|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Phá Hòa Hợp Tăng
-
Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
-
--o0o--
-
-
Trong Học pháp có một giới cần phải nhận định cho rõ là giới phá
hòa hợp Tăng. Tăng từ 4 vị trở lên, không biết chúng mà đồng một
Kiết-ma, đồng một thuyết giới, gọi là Tăng hòa hợp. Có 18 việc
dẫn đến sự phá Tăng hòa hợp:
-
1. Pháp nói là phi pháp (như Tám chánh đạo là con đường duy nhất
đưa đến Niết-bàn lại cho không phải hoặc không duy nhất).
-
2. Phi pháp nói là Pháp (trái với trên).
-
3. Luật, nói là phi luật. (Tám thánh đạo là nền tảng của luật,
lại nói là không phải. Hoặc bốn Thánh chủng là luật, lại cho là
không phải luật).
-
4. Phi luật nói là luật (trái với trên).
-
5. Phạm nói là không phạm.
-
6. Không phạm nói là phạm.
-
7. Phạm khinh nói là phạm trọng.
-
8. Phạm trọng nói là phạm khinh.
-
9. Phạm hữu tàn nói là vô tàn (tàn là dư tàn, phạm những tội có
thể sám hối là hữu tàn, còn tội Ba-la-di không thể sám hối gọi
là vô tàn).
-
10. Phạm vô tàn nói là tàn (trái với trên).
-
11. Tội thô ác nói là phi thô ác.
-
12. Tội phi thô ác nói là thô ác.
-
13. Thường sở hành nói là phi thường sở hành (pháp thường sở
hành chỉ cho Tám Thánh đạo, Pháp phi thường sở hành chỉ cho 5
điều của Đề-bà-đạt-đa).
-
14. Phi thường sở hành nói là thường sở hành.
-
15. Chế nói là phi chế (điều luật Phật cấm chế nói là không phải
cấm chế).
-
16. Phi chế nói là chế.
-
17. Thuyết nói là phi thuyết (Những điều do chính Phật dạy nói
là không phải).
-
18. Phi thuyết nói là thuyết.
-
Duyên khởi từ Đề-bà-đạt-đa.
-
Trong Luật nói phá Tăng có hai thứ:
-
a. Phá Kiết-ma Tăng.
-
b. Phá Pháp luân Tăng.
-
-- Phá Kiết-ma Tăng là ở cùng trong một giới, tách ra để bồ-tát
riêng, hoặc phá không để cho Tăng Kiết-ma.
-
-- Phá Pháp luân Tăng: Pháp luân gọi là Bát chánh đạo... Phật
chuyển Pháp luân, chuyển Tứ đế, Bát chánh đạo luân. Bây giờ
khiến Tăng bỏ Bát chánh đạo pháp luân của Phật để nhập vào tà
đạo gọi là phá Pháp luân Tăng. Trường hợp phá Pháp luân Tăng
phạm tội ngũ nghịch, nhưng nó là tội khả hối chứ không phải là
tội Ba-la-di, mà là tội Tăng tàn. Còn phá Kiết-ma Tăng không
phải tội ngũ nghịch mà là tội khả sám thuộc Thâu-lan-giá, Phá
Pháp luân Tăng ít nhất là phải có chín người. Trong Chúng chín
người đó tách ra năm người, một người xưng là Phật và đưa lên
một giáo thuyết khác với Phật. Bốn người kia phụ họa theo giáo
thuyết tự xưng là Phật đó. Như vậy là họ phá Chúng Tăng đang
nghe Pháp luân của Phật nên gọi là phá Pháp luân Tăng. Phá Pháp
luân Tăng chỉ xảy ra khi Phật còn tại thế. Còn sau khi Phật nhập
diệt không còn nạn phá Pháp luân Tăng nữa. Dầu các Tổ bên Tàu có
lập ra tông này phái nọ, không phải là phá Pháp luân Tăng, bởi
vì hiện nay bà Thanh Hải tự xưng là Vô thượng sư, hay ở nước ta
có người tự xưng là U minh giáo chủ, hay là gì gì đi nữa cũng
không thành vấn đề vì họ không phải là Tỷ-kheo nên cũng không
gọi là phá Pháp luân Tăng, vì họ có thành Tăng đâu mà gọi là phá
Tăng.
-
Phá Pháp luân Tăng là ngày xưa Tỷ-kheo Đề-bà-đạt-đa đi tranh với
Phật, rủ thêm bốn người là Tỷ-kheo Tăng-Bạt, Kiền-trà-bạt-đà,
Câu-bà-ly, Ca-lưu-đề-xá với thầy là năm, kết bạn với nhau, khất
thực từ nhà nọ đến nhà kia. Phật nói các thầy không được biệt
chúng khất thực như vậy. Tỷ-kheo Đề-bà tức giận và nói "Như Lai
Sa-môn đã chận đứng miếng ăn của người khác, cho nên thầy rắp
tâm phản, tách riêng thành chúng và xướng lên năm pháp khác với
Phật, cho hơn Phật".
-
Thứ nhất, Phật chế: Thường hành khất thực, thứ đệ khất thực, nếu
có ai mời ăn thì chấp nhận, nếu có ai hỷ cúng cũng chấp nhận.
Bây giờ Đề-bà-đạt-đa trai lại với Phật, thầy chủ trương ai cúng
cũng không ăn, ai mời thọ thực cũng không nhận, ai cho thầy cũng
không lấy, chỉ có đi khất thực mà ăn thôi.
-
Thứ hai, Phật chế: Phấn tảo y, tức y lượm vải vứt bỏ ở bãi tha
ma, đem về tẩy rửa cho sạch mà may y. Tuy nhiên, nếu có ai cúng
y cũng nhận lãnh. Bây giờ thầy chủ trương: Phấn tảo y là y
chính, còn ai cúng y thầy cũng không nhận.
-
Thứ ba, Phật chế: Lộ địa tọa hay thọ hạ tọa, nhưng nếu có ai
cúng tịnh xá, cúng chùa thì cũng ở. Thầy nói không được, thầy
chỉ ngồi dưới đất trống hay dưới gốc cây mà thôi, còn nếu ai
cúng chùa, tịnh xá, giảng đường... thầy cũng không nhận.
-
Thứ tư, Phật chế: Không được ăn bơ, dầu để cách đêm. Thầy nói
dầu không cách đêm cũng không được ăn.
-
Thứ năm, Phật chế: Tùy thí đắc thực, được phép thọ tam tịnh nhục
là bất kiến, bất văn, bất nghi. (Tức không thấy người ta giết,
không nghe tiếng kêu của vật bị giết và không nghi người ta giết
để cúng cho mình). Thầy chủ trương, dầu có cúng cũng không ăn.
-
Năm pháp đó ngược lại bốn ý của Phật. Thầy chế ra giới của thầy
không dính gì với Bát chánh đạo, Bát chánh đạo là chánh Tri
kiến, chánh Tư duy, chánh Ngữ, chánh Nghiệp, chánh Mạng, chánh
Tinh tấn, chánh Niệm, chánh Định. Phật cho tu như vậy mới đắc
đạo, nhưng thầy nói tu như thầy mới đắc đạo, bằng cách chế năm
điều như trên, không cần Bát chánh đạo. Thầy chế ra một giáo
thuyết và thầy tự xưng là Phật nên thầy bị ghép vào tội phá Pháp
luân Tăng. Nhưng tội đó theo luật là tội Tăng tàn. Nếu phá như
vậy mà không ai can ngăn cả cũng không phải là tội Tăng tàn. Tội
Tăng tàn như trong Luật nói là nếu có bạch tứ Kiết-ma can gián
xong, mà thầy không bỏ mới mắc tội, nhưng mới bạch nhị kiết-ma
mà thầy bỏ thì chỉ phạm Thâu-lan-giá. Có những trường hợp làm
nhưng không phạm là trường hợp mới ngăn đã bỏ. Thứ hai là khi
Phật chưa chế giới đó. Thứ ba, nếu chúng tăng muốn kiết-ma một
tội nào mà phi pháp biệt chúng kiết-ma, phi pháp hòa hợp chúng
kiết-ma, như pháp biệt chúng kiết-ma, như pháp tương tợ biệt
chúng kiết-ma, như pháp tương tợ hiệp chúng kiết-ma, thì đều vấp
phải Kiết-ma phi tướng, dầu có ba lần khuyên, mà vì Kiết-ma
không đúng đó, kết tội cũng không thành.
-
Cho nên bên xử tội phải đúng tư cách một ông Luật sư làm đủ thủ
tục mới kết tội được, trái lại không phải là Luật sư, làm không
đúng thủ tục thì lại càng không kết tội người ta được mặc dầu
người đó có tội. Ví dụ nếu thầy là ông Tăng, thầy đang sửa soạn
phá hòa hợp Tăng, nhưng tôi chận hành động phi pháp ấy lại, dầu
tình giữa thầy và tôi có sứt mẻ, cũng không gọi là phá Tăng,
hoặc kết tập một hai ba người làm kiết-ma để phá Tăng cũng không
gọi là phá Tăng vì không đủ năm người, hoặc phá những kẻ ác tri
thức, những người muốn làm tổn hại hay sắp sửa làm tổn hại cho
Tăng, cho Pháp, cho Hòa thượng, cho A-xà-lê, làm cho mất chỗ ở,
cũng không gọi là phá Tăng.
-
Phá Pháp luân Tăng này bất kỳ Tăng cùng ở nội giới ngoại giới
đều phá được hết, còn phá Kiết-ma Tăng là cùng ở trong một giới
mới phá Kiết-ma Tăng được. Phá Pháp luân Tăng chỉ có Tỷ-kheo còn
Ni không phá được. Vì Ni không làm Phật được nên không phá được.
Phá Kiết-ma Tăng là phải ngồi chung lại Kiết-ma, bỏ thăm, tách
ra mới phá, chứ không phải tới ngày Bố-tát bỏ đi chơi gọi là phá
Tăng. - Thí dụ hôm nay có hai mươi người, mới vô giới trường
mười hai người, còn tám người bỏ đi chơi. Tám người không vô đó
gọi là phá được không? Không được. Khi nào ngồi lại, bỏ thăm, có
người xúi sử, không chịu ngồi chung với nhau nữa, tách ra Bố-tát
riêng biệt giới mới gọi là phá Kiết-ma Tăng. Nếu có ai vô trong
giờ Bố-tát mà la lối ồn ào cũng không phải là phá Kiết-ma Tăng
mà chỉ phạm tội ô cấu Tăng, phá pháp lục hòa, phạm pháp nhưng
không phạm giới.
-
Tăng Kỳ luật nói: Nếu biết một số người muốn phá Tăng, thì các
vị Tỷ-kheo nên can họ đừng phá. Vì phá Tăng mang tội nặng lắm,
bị đọa địa ngục, khổ sở vô cùng. Và dụ dỗ họ: nếu thầy cần y tôi
cúng y, cần áo tôi cúng áo, cần tứ sự cúng dường, tôi xin cúng
hết. Nếu Thầy đó không chịu, thì nên đến vị Ưu-bà-tắc thân cận
thầy đó nhờ khuyên họ đừng phá Tăng mà mang tội, thôi đừng nên
phá Tăng, nếu cần gì tôi xin cúng dường hết. Thậm chí nếu thầy
tu không được thì tôi sẽ cưới vợ cho, nhưng thầy đừng phá Tăng.
Thế cho hay trong Luật nói khi một người làm ông Tăng, Phật thấy
quý lắm. Vì thấy quý cho nên thầy lỡ có phạm giới thì cũng tìm
đủ mọi cách để giải sự phạm giới của thầy, chứ không trị liền.
Phải ba lần can gián đã, trước khi can gián thì phải nhờ ông này
bà kia có thần có thế đến can đến khuyên, dụ dỗ vật chất khuyên
đừng phá Tăng. Nếu tu không được thì tôi cưới vợ giúp đỡ chứ
đừng phá Tăng. Nếu cố tình không chấm dứt thì bắt thăm khu xuất
ông đi ra khỏi chỗ ấy mà thôi. Khi đã đuổi ra khỏi địa phương ấy
rồi thì phải xướng lên rằng: "Các Đại đức, ông phá Tăng đi đến
chỗ đó nên thận trọng, chớ để cho người khác họ lầm, đi theo".
Cho nên khi đã kiết-ma trục xuất thì ông đi đến đâu phải thông
báo cho họ biết, để cảnh cáo họ, kẻo họ không biết Chúng Tăng
đuổi ông đó. Nói tóm, có hai cách phá hòa hợp Tăng:
-
1. Phá Pháp luân Tăng: Trường hợp Đề-bà-đạt-đa phá Pháp luân
Tăng khi Phật còn tại thế. Sau khi Phật nhập diệt không có phá
Pháp luân Tăng. Cách thức phá là: Tự xưng Phật riêng, có Pháp
riêng, không nghe theo Pháp luân của Phật.
-
2. Phá Kiết-ma Tăng: Trường hợp trong cùng một kiết giới, cùng
một thuyết giới, cùng một kiết-ma, đồng giới. Tất cả mọi việc gì
cũng cùng một kiết-ma hết. Nhưng bây giờ có người sinh sự, lập
ra một nhóm tạo ra sự bất hòa, rồi đưa đến kiết-ma, tập hợp lấy
biểu quyết, kiết-ma tách ra làm hai nhóm, gọi là phá kiết-ma
Tăng./.
-
(Trích "Cương Yếu Giới Luật", Sài Gòn 1996)
-
- --o0o--
|
|