|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Vô Ngã Là Niết Bàn
-
Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
-
--o0o--
-
-
Đạo Phật như một vườn hoa, mà người xuất gia là người giữ gìn,
chăm sóc, cần phải biết rõ từng bông hoa... Người xuất gia là
chủ vườn, chứ không phải là người ngoại cuộc, chỉ cỡi ngựa xem
hoa đã vội phê phán bình phẩm đủ cách. Phật tử chúng ta là những
người giữ gìn gia tài Phật pháp, phải có thái độ như thế nào đối
với những người cỡi ngựa xem hoa đó? Không lẽ chỉ hùa theo sự
khen chê của họ?
-
Mặc dù biết Phật pháp mênh mông, cũng không ngoài một vị giải
thoát cho nên dù chỉ học một câu kinh, tu hành một pháp môn cho
thấu đáo cũng có thể hưởng được hương vị giải thoát mà không cần
uống hết cả biển giáo lý. Nhưng điều cốt yếu là phải thực hành
chứ không phải nói suông mà hiểu đạo được.
-
Đạo là con đường, nhưng đi trên con đường đạo không như đi trên
đường cái. Đường cái dễ đi, dễ đến, có khoảng cách rõ rệt, bao
nhiêu cây số là bấy nhiêu thời gian tương ứng, có điểm khởi
hành, có điểm đến hẳn hoi. Nhưng đường đạo thì không như thế.
Khi bắt đầu tu gọi là khởi điểm, mà khởi điểm này cũng ở tại
Tâm. Tu hành gọi là đi, cũng chỉ trong một Tâm ấy mà khi đạt đến
đích giác ngộ, thì cũng ở một Tâm ấy chứ đâu khác.
-
Thế mà tại sao đi mãi vẫn không đến? Đó chính là vì cái Ta cứ
ngăn chận làm cho trễ nãi, biếng nhác, sa ngã, bước được một
bước thì bị lục căn lục trần xen vào kéo lui ba bước. Muốn tinh
tấn tu hành nhưng cái ngã nó xen vào và bảo: Để ta ăn cái đã, để
ta ngủ cái đã, để ta coi cái đã, để ta nghe cái đã. Cái ngã chấp
đó càng bành trướng càng gây tai họa. Ngã chấp của ta càng to
càng dễ gây đụng chạm với cái ngã của người khác. Người khác
cũng bồi bổ cái ngã của họ nên lại va chạm với ta. Ví như có một
ngôi nhà rộng thênh thang mười người ở không khắp, thế mà một
khi những người ở trong đó để cái Ta nổi lên thì sẽ va chạm nhau
đến nỗi rốt cuộc mỗi người đi mỗi ngả, khi còn một người mà vẫn
thấy chật. Đó là vì ngã chấp. Tôi lấy ví dụ để minh họa vấn đề
ngã chấp này:
-
Ngày xưa có một linh hồn sau nhiều kiếp tu luyện, đến thiên đàng
gõ cửa Thượng Đế, Thượng Đế hỏi:
-
-- Ai đó?
-
-- Tôi, Linh hồn đáp.
-
Thượng Đế hỏi:
-
-- Tôi là ai?
-
-- Tôi là tôi.
-
Thượng Đế bảo:
-
-- Ở đây không đủ chỗ cho ta và ngươi cùng ở. Ngươi hãy đi nơi
khác.
-
Linh hồn ấy trở lui về trần gian tu luyện thêm một ngàn năm nữa,
sau đó lên trời gõ cửa lại.
-
Thượng Đế hỏi: -- Ai đó?
-
Đáp: -- Tôi.
-
-- Tôi là ai?
-
-- Tôi là Ngài, Linh hồn đáp.
-
Khi ấy Thượng Đế liền mở cổng cho vào.
-
Thí dụ trên cho ta thấy, một ngàn năm trước tôi là tôi - còn ngã
chấp, thì không vào thiên đàng được. Một ngàn năm sau, tôi là
Ngài, mới vào được, vì hết ngã chấp. Vì ta với mình tuy hai mà
một. Niết bàn là cái tuyệt đối không dung ngã. Niết bàn không có
hạn lượng, không có nơi chốn, vì Niết bàn vô tướng - vô tướng
nên rất khó vào. Muốn vào Niết bàn, ta cũng phải vô tướng như
Niết bàn. Cửa Niết bàn rất hẹp, chỉ bằng tơ tóc nên ta không thể
mang theo một hành lý nào mà hy vọng vào Niết bàn được cả. Cái
thân đã không mang theo được, mà cái ý niệm về tôi, về ta, cũng
không thể mang theo vào được. Cái ta càng to thì càng xa Niết
bàn. Nên biết hễ hữu ngã thì luân hồi mà vô ngã là Niết bàn chứ
không phải đòi hỏi có cái ta để vào Niết bàn.
-
Một hôm có người đến hỏi Thiền sư Duy Khoang: "Đạo ở đâu?" Sư
đáp: "Đạo ở trước mắt" - "Sao tôi không thấy?", người ấy hỏi.
Ngài đáp: "Vì ngươi đang bận nghĩ tới mình ta cho nên không
thấy" -" còn Hòa Thượng có thấy không?", người ấy hỏi. Ngài đáp:
"Hễ còn bận nghĩ tới ta, ngươi thì đều không thấy" - "Khi không
còn bận nghĩ tới ta, ngươi nữa thì có thấy không?", người ấy
hỏi. Ngài đáp: "Khi không còn có tâm phân biệt bận nghĩ tới ta,
ngươi, thì bấy giờ ai hỏi đạo ở tại đâu?"
-
Giả sử lúc đó người ấy hỏi ngài Niết bàn ở tại đâu thì chắc Ngài
cũng đáp tương tự như thế, và câu đáp cuối cùng hẵn là: "Khi
không còn có tâm phân biệt bận nghĩ tơi ta, ngươi thì bây giờ ai
hỏi Niết bàn ở tại đâu? Sao tôi không vào được? Vì đã không còn
tâm phân biệt bận nghĩ tới ta, ngươi thì tức lúc ấy tâm thanh
tịnh không còn vọng tưởng tham ái, tức là Niết bàn đó rồi, chứ
có phải ở đâu xa mà phải tìm kiếm?"
-
Vậy cho nên cần phải biết: Niết bàn chính là từ bỏ ba độc tham,
sân, si do ngã chấp gây nên. Vô ngã là Niết bàn. Giờ phút nào
cởi bỏ được ba độc, giờ phút đó là Niết bàn. Cho nên chúng ta
thấy Niết bàn vừa là cái chung, vừa là cái riêng. Cái chung là
ai cũng tu được, vào được. Cái riêng là chỉ ai tu người ấy đắc.
Đức Phật, Ngài không bưng Niết bàn đến cho ta ngồi lên. Ngài chỉ
dạy cho ta con đường tu chứng Niết bàn mà thôi. Ngài dạy:
-
"Ai còn tham luyến (tức còn ngã ái chấp đây là của tôi, ngã mạn
chấp đây là tôi, ngã kiến chấp đây là tự ngã của tôi), thời có
dao động. Ai không tham luyến, thời không dao động. Ai không dao
động, thời được khinh an. Ai được khinh an thời không thiên chấp
(nati). Ai không thiên chấp, thời không có đến và đi. Ai không
có đến và đi, thời không có diệt và sanh. Ai không có diệt và
sanh, thời không có đời này đời sau, không có giữa hai đời. Đây
là sự đoạn tận khổ đau". (Niết bàn - Tương Ưng Bộ Kinh 4/65,
1982)
-
Vậy thì nói Phật độ chúng sanh là gì? Ở đây chúng ta cần phân
biệt chữ "độ" và chữ "cứu rỗi". Chữ "cứu rỗi" thì chỉ cần đức
tin, tin có một đấng tối cao, đấng ấy sẽ rước ta vào cõi phúc
lạc của Ngài ở một nơi nào đó, nếu ta đầy đủ lòng tin. Trái lại
chữ "độ", nghĩa là vượt qua, có nghĩa là làm cho chúng sanh thấy
rõ rằng: chính vì bản ngã mà nổi chìm trong biển phiền não sanh
tử. Vậy chỉ cần trừ cái ngã chấp thì phiền não không còn đất
đứng. Khi phiền não đã trừ thì kiến hoặc, tư hoặc, vô minh hoặc
cũng dứt mà vượt qua bờ giác. Khi phiền não chấm dứt thì dù bất
cứ đang ở đâu, bất cứ giờ phút nào cũng là Niết bàn, không cần
phải cất bước đi đến một nơi nào cả để tìm cõi Niết bàn. Bởi thế
đức Phật dạy luôn luôn quán vô ngã, bốn đại, năm uẩn tạo nên
thân này đều là những thứ do duyên ở ngoài kết hợp lại mà thành
chứ cái thân "đồng nhứt" với cái ngã thì không thực có.
-
Đức Phật được tôn xưng là đấng Pháp vương vì Ngài tự tại với tất
cả các pháp, vào tất cả thời, xứ. Dù ở đâu Ngài cũng không bị
dính mắc vào sáu trần, không bị chúng lôi kéo. Nên chúng ta phải
biết, nếu chúng ta đối với một việc gì trong một thời gian nào
đó mà được tự tại, không bị nó lôi kéo, chi phối, thì ta cũng
đáng được gọi là vua của pháp đó, nhưng chỉ đối với một việc đó,
trong một thời gian đó mà thôi, còn ở giờ khác, đối với việc
khác, thì ta lại bị ràng buộc, cho nên ta không được như Phật
xưng là Đấng Pháp Vương đối với toàn diện các pháp và tất cả các
thời, xứ.
-
Muốn được như Phật phải quán vô ngã luôn luôn. Quán vô ngã thì
tất cả cái gọi là: phải, trái, được, thua ở đời đều là một cái
duyên cho ta tu, hoặc trở thành bình thường không có gì bận tâm
cả. Quán vô ngã cũng như người võ sĩ luyện thân thể cho rắn
chắc. Khi chưa rắc chắc thì dễ bị quật ngã trước một tác động
bên ngoài. Người tu vô ngã cũng vậy, khi chưa thuần thục còn
nhiều ngã chấp thì dễ đau khổ trước một lời nói độc. Nếu khi ngã
chấp tiêu bớt, thì chỉ còn thấy đau khổ sơ sơ và cuối cùng thì
không còn ngã chấp thì cũng không còn chút đau khổ nữa. Nên kinh
Pháp Cú nói:
-
- Như ngọn núi kiên cố
-
Không gió nào lay động
-
Cũng vậy giữa khen chê
-
Người trí không giao động. (Pháp Cú câu 81)
-
Kết luận:
-
- Cái Trí ở đây chính là cái trí thấy lý vô ngã vậy.
-
- --o0o--
|
|