|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Đại Cương Về Giới Luật Tu Sĩ
-
Hòa Thượng Thích Thiện Siêu
-
--o0o--
-
-
Khi đức Phật nhập diệt rồi, cuộc kiết tập mới bắt đầu. Cuộc kiết
tập tụng lại Kinh tạng và Luật tạng. Trong Luật tạng, bộ Luật
đầu tiên theo trong sử nhắc đến là bộ Bát thập tụng luật do Tôn
giả Ưu-ba-li tám mươi lần ngồi tụng thì mới xong bộ Luật của
Phật dạy.
-
Nội dung của Kiết tập có nghĩa như thế nào?
-
Kiết tập: Phạn tự là Samgati, Tàu dịch là "Chúng đẳng tụng",
nghĩa là cả chúng cùng nhau tụng lại lời đức Phật dạy. Tụng bằng
cách nào? Tôn giả Ưu-ba-li hay Tôn giả A-nan-đà ngồi giữa chúng
đọc rõ từng câu như: ngày hôm đó, tại chỗ đó, tôi có nghe đức
Phật dạy như thế này thế này... nếu đại chúng có vị nào nghe
Ngài dạy khác xin phát biểu, nếu không ai phát biểu mà im lặng
thì cho qua. Tiếp tục tụng đoạn khác cũng y như trên cho đến
hết, nên gọi là chúng đẳng tụng. Cuộc kiết tập đầu tiên chưa có
văn tự gì hết. Kiết tập bằng miệng đọc lên rồi ai nấy đều ghi
nhớ trong ký ức mà thôi. Ký ức của các vị toàn là các bậc
A-la-hán thì ghê gớm lắm. Nhớ như vậy cốt để mà tu tập chứ không
có mục đích gì khác.
-
Tôn Giả Ưu Ba Li Tụng Luật
-
Như vậy, về Luật bộ đầu tiên là Bát thập tụng do Tôn giả
Ưu-ba-li tụng, rồi sau đó nó biến ra năm bộ nữa:
-
Đàm-vô-đức bộ (Pháp tạng bộ) truyền luật Tứ phần, gồm 60 cuốn.
-
Tát-bà-đa-bộ (Hữu bộ) truyền luật Thập tụng, có 60 cuốn.
-
Di-sa-tắc bộ truyền luật Ngũ phần, có 30 cuốn, thuộc Hóa địa bộ.
-
Ca-diếp-di bộ truyền Giải thoát giới, gồm 50 cuốn, thuộc Căn bản
nhất thiết hữu bộ.
-
Ma-ha Tăng-kỳ bộ truyền luật Tăng kỳ, có 40 cuốn, thuộc Đại
chúng bộ và Độc tử bộ.
-
Trong thời Phật, Ngài không phân ra năm bộ luật như trên, nhưng
trong quá trình hành hóa, tùy chỗ phạm lỗi mà chế ra giới để cho
hàng đệ tử biết và lần sau đừng có phạm nữa. Đó là khởi nguyên
của Luật. Sau khi đức Phật diệt độ, cuộc kiết tập lần thứ nhất
chỉ tụng thuần nhất là tám mươi lần ngồi tụng mà thôi. Từ đó về
sau, qua sự truyền trì của Tôn giả Đại Ca-diếp, A-nan,
Mạt-điền-địa, Thương-na-hòa-tu, Ưu-ba-cúc-đa (Maha Kàsyapa,
Ananda, Madhyàntika, Sàna Vàsa, Upagupta) đều thuần nhất vị,
chưa phân dị kiến về giới luật. Đến Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa là vị
thứ năm, nhằm khoảng thời gian sau Phật diệt độ 110 năm, lúc đó
A-dục vương ra đời. A-dục vương là vị vua lúc đầu cai trị rất
tàn ác nên dân chúng gán cho cái tên là Hắc A-dục vương (A-dục
vương đại ác). Nhưng về sau cải ác tùng thiện, qui y Tam Bảo và
trở thành một Phật tử thuần thành, hộ trì Phật pháp một cách đắc
lực nhất, gọi là Pháp A-dục vương.
-
Nguyên Nhân Phân Hóa Luật
-
Giáo pháp đức Phật do vậy cũng bị điêu linh, các vị tỷ kheo mỗi
đoàn du hóa một phương, không kết tụ với nhau được, do đó mà từ
nơi một bộ Bát thập tụng luật lại chia ra năm nơi, năm nhóm. Năm
nhóm này ghi nhớ và đọc tụng theo năm cách riêng và việc hành
trì cũng khác, nên tạo ra năm bộ luật khác nhau. Năm bộ luật đó
là do năm đệ tử của Tôn giả Ưu-ba-cúc-đa nắm giữ và truyền tụng.
Năm bộ luật đó là:
-
Đàm-vô-đức bộ truyền trì luật Tứ Phần.
-
Tát-bà-đa bộ truyền trì luật Thập Tụng.
-
Di-sa-tắc bộ truyền trì luật Ngũ Phần.
-
Ca-diếp-di bộ truyền trì luật Giải Thoát.
-
Bà-ta-phú-la bộ truyền trì luật Ma-ha Tăng Kỳ.
-
Năm nhóm trên đều truyền trì Luật tạng riêng mà phát sinh thành
ra năm bộ như trên.
-
Năm bộ luật vừa nêu về phần chính thì giống nhau, chỉ có sai
khác về Ba-dật-đề và Chúng học pháp.
-
Năm Bộ Luận Giải Thích Luật
-
Ngoài những bộ luật chính ở trên, sau này có những bộ gọi là
luận về luật. Năm bộ luận đó là gì?
-
Tỳ-ni-mẫu luận, 8 quyển (thất truyền).
-
Ma-đắc-lặc-già luận, gọi đủ là Tát-bà-đa-bộ Tỳ-ni
Ma-đắc-lặc-già, 10 quyển do Lưu tống Tăng-già-bạt-ma dịch.
-
Hai bộ luận trên dựa vào Tát-bà-đa bộ tức Căn bổn nhất thiết hữu
bộ mà giải thích những điều trong bộ luật đó mà tạo ra luận này.
-
Thiện kiến luận, hay còn là Thiện kiến luật Tỳ-bà-sa, 18 quyển
do Tiêu-tề Tăng-già-bạt-ma dịch. Cốt giải thích Tứ phần luật.
-
Tát-bà-đa luận hay gọi là Tát-bà-đa Tỳ-ni-tỳ-bà-sa, chín quyển,
mất tên người dịch, cốt giải thích luật Thập tụng.
-
Minh liễu luận, hay còn gọi là Luật nhị thập nhị minh liễu luận,
một quyển do Trần-chân-đế dịch, cốt giải thích giới luật thuộc
Chính lượng bộ.
-
Hai bộ này đều thuộc Chính lượng bộ, tức một trong hai mươi bộ
phái tiểu thừa Phật giáo.
-
Nội Dung Của Luật Tạng
-
Khi nói Luật tạng là nói chung cả năm bộ luật và năm bộ luận đó
gọi là luật tạng.
-
Sự hành trì về Luật tại Ấn Độ chắc cũng có sự sai khác chút
đỉnh. Khi thì các Tổ dùng bộ này, khi thì dùng bộ khác, nên đôi
lúc tưởng chừng trong nội dung của nó có sai khác. Nhưng tùy
theo địa phương và hoàn cảnh, các Tổ có thể du di phần học pháp,
vì vậy, khi truyền qua Trung Hoa, Tổ Đạo tuyên mới lấy một bộ
làm căn bản cho việc truyền Luật, nên Tổ đã dùng bộ Tứ phần
luật, phát triển thành Luật tông mà Tổ là vị khai sáng. Từ đó Tứ
phần luật được diễn giảng, giải thích và truyền bá rất mạnh.
-
Việt Nam chúng ta từ trước tới nay cũng áp dụng Tứ phần luật để
hành trì.
-
Nội Dung Tứ Phần Luật
-
Tứ phần luật, 60 cuốn do Diêu Tần Phật-đà-da-xá và
Trúc-phật-niệm cùng dịch, chia bốn phần.
-
Phần một, gồm hai mươi mốt cuốn: nội dung chuyên nói 250 giới
của Tỷ-kheo.
-
Phần hai, gồm mười sáu cuốn: chín cuốn đầu nói 348 giới điều của
Tỷ-kheo-ni. Bảy cuốn sau quy định việc thọ giới, thuyết giới, an
cư, tự tứ...
-
Phần ba, có mười hai cuốn: gồm các chương quy định việc Tự tứ
tiếp theo, Bì-cách, y, Dược, Casina y, việc xảy ra ở
Câu-diệm-di, ở Chiêm-ba, Kiết-ma-ha-trách, về người, về tội phú
tàng, giá, phá tăng, diệt tránh, về pháp Tỳ-ni và về Pháp.
-
Phần bốn, gồm mười một cuốn: là các chương nói về phòng xá, tạp,
ngũ bách kiết tập, thất bách kiết tập, điều bộ Tỳ-ni, Tỳ-ni tăng
nhất.
-
Tóm lại, Tứ phần luật gồm có hai phần chính:
-
(a) Phần thứ nhất nói về giới bổn của Tỷ-kheo và Tỷ-kheo-ni.
-
Giới bản của Tỷ-kheo có 250 giới, Tỷ-kheo-ni có 348 giới. Theo
Nam truyền Luật tạng Tỷ-kheo có 227 điều, Tỷ-kheo-ni có 311
điều. Các giới điều tuy có khác, nhưng chỉ khác phần chi tiết,
còn phần nội dung chính vẫn giống nhau.
-
(b) Phần thứ hai nói về hai mươi kiền độ (hai mươi chương).
-
Chương Thọ giới: Thuyết minh về việc thọ giới.
-
Chương Thuyết giới: Thuyết minh về nghi thức thuyết giới.
-
Chương An cư: Thuyết minh về ý nghĩa và sự việc an cư.
-
Chương Tự tứ: Nói về ý nghĩa tác pháp tự tứ.
-
Chương Bì-cách: Khai cho các Tỷ-kheo gặp hoàn cảnh đặc biệt được
dùng các loại da thuộc.
-
Chương nói về Y: Thuyết minh cách may y và sử dụng nó.
-
Chương nói về dược liệu: Thuyết minh về cách dùng thuốc để chữa
bịnh.
-
Chương nói về Y Casina (Kathina): Nói về cách thọ y và xả y
Casina (công đức y).
-
Chương nói về việc xảy ra ở Câu-diệm-di (Kosambi): Nói về việc
các Tỷ-kheo tranh cãi nhau, và ba loại cử tội: (1) Bất kiến cử
là cử cái tội có lỗi mà nói không thấy, không nhận tội. (2) Bất
sám cử là cử cái tội đã nhận tội mà không chịu sám hối. (3) Ác
kiến bất xả cử là cử cái tội có ác kiến mà không chịu bỏ.
-
Chương nói về việc xảy ra ở Chiêm-ba, nói về các loại Kiết-ma
như pháp và phi pháp.
-
Chương nói về Ha-trách: Nói về chế định bảy thứ Ha-trách, tức 35
việc mà một Tỳ-kheo đã phạm tội thì không được làm.
-
Chương nói về Người: Thuyết minh phạm tội Tăng tàn, lục dạ biệt
trú phép bản nhật trị và cách sám trừ nghiệp quả, sám diệt phi
pháp.
-
Chương Phú tàng: Nói các thứ tướng của tội phú tàng và cách diệt
trừ tội.
-
Chương nói về Giá: Nói về cách ngăn ngừa và cử tội người khác,
khi cử phải đủ năm pháp là: Tri thời, chân thật, lợi ích, nhu
nhuyến, từ tâm.
-
Chương phá Tăng: Nói việc tội phá Tăng.
-
Chương diệt tránh: Nói về Thất diệt tránh (bảy phép diệt sự
tranh cãi).
-
Chương nói về Ni: Nói việc Ni chúng thọ giới, thuyết giới.
-
Chương nói về Pháp: Nói các oai nghi, pháp thức đi lại... của
Tỷ-kheo.
-
Chương nói về Phòng: Nói việc sửa sang tu bổ phòng xá.
-
Chương tạp: Thuyết minh xen lẫn hết thảy các chương, và cách trì
giới.
-
Đạo Tuyên Luật sư trong "San bổ tùy cơ yết-ma" tóm tắt hai mươi
chương trình mười điều.
-
Chương tập pháp: Nói tổng quát về sự duyên thành không thành của
các pháp Kiết-ma.
-
Chương kết và giải giới
-
Chương nói pháp thọ các giới.
-
Chương nói áo, thuốc, thọ trì, thuyết tịnh.
-
Chương nói các pháp thuyết giới.
-
Chương nói về chúng an cư.
-
Chương nói pháp tự tứ.
-
Chương nói về chia áo (của Tăng đã chết)
-
Chương nói sám hối các tội.
-
Chương nói việc cốt yếu của vị trú trì Phật pháp.
-
Chỉ trì, Tác trì
-
Giới luật thì nhiều, nhưng không ngoài hai môn: Chỉ trì và Tác
trì.
-
Chỉ trì là đình chỉ, đình chỉ không làm các điều ác. Tức qui
định về điều giới, đó là giới, thuộc chỉ trì.
-
Tác trì là tu thiện, tức làm các điều thiện. Tức qui định về các
pháp Kiết-ma, đó là luật, thuộc Tác trì.
-
Ví dụ thực hành giới bổn là Chỉ trì, giữ gìn hai mươi kiền độ là
Tác trì.
-
Phân Tích Giới Bổn
-
Vì sao gọi là Giới bổn? Đây là những giới bổn gốc, chính yếu của
Luật tạng. Giới bổn của Tăng có 250, của Ni có 350 giới. Ngoài
giới bổn chính còn có phần Kiền-độ dịch âm chữ Khandha, có nghĩa
là nhóm, thiên, chương.
-
Phân tích giới bổn gồm có tám mục, 250 giới, chia năm thiên và
bảy tụ.
-
Năm thiên:
-
Ba-la-di có 4 giới.
-
Tăng tàn có 13 giới.
-
Ba-dật-đề gồm 30 xả đọa, 90 đơn đọa.
-
Đề-xá-ni có 4 giới.
-
Đột-kiết-la gồm 100 chúng học, 7 diệt tránh.
-
Bảy tụ:
-
Ba-la-di.
-
Tăng-tàn.
-
Thâu-lan-giá.
-
Ba-dật-đề.
-
Đề-xá-ni.
-
Ác-tác.
-
Ác-thuyết.
-
( 6. và 7. hợp chung gọi là "Đột-kiết-la")
-
Năm thiên là nương ở chỗ tội nặng nhẹ của tội quả. Bảy tụ là
những loại tụ căn cứ ở tội tính và nguyên nhân của nó.
Thâu-lan-giá là phương tiện tội (tức nhân tội) của Ba-la-di và
Tăng-tàn. Ác-tác là tội nhẹ thuộc về thân. Ác-thuyết là tội nhẹ
thuộc về khẩu.
-
Giải Thích Bốn Ba La Di
-
Bốn Ba-la-di: Ba-la-di, Phạn tự là Pàràjjka, Tàu dịch là Khí -
bỏ vứt ra ngoài Tăng chúng. Tội Ba-la-di có bốn, là bốn tội phạm
vào thì bị bỏ đi, vứt đi. Mắc bốn tội này coi như bỏ ra ngoài
Tăng chúng, vì vậy gọi là Khí (vứt bỏ). Phạm tội này gọi là bất
cọng trụ, tức không được phép tham dự tất cả công việc của Tăng.
Luận Du-dà-sư-địa cho rằng khi phạm bốn tội này gọi là Tha thắng
- tức khi phạm tội nầy thì bị Ma thắng. Vì sao? vì người tu sĩ
ví như một chiến sĩ chiến đấu với bốn thứ ma: Ma phiền não, ma
ngũ ấm, tử ma, thiên ma. Họ đánh bằng khí giới gì? Họ chiến đấu
bằng cách hành trì giới luật. Khi người tu sĩ không trì giới,
không giữ giới thì thua bốn thứ ma đó, như vậy là Ma thắng. Do
đó phạm bốn Ba-la-di cũng gọi là phạm Tha thắng. Tha là kẻ khác,
thắng là hơn. Phạm tội để kẻ khác hơn gọi là Tha thắng. Nếu phạm
tội này thì Ma hơn. Còn phạm tội dưới tội đây thì còn dằn co,
chưa phần thắng bại.
-
Giải Thích Mười Ba Tăng Tàn
-
Mười ba Tăng tàn: Phạn tự là Samghà-vasena. Phiên âm là
Tăng-già-bà-thi-sa. Tàu dịch là "Tăng tàn". Tăng tàn có hai
nghĩa:
-
Nghĩa thứ nhất: Giới luật là tính mạng của Tăng. Khi phạm
Ba-la-di coi như chết hẳn. Còn nếu phạm Tăng tàn thì như một
người chết mà chưa chết hẳn, mới hấp hối thôi, nếu cấp cứu kịp
thời, gặp thầy hay thuốc tốt thì có thể cứu được.
-
Nghĩa thứ hai: Phạm giới này nếu đủ hai mươi Tỷ-kheo hợp lại
Kiết-ma đúng pháp, cho họ sám hối thì có thể tiêu diệt được tội
này, nên gọi là Tăng tàn. Trong Căn bản nhất hữu bộ gọi là Chúng
giáo. Chúng là chúng Tăng, giáo là giáo dục. Chúng giáo có nghĩa
phải có hai mươi vị Tăng giáo dục cho, cho sám hối thì mới hết
tội.
-
Giải Thích Hai Bất Định
-
Hai bất định: Vì sao gọi là Bất định? Vì không dứt khoát tội đó
là Ba-la-di hay Tăng tàn hay Ba-dật-đề. Nó có thể thành tội
Ba-la-di hay tội Tăng tàn hoặc Ba-dật-đề theo lời trú tín
Ưu-bà-di, là vị nữ cư sĩ có lòng tin thanh tịnh kiên cố, không
nhất định nên gọi là Bất định. Hai tội này chỉ liên hệ giới bất
dâm, chứ không liên hệ các giới khác.
-
Giải thích ba mươi Xả đọa
-
Ba mươi tội Xả đọa: Phạn tự là Nissagiya-pàcittiya. Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề là phiên âm. Tàu dịch là "Xả đọa".
-
Tội xả và tội đọa. Loại tội này là chỉ các Tỷ-kheo, đồ dùng đó
khi phạm vào mà trái phép thì phải đọa. Muốn sám hối tội đó thì
phải ở giữa chúng hoặc đối một người mà xả đồ vật lấy dùng trái
phép trước rồi sám tội sau.
-
Nói cách khác, khi đề cập đến tội xả đọa là các vật sở hữu của
Tỷ-kheo, như y, bát, tọa cụ... lại không làm thủ tục tác pháp
thì phải làm phép xả vật, xả tội, chừa bỏ tâm lý chứa chấp, tàng
trữ tài vật để khỏi đọa lạc, nó gồm ba mươi giới. Ai phạm nên
đưa các phẩm vật ấy ra giữa Tăng, từ bốn vị trở lên để xả và đối
trước một vị Tỷ-kheo để nói tội và xin sám hối.
-
Giải Thích Chín Mươi Ba Dật Đề
-
Ba-dật-đề (Pàcittiya). Tàu dịch là "Đơn đọa". Nó liên quan đến
các tội tiểu vọng ngữ, cố ý sát hại côn trùng, cùng với nữ nhơn
đi chung đường v.v... gồm có chín mươi đơn đọa là tội không dính
dáng gì đến vật dụng hết. Phạm thì bị đọa thôi, không cần xả,
nên gọi là đơn đọa.
-
Giải Thích Bốn Hối Quá Pháp
-
Bốn hối quá pháp. Ba-la-đề Đề-xá-ni (Pàtidesanniya), Tàu dịch là
"Hướng bỉ hối". Phạm tội này chỉ hướng tới một Tỷ-kheo khác, nói
rõ lỗi lầm đã phạm và xin sám hối. Tóm lại là tội nhỏ, có thể
hối cải, người phạm có thể nói tội với một Tỷ-kheo khác mà xin
sám hối.
-
Giải Thích Một Trăm Học Pháp
-
Một trăm Học pháp phiên âm Phạn tự là Thức-xoa-ca-la-ni (Sikkhà
Karaniya). Tàu dịch là "Chúng học". Chúng học pháp là những pháp
cần nên học. Như các sinh hoạt hằng ngày, các oai nghi nhỏ
nhặt.... Pháp này chủ yếu là tự trách lấy mình. Đây là tội nhỏ
nhặt, tội khó giữ nhưng hết sức dễ phạm. Khi biết phạm thì tự
trách lấy mình để ăn năn, tự hứa lần sau không tái phạm là đủ.
-
Giải Thích Bảy Diệt Tránh
-
Bảy Diệt tránh pháp, tiếng Phạn là Adhika-ramásama-thaàdharmàh.
Tàu dịch là "Diệt tránh pháp". Tức bảy phương pháp trị tội hay
bảy cách thức để chấm dứt sự tranh cãi giữa chúng Tăng. Phạm 100
học pháp và 7 Diệt tránh kết vào tội Đột-kiết-la, chỉ tâm niệm
sám hối, học tập, là đủ.
-
Riêng về Tỷ-kheo-ni, Phật ưu đãi hơn:
-
Ba-la-di không phải bốn mà là tám.
-
Tăng tàn không phải mười ba mà là mười bảy.
-
Xả đọa bằng nhau.
-
Đơn đọa không phải chín mươi mà là 178.
-
Hối quá không phải bốn mà là tám.
-
Một trăm học pháp giống nhau.
-
Cộng tất cả là 348 giới. Chưa hết, Ngài còn trao thọ mạng Phật
pháp cho Ni nữa. Đặc biệt là Ni có Tám kỉnh pháp, nhưng Tăng thì
có nhị bất định, còn Ni thì không. Như vậy Ni hơn tám, Tăng hơn
hai. Ni thì có ngũ thiên lục tụ.
-
(Trích "Cương Yếu Giới Luật", Sài Gòn, 1996)
-
- --o0o--
|
|