|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Rằm Tháng Bảy
-
Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
-
--o0o--
-
-
I. Ý Nghĩa
-
Rằm tháng bảy theo
tục lệ nhân gian Việt Nam gọi là ngày xá tội vong nhân. Ngày rằm
tháng bảy có nhiều ý nghĩa:
-
Thứ nhất, ngày Phật
hoan hỷ. Ngày rằm tháng bảy gọi là ngày đức Phật hoan hỷ, bởi lẽ
trong thất chúng đệ tử của Phật, Chúng Tỷ-kheo là Chúng đệ tử
gần gủi nhất, Chúng thừa đương Phật pháp để truyền bá giáo hóa
cho chúng sinh, Chúng mang hình dáng của Phật làm gương mẫu ở
thế gian, Chúng mà trong ba tháng an cư kiết hạ đã viên mãn và
kết thúc vào ngày rằm tháng bảy âm lịch. Thông thường, khi chư
Tăng thọ giới pháp xong là tu niệm, nhưng vì Phật sự đa đoan nên
sự tu niệm ấy không được chuyên cần bằng ba tháng an cư. Ba
tháng an cư theo Luật Phật chế, Chúng Tỷ-kheo phải cấm túc ở
yên, hạn chế tối đa sự đi lại, một là vì phong thổ Ấn Độ lúc bấy
giời mùa hạ là mùa mưa, các loại côn trùng sinh sản ra nhiều, mà
chúng Tăng đi khất thực sẽ dẫm đạp lên nhiều loại côn trùng, làm
tổn thương đến lòng từ bi tế vật. Thứ hai là, chúng Tăng đi khất
thực thì y, áo, bình bát sẽ bị thấm ướt, mất trang nghiêm, nên
thế gian có phần chê trách. Vì vậy, nên đức Phật dạy Chúng
Tỷ-kheo trong ba tháng mùa mưa phải cấm túc an cư, hạn chế việc
đi ra ngoài để tập trung vào sự tu niệm, củng cố sự sống trong
thanh tịnh hòa hợp, cảnh tỉnh thân tâm để tinh tấn trong con
đường đạo hạnh. Cho nên một khi đệ tử của Phật tu hành trong ba
tháng viên mãn thanh tịnh, kết thúc ba tháng an cư, đức Phật vui
mừng lắm. Mừng cho đệ tử của mình đã hoàn thành ba tháng an cư
thanh tịnh, cho nên gọi là ngày Phật vui mừng.
-
Thứ hai, ngày Tăng Tự
tứ. Ngày chúng Tăng sau ba tháng an cư tu tập nghĩ rằng: Tuy
mình đã gắng tu như thế nhưng không chắc đã tránh hết lỗi lầm,
nên ngày rằm tháng bảy cùng nhau tập trung lại, cầu mong những
vị có giới đức thanh tịnh hơn mình chỉ lỗi lầm cho. Nếu mình tự
thấy mắc phải lỗi lầm đó, phải phát lộ sám hối. Đó là một việc
hết sức đặc biệt trong ngày Tự tứ.
-
Thông thường, mỗi khi
có lỗi là tìm cách né tránh, tìm cách che dấu kẻo sợ người khác
biết thì xấu hổ, hoặc sợ nếu biết lỗi của mình thì lần sau mình
không làm lại được nữa, cho nên thường thường là che dấu, không
bộc lộ, trừ khi có ai hỏi đến, kẹt lắm mới nói tới có phạm, có
vấp lỗi nọ lỗi kia. Hoặc giả, có phát lộ sám hối chăng thì cũng
phát lộ âm thầm trước ngôi Tam Bảo, chớ ít khi công khai nhờ
người chỉ lỗi cho mình ra giữa Đại chúng. Nhưng theo đạo Phật,
ba tháng hạ an cư xong rồi, đức Phật dạy hàng Tỷ-kheo phải cầu
người khác chỉ lỗi cho mình, nghĩa là không phải để đợi người
khác chỉ mà tự mình phải cầu người khác tự do chỉ cho, mình phải
đối trước người đó mà thưa: "Thưa Đại đức, ngày nay chúng Tăng
Tự tứ, tôi cũng Tự tứ, tôi có điều gì sai phạm mà Đại đức thấy,
nghe hoặc nghi, xin Đại đức thương xót chỉ cho, nếu tôi thấy có
phạm thì xin như Pháp sám hối." Nói như vậy ngầm ý rằng: Tôi
không phàn nàn, không thắc mắc và tôi không có oán trách chi Đại
đức hết! Đó chính là ý nghĩa mà mình phát tâm cầu mong được
thanh tịnh, không có chút nào che dấu, thành tâm cầu người khác
tự do nói không e dè chi hết, nếu thấy có lỗi thì cứ chỉ cho. Đó
là một thái độ rất cao thượng cởi mở để làm cho mình hết sạch
tội lỗi. Vì vậy trong ngày đó gọi là ngày Tăng Tự tứ. Tự tứ
nghĩa là cầu người khác không ngần ngại chỉ lỗi mình ra, để cho
mình biết mà sám hối, nên gọi là Tăng Tự tứ.
-
Thứ ba, ngày Tăng Thọ
tuế. Thọ tuế là nhận tuổi. Theo thế gian, nếu cha mẹ sinh ra đủ
năm 12 tháng thì mới gọi là tròn một tuổi. Nhưng trong Luật Phật
chế, hàng xuất gia thọ giới của đức Phật không tính tuổi theo
năm tháng kiểu thế gian trên -- mà tính tuổi theo hạ lạp. Nghĩa
là năm nào có an cư kiết hạ được trọn vẹn thì được tính một
tuổi. Thí dụ: Vị nào an cư kiết hạ từ 15-4 âm lịch đến 15-7 âm
lịch là mãn hạ, như vậy được tính một năm hạ, tức một tuổi hạ.
Ai đã thọ Cụ túc giới nhưng không an cư thì không tính tuổi hạ,
còn ai kiết hạ an cư liên tục thì được tính nhiều tuổi hạ.
-
Cho nên chúng ta
thường nghe ở các chùa khi đọc tiểu sử của một vị Tăng nào viên
tịch, thường nhắc đến tuổi đời và hạ lạp. Thí dụ vị đó 80 tuổi
đời và 60 hạ lạp, nghĩa là vị đó có tuổi cha mẹ sinh là 80 năm,
còn tuổi hạ là 60 hạ lạp. Hạ lạp được tính và ngày rằm Tự tứ,
sau khi đã tu hành tròn ba tháng hạ. Tuy nhiên, cũng có trường
hợp, đúng theo Luật Phật chế, 20 tuổi thì được thọ giới Tỷ-kheo,
nhưng vì thiếu duyên, có vị 25 tuổi mới thọ giới Tỷ-kheo và sau
khi thọ giới mỗi năm đều có kiết hạ. Nếu vị ấy viên tịch vào
tuổi 70, thì vị ấy được 45 tuổi hạ và 70 tuổi đời. Nếu một vị
Tỷ-kheo thọ giới rồi mà không an cư lần nào cả thì coi như vị ấy
hoàn toàn không có tuổi hạ, khác với cha mẹ sinh ta ra, dù ta có
làm hay không làm gì đi nữa hoặc giả có ngủ cả năm đi nữa thì
tròn một năm cũng vẫn được tính tuổi từng năm một. Trái lại, vị
Tỷ-kheo thì phải có kiết giới an cư thì mới nhận tuổi, còn không
an cư, thì không tính hạ lạp cũng gọi là giới lạp, pháp lạp. Đó
là ý nghĩa của ngày Phật hoan hỷ, Tăng Tự tứ và Tăng Thọ tuế.
-
Thứ tư, ngày Vu Lan
xá tội vong nhân. Vu Lan là ngày cầu siêu độ cho tiền nhân quá
cố của người con Phật. Tích Vu Lan bắt nguồn từ việc báo hiếu
của Tôn giả Mục-kiền-liên. Tích này được chép trong kinh
Vu-lan-bồn. Chữ Vu-lan-bồn phiên âm từ chữ Sanskrit (Phạn) là
Ulambana. Người Trung Hoa dịch nghĩa là Giải đảo huyền (Giải cái
tội bị treo ngược). Câu chuyện trên ý nói rằng, những người nào
tạo tội ác thì phải thọ quả báo nơi địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh,
chịu sự hành hạ thống khổ cùng cực giống như người bị treo
ngược. Nghĩ đến công ơn cha mẹ, khi ngày Vu Lan đến, Phật tử
thường đem tâm chí thành, chí hiếu sắm sửa vật dụng cúng đường
Tam Bảo để cầu nguyện cho thân nhân, tiền vong của mình thoát
khỏi cảnh khổ đau cùng cực y như giải tội bị treo ngược.
-
Như vậy, ngày Vu Lan
là ngày của Phật tử đền ơn đáp nghĩa bằng cách đến chùa cầu
thỉnh chư Tăng sau ba tháng ăn cư thanh tịnh, chú nguyện cho
vong nhân của mình thoát khỏi cảnh đọa đày tăm tối của địa ngục,
ngạ quỉ và súc sinh, đồng thời cầu nguyện cho tất cả người khác
cũng thoát khỏi tội khổ đau cùng cực như Tôn giả Mục-kiền-liên
đã làm khi cứu mẹ.
-
II. Tích
Mục Kiền Liên Cứu Mẹ.
-
Tôn giả Mục-kiền-liên
là vị đệ tử xuất chúng của đức Phật. Tôn giả đã chứng được Lục
thông:
-
Thiên nhãn thông:
Được con mắt như mắt trời, thấy khắp tất cả.
-
Thiên nhĩ thông: Được
lỗ tai như tai trời, nghe thấy khắp tất cả.
-
Tha tâm thông: Với
tâm của mình biết được tâm của người khác muốn gì, ưa gì.
-
Túc mạng thông: Là
biết đời trước của mình ...
-
Thần túc thông: Được
thần thông đi dưới đất hay bay trên không đều tự tại vô ngại.
Cũng gọi là Thần cảnh thông.
-
Lậu tận thông: Dứt
trừ mọi lậu hoặc, vượt thoát ra khỏi vòng sanh tử.
-
Ngoài ra Tôn giả còn
chứng được tuệ nhãn (trong ngũ nhãn là nhục nhãn, thiên nhãn,
tuệ nhãn, pháp nhã và Phật nhãn) tức là con mắt, thấy được sự
vật và tự tính của nó. Chúng sinh chỉ có con mắt thịt, chỉ thấy
những cái trước mắt, vừa tầm, còn những cái xa quá, nhỏ quá, lớn
quá không thấy được. Khi Tôn giả chứng được lục thông và tuệ
nhãn liền nhớ đến cha mẹ mình, Tôn giả dùng tuệ nhãn nhìn khắp
bốn phương, xem vong mẫu của mình hiện đang ở đâu? Khi thấy vong
mẫu của mình đang ở trong loài ngạ quỷ hết sức đau khổ và đói
khát, Tôn giả buồn bã vô cùng. Tôn giả liền bưng bát cơm đến
dâng mẹ, nhưng mẹ Tôn giả vì tâm xan lẫn từ kiếp trước quá nặng
nề khởi lên, sợ người khác trông thấy mà đến giành giựt hoặc xin
bớt, cho nên bà một tay che bát cơm lại, một tay bốc ăn. Nhưng
cơm chưa tới miệng đã hóa thành than lửa không thể nào ăn được.
Tôn giả thấy vậy, vô cùng đau xót, không biết làm sao cứu vớt mẹ
được, bèn về bạch với đức Phật. Ngài dạy: Tội lỗi của mẹ ngươi,
dù có thần thông phép lạ của hàng thiên thần địa kỳ cũng không
cứu được đâu! Duy chỉ có dùng thần lực của chúng Tăng sau ba
tháng an cư, tinh tấn tu hành thanh tịnh tập trung chú nguyện
cho, may ra mới chuyển hóa được nghiệp lực của mẹ ngươi, thì mẹ
ngươi mới được thoát khổ cảnh mà thôi.
-
Nghe vậy, Tôn giả
Mục-kiền-liên thưa với đức Phật: Bạch Thế Tôn, con nay làm sao
mà mời chư Tăng mười phương cúng dường một lúc như vậy được? Đức
Phật dạy rằng: Trong ngày Vu Lan là ngày Tự tứ của chư Tăng, ông
nên sắm các thứ cúng dường chư Tăng trong ngày Tự tứ, ngày đó
dầu các vị trong thiền định, hay thọ hạ kinh hành, hay hóa độ
nhơn gian, cũng tập trung lại để Tự tứ và cầu nguyện cho mẹ
ngươi, thì mẹ ngươi sẽ được thoát khổ, rồi Tôn giả thực hành
theo lời dạy của đức Phật và chính trong ngày đó, mẹ Tôn giả
thoát được cảnh ngạ quỷ mà hưởng phước báu chư Thiên.
-
Do vậy, Tôn giả hết
sức vui mừng và thưa với đức Thế Tôn, nếu sau này có chúng sanh
nào muốn phát tâm hiếu để mà cầu nguyện cho cha mẹ thoát khổ
được vui thì có làm như con được không? Đức Phật dạy là có thể
làm được trong ngày Tự tứ. Do đó, mà trong Phật giáo truyền lại
một Pháp cứu độ cho tiền nhân trong ngày Tăng Tự tứ.
-
Tôn giả Mục-kiền-liên
làm như vậy đã nêu một tấm gương chí hiếu lớn lao cho tất cả
Phật tử noi theo muôn đời. Tôn giả không những có hiếu trong đời
Phật hiện tại mà Tiền thân Ngài cũng đã là một người con chí
hiếu. Trong một Tiền kiếp, Tôn giả sinh trong một gia đình nông
dân. Cha mẹ chỉ có Tôn giả là con trai độc nhất, nên vô cùng
thương yêu chiều chuộng, và Tôn giả cũng thương yêu cha mẹ không
kém. Tôn giả biết cha mẹ chỉ sinh có một mình Ngài là con duy
nhất, Tôn giả nghĩ đến ngày cha mẹ tuổi già, không biết trông
cậy vào ai, nên Tôn giả nguyện ở độc thân suốt đời để phụng thờ
cha mẹ, chứ không muốn lập gia đình. Nhưng trong khi đó cha mẹ
lại vì thương con không muốn con ở như vậy, sợ con cô độc, sau
này không có ai giúp đỡ lúc trở về già, nên luôn luôn ép con lập
gia đình. Trước sự thúc ép ấy, Tôn giả đành chiều ý cha mẹ.
-
Không may khi lập gia
đình, Tôn giả gặp một người vợ không tâm đầu ý hiệp, nàng ta
không phải là mẫu người phụ nữ thuần lương. Lúc mới cưới nàng
về, Tôn giả dạy vẽ cho vợ thay mình hầu hạ cha mẹ hôm sớm, cơm
nước dâng lên cha mẹ đầy đủ như khi Tôn giả vẫn thường làm. Lúc
đầu người vợ ngoan ngoãn tuân theo, nhưng một thời gian sau nàng
tỏ ra lạnh nhạt và thờ ơ với cha mẹ chồng. Vì lẽ, thói thường
con trong ruột sinh ra đôi khi còn chưa thương cha mẹ ruột một
cách hết lòng huống gì là con dâu, làm sao thương ông bà gia như
thương cha mẹ ruột! Ngài vì sinh kế phải đi làm ăn, nàng ở nhà
càng tỏ ra chểnh mảng trong việc hầu hạ cha mẹ chồng. Khi đã
chểnh mảng, muốn từ bỏ thì phải tìm kế, lập mưu. Một hôm, Tôn
giả đi làm về thấy nước đổ lênh láng giữa nhà và hỏi nước đâu
vậy? Người vợ bèn chỉ vào ông già mà nói rằng: Ông chướng quá,
tôi bưng nước lên dâng ông, ông vung văng, chê nước nóng nước
lạnh không chịu uống rồi vung tay đổ cả ra giữa nhà như vậy đó,
tôi chịu hết nổi!
-
Rồi một bữa khác, Tôn
giả đi làm về thấy cơm vãi ra giữa nhà và hỏi: Cơm đâu vung vãi
ra đầy nhà như vậy? Người vợ liền chỉ vào bà già trả lời, bà đó,
bà chướng quá, tôi nấu cơm để cho nguội, xới dâng lên cho bà,
nhưng bà chê cơm trưa cơm sớm rồi vung vãi ra cùng nhà như vậy
đó, tôi chịu hết nổi! Cứ một điệp khúc ấy bà vợ tỉ tê mãi, riết
rồi chồng cũng phải xiêu lòng nghe theo. Tôn giả nghĩ rằng như
thế thì cha mẹ mình quá chướng nên nói với vợ: "Thôi được, ta sẽ
có cách"!
-
Hôm sau, Tôn giả thuê
một chiếc xe ngựa, nói dối với cha mẹ rằng, mấy lâu nay cha mẹ
không về thăm Từ đường bên ngoại, nay mời cha mẹ về thăm một
chuyến, để sau này già yếu có nhắm mắt cũng khỏi ân hận. Cha mẹ
nghe có lý nên đồng ý đi. Tôn giả cầm dây cương cho xe ngựa lên
đường, khi đi đến một đoạn vắng, đường gồ ghề, Tôn giả nhảy
xuống ngựa và nói dối với cha mẹ hãy cầm cương hờ để con đi sau
bảo vệ kẻo chỗ này cướp bóc nhiều lắm. Nhưng thật ra, Tôn giả
chẳng bảo vệ gì, mà cốt ý lấy roi quất vào cha mẹ mà nói: "Đã
chừa chưa? hết chướng chưa? hết chướng chưa?" Dẫu bị đánh như
vậy, nhưng cha mẹ không nghĩ là mình bị đánh mà lại chỉ nghĩ đến
con, mà la lên: "Con ơi, lo chạy đi kẻo nó đánh chết, lo chạy đi
con ơi!" Chính trong khi bị đánh mà cha mẹ không nghĩ đến mình
đau lại cứ nghĩ con bị đánh chết mà la lên, nên hai chữ con ơi,
khi ấy nó đã đánh thức Tôn giả. Khiến Tôn giả nghe hai tiếng đó
nó thiêng liêng, mặn nồng, tha thiết trìu mến và thắm thiết một
cách lạ kỳ. Tôn giả sực tỉnh ra là mình bất hiếu quá sức! Cha mẹ
thương mình như vậy mà mình lại bất nhân, thiếu đức, nên Tôn giả
liền hồi tâm và vội vã cho xe quay về và sám hối cha mẹ. Khi về
tới nhà Tôn giả quyết định cho vợ về quê của nàng và nguyện sống
ở độc thân như vậy suốt đời với cha mẹ. Đó là một tiền kiếp của
Tôn giả.
-
Còn kiếp hiện tại,
Tôn giả có tên là Mục-kiền-liên, một người con chí hiếu, muốn
thực hiện sự báo hiếu cho cha mẹ mà lúc ở nhà chưa thực hiện
được. Nên trong đời sống xuất gia, Tôn giả quyết tâm thực hiện
để đưa cha mẹ mình đến cảnh an vui.
-
Câu chuyện của Tôn
giả Mục-kiền-liên trong quá khứ và hiện tại như vậy là một bài
học cho chúng ta, cho những người con còn biết có mẹ có cha.
Phần nhiều ai cũng có lòng hiếu với cha mẹ, nhưng vì không được
un đúc, nhắc nhở, không gặp thầy hay bạn tốt nên có khi tâm bị
lung lay trở thành bất hiếu. Có trường hợp bất hiếu vì nghe theo
bạn ác, có khi nghe theo danh lợi, quyền thế, nghe theo cờ bạc,
rượu chè, hoặc có khi làm nên ông này bà nọ rồi lên mặt với cha
mẹ, anh em, coi thường bà con cô bác, láng giềng mà trở thành
bất hiếu. Chẳng hạn có một anh nọ gặp may trở thành một quan
chức lớn. Lúc đó chưa có xe đưa rước, về nhà cha mẹ nói đâu dạ
đó. Nhưng khi làm một chức quan to rồi thì không thèm dạ như xưa
nữa sợ mất thể diện ông quan. Như vậy là vì nghe theo quyền thế
mà trở nên bất hiếu.
-
Lại có người mù quáng
học đòi theo thói văn minh vật chất tự do ích kỷ, mà không biết
đến văn minh đạo đức hiếu để cho nên trở thành bất hiếu.
-
Như vậy, sự tích của
Tôn giả Mục-kiền-liên là một gương quí nhắc nhở chúng ta vun bồi
lòng hiếu thảo của mình, đừng để lòng hiếu thảo bị các thứ khác
làm vẩn đục, làm cho mù quáng, mà đánh mất đi. Trong kiếp quá
khứ, Tôn giả Mục-kiền-liên thiếu cảnh tỉnh nên trở thành bất
hiếu chỉ vì nghe theo lời vợ. Trong xã hội xưa cũng như nay, có
những người con rất có hiếu với cha mẹ, nhưng khi chung đụng với
xã hội, gặp hoàn cảnh không tốt, ít thân cận bạn hiền, bị tác
động bởi sự xấu xa nên khi trở về nhà, cha mẹ nói không nghe,
anh chị khuyên bảo không chịu, lại còn cãi lại, cha không hiểu
chi, mẹ không biết chi, còn mình đây mới hiểu, mới sáng suốt,
mới có học. Đó là một thái độ thiếu cảnh tỉnh nên bất hiếu.
-
Do đó, cho nên ai có
gần gũi bạn lành, lo tinh tấn tu niệm thì mới trở thành nhũng
người con có hiếu. Trong Kinh Trường A-hàm, đức Phật có chỉ cho
chúng ta cách báo hiếu tốt nhất là: Nếu gia đình nào có những
người con mà biết Bố thí, biết Ái ngữ, biết Lợi hành và biết
Đồng sự thì cha mẹ mới nhận được sự hiếu kính của con. Nếu người
con nào không biết Bố thí, không biết Ái ngữ, không biết Lợi
hành và không biết Đồng sự thì cha mẹ không hưởng được sự hiếu
kính của con.
-
Thứ nhất là bố thí.
Kinh A-hàm dạy người hiếu kính cha mẹ là người biết tu hạnh Bố
thí. Người biết bố thí thì luôn luôn đem tâm hoan hỷ bố thí cho
mọi người, dù chỉ là một nụ cười, một cử chỉ cung kính. Nụ cười
ấy, cử chỉ cung kính ấy, sự dịu dàng ấy, cách ăn nói ôn hòa ấy
là của mình, nhưng nếu mình không làm, không thể hiện là không
có bố thí. Khi mình làm và thể hiện thì sẽ đem an vui đến cho
mọi người, chứ không nhất thiết phải hạn cuộc ở bố thí tiền bạc.
Đôi lúc một nụ cười khiến cho người ta tiêu tan đau khổ, trong
khi mình đem một túi tiền cho họ chưa chắc họ đã hết đau khổ.
Như vậy, người con biết bố thí thì cha mẹ mới hưởng được sự hiếu
kính của con, còn nếu con chỉ biết quí tiền của, xan tham, chỉ
muốn bòn rút của cha mẹ, thì chắc chắn cha mẹ không hưởng được
sự hiếu kính của con.
-
Đã có trường hợp như
sau. Một bà mẹ thiếu thốn, già yếu, người con không thèm hỏi
tới. Khi mẹ đau ốm mặc kệ, ăn ngủ không được cũng chả hề quan
tâm. Người mẹ buồn chán đi ở với bà con hàng xóm. Hàng ngày, bà
đi bán nước chè và đi mót lúa giành dụm mua được tấm vé số, khi
dò may sao bà trúng. Khi nghe mẹ trúng số thì người con lật đật
tới nói với mẹ: "Thôi mẹ về ở với con cho vui, con ở xa nhớ mẹ,
đêm hôm đau ốm không ai lo cho mẹ!" Như vậy người con khi thấy
mẹ thiếu thốn không có thì hất hủi, khi thấy mẹ có rồi thì hỷ
hả, vì sao? Vì người con thiếu tu, xem của cải, miếng ăn nặng
hơn ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Cho nên trong một gia
đình, nếu vì tâm bỏn xẻn, anh em giành nhau, nghi nhau, không có
tâm bố thí thì cha mẹ sẽ không hưởng được sự ích lợi từ con cái.
Và ngược lại, con cái có tâm bố thí thì sẽ đem lại an lạc cho
cha mẹ. Đó là lợi ích của bố thí.
-
Thứ hai là ái ngữ. Ái
ngữ là một điều hết sức cần thiết, nó cũng rất dễ làm mà cũng
rất khó làm. Ái ngữ là nói dịu dàng, thân ái. Có người cho rằng:
Lời nói dịu dàng có chi đâu mà khó làm. Thế nhưng khó vô cùng,
nếu không tu không thể nói ái ngữ được, như câu chuyện sau đây:
-
Ngày xưa, một người
chỉ nuôi sống gia đình với một con ngựa đi chở thuê, nhờ nó mà
hàng ngày gia đình có ăn có mặc. Ngày kia, người ta đem đồ đến
thuê chở trễ quá, anh ta nóng lòng chờ đợi đến chiều mới có đồ
người ta thuê chở về. Sẵn bực tức trong lòng, nên vừa bỏ đồ lên
xe ngựa, anh liền đánh con ngựa một cái và nói: Đồ nhãi ranh,
đi, đi, đồ ăn hại, đồ chết bằm. "Nghe vậy, con ngựa ì ra đó,
không đi, đánh mấy cũng cứ ì ra đó. Anh đành chịu và xuống xe.
Một hồi sau, cơn nóng giận trôi qua, anh dịu dàng đến vuốt ve
con ngựa, âu yếm nói với nó: "Thôi gắng đi đi con, còn ít giờ
nữa là về nhà, giúp ta chở về nhà đi con". Con vật nghe vậy, nó
nhẹ nhàng dùng sức kéo chiếc xe đi ngay. Con vật mà cũng biết
được giá trị của ái ngữ huống chi là người ta. Do đó, đối với
cha mẹ, ta phải dùng ái ngữ, nếu không sẽ trở thành bất hiếu.
-
Thứ ba là lợi hành.
Lợi hành là làm việc lợi ích. Khoan nói lợi ích cho xóm làng,
cho xã hội mà nói lợi ích cho mình, cho gia đình mình. Có những
người con coi việc gia đình mình như việc ai đâu, không liên
quan đến mình, không thèm sờ tay tới, thậm chí như bưng chén
nước chén cơm cho cha già mẹ yếu cũng không hề làm tới. Đó là
những việc lợi hành mà không làm, không làm như vậy thì cha mẹ
làm sao hưởng được sự hiếu kính của con!
-
Thứ tư là đồng sự.
Cùng làm chung với nhau, cùng làm lụng đồng sự với nhau, gây cảm
tình thương yêu vui vẻ lẫn nhau, còn không thì không làm sao gây
tình cảm hiếu kính với cha mẹ được. Cho nên Phật dạy một cách
thấm thía rằng: Người nào biết Bố thí, Ái ngữ, Lợi hành và Đồng
sự thì cha mẹ mới hưởng được sự hiếu kính của người con.
-
Như vậy, báo hiếu cha
mẹ bằng cách biết công ơn cha mẹ sâu dày như non cao bể cả, mà
tiền nhơn của chúng ta đã nhắc tới:
-
"Công cha như núi
ngất trời,
-
Nghĩa mẹ như nước ở
ngoài biển đông,
-
Núi cao biển rộng
mênh mông,
-
Cù lao chín chữ ghi
lòng con ơi".
-
Tiền nhân
chúng ta nói thiết tha lắm; cù lao chín chữ ghi lòng con ơi, cốt
ghi chín chữ cù lao là chúng ta có hiếu rồi. Nhưng báo hiếu cha
mẹ bằng hình thức chưa đủ mà còn phải báo hiếu bằng tinh thần.
-
Trong kinh đức Phật
dạy rằng: Cha mẹ chưa an trú trong Chánh Pháp, làm sao giúp đỡ,
dắt dẫn cha mẹ an trú trong Chánh Pháp, cha mẹ chưa an trú trong
điều Lành thì làm sao cho cha mẹ an trú trong điều Lành, cha mẹ
chưa Quy y Tam Bảo thì nên đưa cha mẹ an trú trong Quy y Tam
Bảo. Như vậy, cha mẹ không những hưởng được phúc lạc vật chất
bên ngoài mà còn hưởng được phúc lạc trong tâm hồn, giải thoát
bớt phiền trược, xa lánh được thế gian chấp trước, vọng tưởng
luân hồi sanh tử, mà đức Phật đã nhắc nhở. Khi cha mẹ giải
thoát, an vui thì sự báo hiếu của người con mới thành tựu. Nên
cổ đức có câu: "Phụ mẫu đắc ly trần, hiếu đạo phương thành tựu".
(Cha mẹ được giải thoát, lìa khỏi trần ai thì người con mới tròn
hiếu đạo).
-
Là người Phật tử, hãy
ghi nhớ lời Phật dạy như vậy để hàng ngày tu niệm, hàng ngày hồi
hướng công đức về cho tiền nhân của mình, nhất là trong ngày lễ
Vu Lan, thành tâm chí kính, niệm Phật, tụng Kinh, lạy Phật, cúng
đường Tam Bảo, cúng dường chư Tăng Tự tứ, để cầu mong sự chú
nguyện của Chư Tăng cho tiền vong của mình thoát khỏi u đồ mà
siêu sanh lạc quốc. Đó mới tạm gọi là con hiếu, là người Phật tử
thuần hành trong mùa báo hiếu vậy.
-
- --o0o--
|
|