạnh phúc chân thật, chúng ta thấy Đức Thế Tôn chỉ giáo hóa trong phạm vi hạnh phúc. Khởi đầu Đức Thế Tôn nói về nhận thức sai lầm, ý niệm sai lầm của chúng ta về hạnh phúc. Ngài nói rằng:
- Vì chưa biết được bản chất của những đối tượng tham dục, cho nên chúng ta mới nhận lầm đó là hạnh phúc đích thực.
Nếu quán chiếu và thấy được bản chất đích thực của tham dục, thì chúng ta sẽ thấy rằng tham dục đó chỉ là những tư tưởng kéo chúng ta đi vào những nẻo đường tăm tối, luân hồi, khổ đau mà thôi. Thấy được như vậy thì không có cái vọng tưởng nào, không có một người nào có thể lôi kéo chúng ta đi theo cái ý niệm hạnh phúc giả tạo được.
Sau đó, Đức Thế Tôn dạy rằng:
- Vượt được những mặc cảm hơn người, bằng người, thua người, thì những phiền não như ganh tị, giận hờn .. v.v... sẽ tan biến, và lúc đó mới có hạnh phúc thực sự.
Chúng ta thấy ý niệm hạnh phúc không phải là vấn đề cá nhân. Bởi vì cá nhân tức là có một cái ngã, có một cái thực tại riêng biệt. Do vậy nếu chúng ta đi tìm hạnh phúc cho cái ngã riêng biệt đó, thì không bao giờ có thể tìm được. Sự an lạc của những người chung quanh phải là sự an lạc của chúng ta thì sự an lạc đó mới là an lạc thật sự. Sự sống là một, không thể chia năm xẻ bảy ra thành từng mảnh vụn, để từng mảnh vụn nầy đi tìm hạnh phúc riêng biệt như vậy. Muốn rõ hơn chúng ta phải học hỏi giáo lý Phật dạy về mạn. Trong luận Đại Tì Bà Sa của Thuyết Nhất Thuyết Hữu Bộ, cũng như trong Luận Câu Xá chúng ta thấy có ý niệm về bảy mặc cảm đó một cách rõ ràng. Học và hiểu cho tường tận, thì chúng ta sẽ thấy được hướng cư xử trong lối sống của chúng ta. Quả thật như vậy, vì khi dùng danh từ Phật học mà không biết rõ ý nghĩa đích thực của danh từ thì chúng ta dùng sai. Khi dùng sai thì thì chúng ta hành động sai, như có người nói:
- Vì tự trọng mà tôi nói chứ không phải bản ngã tôi to.
Mới nghe chúng ta cứ tưởng người nầy quả thật không có bản ngã, tuy nhiên chúng ta học Phật và suy gẫm một chút một lời nói như vậy, chúng ta thấy anh chàng đó ngã mạn quá, vì câu:
- Vì tự trọng cho nên tôi mới nói ....
Điều nầy có nghĩa là chúng ta có sự so sánh giữa chúng ta và người khác. Chúng ta là người tự trọng cho nên chúng ta không muốn ai nhắc nhở chỉ dạy cho chúng ta, ngược lại người khác không tự trọng cho nên họ không hoàn tất công việc của họ vì thế mà chúng ta phải nói cho họ biết tự trọng. Tuy nhiên cũng cách nhắc nhở, nhưng nếu phát xuất từ tâm thương người thì được, nhưng nếu sự nhắc nhở đó vì thấy chúng ta biết tự trọng, mà người khác không biết tự trọng cho nên có ý định dạy cho người kia bài học tự trọng là chúng ta đã có ý  tự cho mình là hơn người. Là người học Phật chúng ta phải hiểu rằng, cái chữ ngã mạn nó không chỉ có nghĩa cho mình hơn người mà thôi. Thua người cũng là ngã mạn, mà cho mình bằng người cũng là ngã mạn! Có tất cả bảy loại ngã mạn.
1- Mạn
Đối với những người mà địa vị, gia tài, danh tiếng, hay học thức thua chúng ta mà chúng ta có ý tưởng rằng người đó thua chúng ta, người đó học dở hơn chúng ta, người đó thuộc về hàng không quí phái bằng chúng ta, người đó không văn minh bằng chúng ta, người đó tu học chậm, chúng ta thu thập giỏi hơn, chúng ta thực tập lâu ngày hơn, chúng ta thông minh hơn, chúng ta biết nhiều ngoại ngữ hơn .. v..v... cái đó gọi là mạn. Điều này kẻ ít người nhiều ai cũng đều bị kẹt vào cả. Tư tưởng đó nó phát xuất từ ý niệm chúng ta với người kia là hai người khác nhau. Một cách vắn tắt, như đối với người cỡ tu học bằng mình, thì mình chấp rằng mình bằng, còn đối với người tu học còn yếu, mình chấp là mình hơn. 
Để xóa bỏ tình trạng Mạn, khi nào chúng ta thấy người đó là người anh em, người chị em, cùng sống với nhau, cùng thực tập trong một tăng thân, thì tự nhiên chúng ta thấy người đó là mình, mình là người đó. Những cái dở của người đó, chúng ta cũng có trách nhiệm, và những cái gì mình đã đạt tới, mình có bổn phận phải trao truyền, phải giúp đỡ người đó để cho hai người là một, cùng đi trên một con đường, thì lúc đó mình mới thoát được cái mạn thứ nhất.
2- Quá Mạn.
Quá mạn có nghĩa là đối với những người tương đương với mình, học cũng tương đương, tu tập cũng tương đương, bên tám lạng, bên nửa cân mà mình lại cho mình hơn người đó. Điều này nó cũng phát sinh từ sự phân biệt giữa mình và người là hai thực thể khác nhau. Nói cách vắn tắt:
- Như đối với cỡ tu học bằng mình, thì chấp rằng mình hơn, hoặc đối với cỡ tu học hơn, thì chấp là mình bằng.
Chúng ta thấy Hiến Chương Liên Hiệp Quốc có điều khoản Tất cả mọi người sinh ra đều đồng đẳng, đó cũng là mạn. Lúc mới nghe, chúng ta thấy câu đó rất hay, nó công nhận sự bình đẳng của tất cả mọi người. Nhưng nhìn lại cho kỹ thì nó vẫn chưa vượt được cái phân biệt tôi, với anh là hai người khác nhau, vì vậy quá mạn cũng còn nằm trong đó. Hiến Chương hay nhất là Hiến Chương công nhận rằng tôi với anh là một, chúng ta không ai hơn ai, không ai bằng ai, không ai thua ai, tại vì chúng ta là một! Đó mới là Hiến Chương theo đúng chân tinh thần của đạo Phật.
3- Mạn Quá Mạn.
Nghĩa là tranh lấy phần hơn, giả như người kia thật sự hơn chúng ta, mà cứ chấp rằng chúng ta hơn người kia, và xác định là chúng ta hơn. Chẳng hạn như đối với những người lớn tuổi hơn chúng ta, tu học trước hơn chúng ta, có tài năng hơn chúng ta, có trí tuệ hơn chúng ta mà chúng ta lại cứ cho chúng ta hơn người kia, thì gọi là Mạn Quá Mạn.
4- Ngã Mạn.
Tức là ỷ thị tài sức của mình mà khinh khi, lấn ép người khác.
Đây là mạn gốc, bởi vì nó làm phát sinh ra những nhận thức sai lầm khác. Chúng ta nhận lầm những yếu tố, sắc, thọ, tưởng, hành, thức là một cái ngã biệt lập với những yếu tố sắc, thọ, tưởng, hành, thức khác. Cho nên chúng ta thường bị kẹt trong ba ý niệm:
- Ý niệm về ngã,
- Ý niệm về ngã sở
- Và ý niệm về tương tại, tức là loại ý niệm về những vấn đề có sự tương quan với nhau để tồn tại.
Ví dụ sắc là một trong năm uẩn:
- Khi ta nói thân thể này là tôi, thì chúng ta đã bị kẹt vào ý niệm về ngã.
- Khi ta nói thân này không phải là tôi, nhưng nó thuộc về tôi, tức là chúng ta đã bị kẹt vào ý niệm dị ngã hay ngã sở.
- Trường hợp thứ ba, khi chúng ta nói thân này và tôi là cái khác nhau, nhưng trong thân có tôi và trong tôi có thân, tức là ta bị kẹt vào ý niệm tương tại.
Cả ba ý niệm đều thuộc về mạn thứ tư, gọi là ngã mạn. Kinh Tam Di Đề có đề cập tới ba ý niệm đó, nghĩa là đề cập tới mạn căn bản trong bảy mạn. Chúng ta hãy nghe trong một lần dạy La Hầu La, Đức Phật có nói như thế nầy:
- Này La Hầu La, con nên nhớ cái thân này không phải là ngã, thân và ngã không phải là một. Này La Hầu La, thân và ngã cũng không phải là hai cái khác nhau. Bảo rằng thân là ngã đó là một sự chấp ngã. Còn nếu bảo rằng thân khác với ngã thì đó cũng là một sự chấp ngã nữa. Cả hai ý niệm đều là ngã mạn mà con cần vượt thoát.
Tuy nhiên chúng ta cũng phải cẩn thận vì khi đã vượt được hai ý niệm đó rồi, rất có thể chúng ta lại rơi vào ý niệm thứ ba đó là:
- Tuy rằng thân không phải là ta và thân cũng không thuộc về ta nhưng trong thân có ta và trong ta có thân.
Ý niệm này cũng là ngã mạn và cũng cần được vượt thoát. Do vậy mà Phật lại dạy Thầy La Hầu La:
- Phải làm sao lấy đi cái ý niệm về ngã. Cái ý niệm về dị ngã, và cái ý niệm về tương tại đối với thân.
Chúng ta là người học Phật, khi biết việc nầy, thì chúng ta phải nên lấy đi cái ý niệm về ngã đối với thọ, tưởng, hành và đối với thức. Chúng ta phải biết rằng tất cả năm uẩn đều là đối tượng của phép quán chiếu về ngã. Khi quán chiếu chúng ta thấy trong năm uẩn, không có uẩn nào là ngã, và hợp cả năm uẩn lại cũng phải là ngã. Ngã cũng không phải là cái biệt lập với năm uẩn. Ngã không nằm trong năm uẩn, và năm uẩn cũng không nằm trong ngã. Chúng ta phải vượt thoát ba cái phạm trù đó của tư tưởng thì chúng ta mới thoát ra khỏi ý niệm về ngã mạn.
5- Tăng Thượng Mạn.
Ý nghĩa nầy cho chúng ta biết là khi chưa được mà nói rằng mình được. Như chưa đắc pháp thượng Thánh, mà nói rằng mình đã đắc, chưa chứng lý thượng thánh mà nói rằng mình đã chứng, đó gọi là Tăng Thượng Mạn. Đây là một trong bốn giới lớn của người khát sĩ. Ví dụ chưa chứng được quả A La Hán mà nói tôi đã chứng quả A La Hán, thì đó là tăng thượng mạn.
6- Ty Mạn.
Đem tài sức hèn mọn ra khoe. Như mình có chút ít tài năng, liền khoe rằng mình có nhiều tài, người ta không bằng mình. Mặt khác, đối với những người rất ưu tú, siêu việt như Phật, các vị Bồ Tát lớn như Bồ Tát Quán Thế Âm, Đại Thế Chí v.v... mà chúng ta có mặc cảm rằng không bao giờ mình có thể được như họ, thì mặc cảm đó là Ty mạn. Mặc cảm này là đối tượng giáo hóa của các Kinh Đại thừa.
Ngày xưa trong tăng đoàn, do vì nhân cách của Phật lớn quá, hào quang của Phật nó vĩ đại quá, thành thử các đệ tử của Ngài nghĩ rằng, mình chỉ đạt tới cái địa vị giải thoát là nhiều lắm rồi, không bao giờ mình có thể có được cái nhân cách, cái hào quang sáng chói của Đức Phật, vì vậy mà chư thánh đệ tử không có chí nguyện tu học. Họ nghĩ mục đích đi tu của mình là để bớt khổ, khỏi cần trở thành một vị đạo sư lớn như Phật. Nhận thức đó, ý nguyện đó được căn cứ trên cái mặc cảm, trên nhận thức Phật là quá ưu việt, trong khi đó chúng ta chỉ là người thường thôi và chúng ta đừng ôm ấp cái mộng đó. Vì vậy Kinh Đại thừa dạy rằng:
- Tất cả mọi người đều có khả năng tính thành Phật, và có thể giống như Đức Phật.
Trong Kinh Pháp Hoa, Phẩm Ngũ Bách Thọ Ký chúng ta thấy Phật thọ ký cho thầy Xá Lợi Phất, thầy Mục Kiền Liên, và cho tất cả các thầy Thanh Văn. Phật nói chư vị Thanh Văn cũng có thể thành đấng toàn giác như Đức Phật. Lúc nghe như vậy, mọi người rất mừng rỡ, các thầy trong đại chúng ai cũng biểu lộ sự vui mừng. Trước đó chư vị Thanh Văn mang đầy Ty mạn, không bao giờ nghĩ rằng mình có thể như Phật được!
7- Tà Mạn:
Như thiệt mình không có đức mà nói dối rằng mình có đức. Chấp trước tà kiến, không lễ tháp miếu, không kính Tam Bảo, không tụng kinh điển. Có tính cách rộng rãi hơn để chúng ta có một cái nhìn phóng khoáng về ý nghĩa của Tà mạn. Như chúng ta biết là Đức Phật thường đề cập tới giáo lý căn bản nhất của đạo giải thoát, giáo lý vô ngã. Khi quán chiếu, chúng ta thấy sự sống là một, không có biên giới, không có sự phân biệt giữa sự sống này và sự sống khác. Lúc đó chúng ta thoát khỏi cái ý niệm phân biệt giữa chúng ta và người thì tự nhiên những phiền não, những khổ đau của chúng ta sẽ tan biến đi rất nhiều.
Một cụ thể chẳng hạn như khi nghe có một người thân chúng ta bị bệnh và người thân đó có thể mất trong vòng vài tháng nữa thì chúng ta giật mình. Người vô tâm có thể nói người thân chúng ta bệnh chứ không phải chúng ta bệnh, người thân chúng ta sắp chết chứ không phải bản thân chúng ta sắp chết. Cái tai nạn, cái chết nó xảy ra cho người khác chứ không bao giờ xảy ra cho tôi. Chúng ta thường có những suy tư như vậy trong tâm của chúng ta là:
- Chỉ những người kia mới bị tai nạn xe hơi, chỉ những người kia mới bị chứng nan y, mới bị tai nạn nghề nghiệp, mới bị thiên tai bão lụt  ... còn mình thì không bao giờ bị cả.
Niềm tin, và sự suy tư đó được căn cứ trên cái ngã mạn, tức là cái ý niệm phân biệt chúng ta là khác, người là khác. Cái đó gọi là tà mạn.
Sự thật thì những điều đó có thể xảy tới cho tất cả mọi người. Tại Mỹ, theo thống kê cho chúng ta biết những quân nhân tại chiến trường Iraq ngày nào cũng chết, và những người dân tại Iraq ngày nào cũng bị bom nổ chết. Mỗi lần có một người bị giết như vậy là chúng ta chết, tại vì người đó là mình. Chư tôn đức thường nói:
- Mỗi lần có một người bị bắn ngã, tức là vũ trụ sụp đổ một lần,
Điều đó rất đúng! Bởi vì, nếu chúng ta không thương nhau, không ngồi lại với nhau để bảo vệ cho nhau, thì ngày nào đó có thể sẽ tới phiên chúng ta. Cố nhiên khi nghe tin người thân chúng ta chết, thì có sự sụp đổ trong tim của tất cả chúng ta, tại vì người thân chúng ta là một người anh em, hay chồng vợ ... là người đã từng ngồi nghe Pháp thoại, đã từng đi thiền hành với chúng ta, đã từng sống chung với chúng ta. Trong quá khứ có lúc chúng ta đã khó ôm được người thân của chúng ta, nhưng bây giờ thì chúng ta thấy rất rõ. Dầu muốn dầu không thì người thân của chúng cũng là người anh em, hay chồng vợ cha mẹ của chúng ta, và chúng ta đã từng ôm lấy người thân đó ở trong lòng. Cho nên, khi thấy được người kia là mình thì cái ranh giới giữa chúng ta và người không còn nữa, thì tự nhiên những giận hờn, ganh tị, và mặc cảm tan biến hết. Lúc đó chúng ta chấp nhận người anh em của chúng ta một cách dễ dàng hơn.
Chúng ta nên thấy rằng, khi có một người thân của chúng ta chết, nhưng còn những người thân khác đang sống bên cạnh chúng ta. Trong sự thực tập, chúng ta phải làm sao để thân cận cho được những người thân còn sống ở chung quanh ta, ngay bây giờ và ở đây, đừng đợi đến ngày mai rất có thể bị trễ. Cách thân cận hữu hiệu nhất là thấy rằng người đó là mình, người đó cần có hạnh phúc, cần được an tĩnh, cần có sự đùm bọc giống hệt như mình vậy. Một khi đã biết coi người nào cũng là chúng ta, sự ra đi của bất cứ người nào cũng là một sự sụp đổ của chính chúng ta. Thấy được như vậy, thì chúng ta có thể sống một cách an lạc, có nhiều hòa điệu với em, với chị, hay là với anh, với chồng vợ con, cha mẹ của chúng ta.
Vượt thoát những mặc cảm này, những ý niệm ranh giới về ngã này là điều căn bản của hạnh phúc. Nếu chưa vượt thoát những ranh giới đó thì hạnh phúc vẫn chưa là hạnh phúc đích thực. Chính vì thế mà Đức Phật luôn luôn nhắc nhở:
- Hạnh phúc chân thật chỉ có thể đạt được bằng sự quán chiếu, nhìn sâu để thấy rằng không có ranh giới giữa chúng ta và người.
Cái số phận, cái hoàn cảnh của cái gọi là ta và người là cái số phận chung, hoàn cảnh chung. Quán chiếu sâu sắc để thấy rằng cái ý niệm về hạnh phúc của chúng ta cái ý niệm giả tạo, cạn cợt, và chính vì những ý niệm đó mà chúng ta dấn thân vào những nẻo đường tăm tối, hôn mê.
Chúng ta thường có ý niệm về hạnh phúc này, về sắc, thọ, thọ, tưởng, hành, thức kia, những ý niệm đó thường sai lầm, và chính những sai lầm đó dẫn ta đi vào những nẻo đường tăm tối. Vì vậy chấm dứt, thoát khỏi những ý niệm, những khái niệm sai lầm mà chúng ta đã quan niệm về hạnh phúc, thì chúng ta mới hạnh phúc thực sự.
Muốn có hạnh phúc thực sự, chúng ta phải diệt trừ chúng ba mạn là lấy đi, đoạn trừ ba thứ mặc cảm:
- Bằng người, hơn người, thua người.
Lấy đi ba mặc cảm nầy, chúng ta không bị buôc ràng vào cái gì hết là chúng ta thảnh thơi. Khi còn ba ý niệm hơn người, bằng người, thua người thì chúng ta bị buộc ràng vào hơn thua hoặc bằng, vì vậy mà có những phiền não. Khi trừ được ba cái mạn đó thì chúng ta hết bị buộc ràng, lúc đó trong tâm có trạng thái vắng lặng, gọi là tịch diệt. Vắng lặng là vắng lặng về những xôn xao của suy tư:
- Ta thua người đó, ta hơn người đó, ta bằng người đó.
Như vậy chữ tịch diệt này có nghĩa là niết bàn, giải thoát. Tịch diệt cũng có nghĩa là chấm dứt. Khi chấm dứt được những cái như là sân giận, ganh tị, tranh đua, chán nản thì chúng ta xa lìa nội kết tức là những nổi khổ, niềm đau đã đóng thành từng khối trong lòng. Lúc mà không bị thu hút, không chạy theo, không có những mối ràng buộc ở trong lòng thì chúng ta gọi là xa lìa kết. Mắt thấy hình sắc là tâm có nội kết. Hình sắc ghê rợn cũng có nội kết, hình sắc êm đềm cũng có nội kết.
Từ khuynh hướng nầy, sở dĩ một anh chàng thanh niên kia cứ đi quanh quẩn qua lại ngôi nhà đó nhiều lần, tuy là không có ích lợi gì hết, mà anh vẫn cứ đi tới đi lui, đi quanh đi quẩn. Động thái nầy là vì trong lòng anh ta có một nội kết, một hình ảnh êm đềm tuyệt đẹp về người yêu. Đi cho tới ngày thấy xác pháo cưới đầy đường, đầy hết ở trước sân thì mới không đi nữa, vì anh ta tuyệt vọng. Cái sức mạnh đẩy anh chàng đó đi vòng vòng mỗi ngày là do nội kết tạo nên, một thứ nội kết êm đềm nhưng nguy hiểm.
Tuyệt hy vọng. Tuyệt có nghĩa là chấm dứt. Hy vọng là sự chạy theo, sự tìm cầu. Tuyệt chúng ta cũng có thể dịch là không còn. Hy vọng chúng ta cũng có thể dịch là nguyện. Vậy tuyệt hy vọng cũng còn gọi là vô nguyện. Vô nguyện là một trong ba giải thoát môn. Vô nguyện hay vô tác. Hai giải thoát môn kia là Không và Vô tướng. Vô nguyện tức là không đặt mình trước một đối tượng của sự tìm bắt, dầu đối tượng đó là bằng cấp, là mỹ nhân hay là danh hoặc lợi. Không chạy theo nghĩa là chúng ta không đặt mình trước một đối tượng để chạy theo. Chừng nào chúng ta không chạy theo một điều gì nữa hết, thì chừng đó chúng ta mới thực sự có hạnh phúc. Chừng nào chúng ta còn chạy theo một cái gì đó, thì chừng đó chúng ta cũng chưa có hạnh phúc. Đó là vì những điều kiện có trong hiện tại không đủ để chúng ta có hạnh phúc cho nên chúng ta phải đi tìm. Tuy nhiên, hạnh phúc đích thực là khi chúng ta không còn chạy tìm nữa. Chúng ta không cần thêm một điều kiện nào nữa, vì tất cả những điều kiện sẵn có của hạnh phúc chúng ta đã có ở đây và bây giờ. Chỉ khi nào đạt tới cái nhận thức như vậy thì mới có hạnh phúc thật sự.
Nói tóm lại, muốn có hạnh phúc thật sự, trước và trên hết là phải dẹp trừ ba tâm lý mặc cảm: Hơn, kém, hoặc bằng của chúng ta. Đây là điểm đặc biệt của Đạo Phật. Trong khi đó đạo Ca Tô Giáo, họ có giáo lý về hy vọng đã đóng một địa vị rất quan trọng trong mọi sinh hoạt của họ. Hy vọng một niềm hạnh phúc trong tương lai, cho nên người ta có nghị lực để chịu đựng cái đau khổ trong hiện tại. Ráng lên, ráng lên! Ngày mai, ngày mốt mình sẽ hết khổ mình sẽ về Nước Chúa! Do vậy mà họ có bài hát:
- Thiên đàng, thiên đàng địa ngục hai bên
Ai khôn thì nhảy, ai dại thì sa
Họ vạch rõ thiên đàng là thiên đàng còn địa ngục là địa ngục. Những ai muốn lên thiên đàng, thì phải chịu cực khổ để mà tu luyện mới lên thiên đàng:
- Đêm nằm nhớ Chúa nhớ cha
Đến khi gần chết được lên thiên đàng.
Như vậy điều căn bản của giáo lý đó là công nhận hiện tại chỉ là khổ đau, cho nên đi ngược lại với giáo lý của Đạo Phật:
- Hạnh phúc có thể tìm được trong hiện tại.
Là người học Phật, chúng ta phải biết lúc nên tuyệt hy vọng thì chúng ta phải tuyệt hy vọng, không nên chậm trễ. Mới nghe nhiều người cứ tưởng tuyệt hy vọng rồi thì cuộc đời xơ xác tiêu điều không còn gì cả. Xin nhắc lại, tuyệt hy vọng là vô nguyện là một điều rất đặc thù của đạo Phật. Quả thật, các tôn giáo khác thường treo cái hy vọng để tìm kiếm một tương lai, trong khi đó Phật dạy ta phải chấm dứt cái đó, phải trở về khai thác mảnh đất hiện tại cho thật sâu sắc. Ly kết tuyệt hy vọng! Tức là xa lìa nội kết, chấm dứt tất cả những hy vọng thì chúng ta sẽ có có hạnh phúc. Danh từ rất mạnh, lối dùng chữ rất là hùng vĩ!
Làm được những điều đó thì chúng ta sẽ không thấy mình trôi nổi, vào ra, bập bềnh trong cõi nhân và cõi thiên. Không phải chỉ trong một đời mà là cả trong tương lai mình, không còn là con người đi lang thang, luân hồi nữa. Bởi vì không phải trong cõi người chúng ta mới bị hệ lụy, mà trong cõi trời ta cũng bị hệ lụy luôn. Hệ lụy là vì sự chạy tìm của chúng ta, vì những phiền não như sân hận, ganh tị, thèm khát, giận hờn trong con người của chúng ta. Những cái đó được chuyển hóa là nhờ ở sự thực tập diệt trừ những ý niệm, vọng tưởng sai lầm về hạnh phúc, về thực tại, trong đó có danh và sắc. Khi đã không còn mặc cảm:
- Hơn, kém bằng
Là những ý niệm sai lầm về thực tại, vượt được những ý niệm về ngã, giải thoát khỏi những sợi dây ràng buộc thì tự nhiên chúng ta đạt tới giải thoát, và không còn thấy mình quanh quẩn, luân hồi, khổ đau trong cõi Người và cõi Trời nữa.
--o0o--