|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
- NGUYÊN
LÝ SÁNG LẬP ĐẠO PHẬT
- Hòa
Thượng Thích Đức Nhuận
-
--o0o--
-
-
Đời sống quốc gia dân
tộc với hoàn cảnh địa lý và ảnh hướng khí hậu, thiên thiên, đã
tạo dựng cho Ấn Độ có một lịch sử khác với các quốc gia, dân tộc
trên thế giới. Đó là sự cố đặc biệt của xứ Ấn Độ xưa và nay. Nơi
có những rừng núi thâm u, tục gọi là lục địa xanh (Pays bleus),
đã ảnh hưởng nhiều tới luồng tư tưởng nhân bản, tiến bộ và giải
thoát sớm được xuất hiện. Thật vậy, bất cứ tôn giáo, học thuyết,
chủ nghĩa nào, khi mới sinh khởi, đều là phán ánh (không nhiều
thì ít) của hoàn cảnh, khí hậu, địa dư, xã hội, chủng tộc mà tạo
dựng cả. Nếu người ta xét nó ngoài hoàn cánh thực tại lẽ dĩ
nhiên không thể thấu hiểu nổi. Văn hóa đạo Phật cũng do nhân
duyên hội ngộ như thế mà nảy mầm và thúc đẩy, tiến hóa..
-
Hình Thể Địa Dư
-
Địa lý xứ Ấn Độ mang
một dấu tích đạc biệt, phía tây có nguyên Béloutchistan và các
dày núi thuộc phía bác co rạng núi Himalayas cao vút, gồm hai
dây chạy song song nối liền và kéo dài tới tận biên giới Miến
Điện với nhiều nhánh tua tủa. Ấn Độ có 3.500 km núi chạy dài từ
tây sang đông và 800 km chạy từ bắc xuống nam; đấy là chưa kể
phía duyên hải miền tây hoàn toàn là các núi đá lởm chởm. Rằng
núi Himalayas sừng sững cao ngất trời phương bắc đả ngan chặn
các làn gió từ trung ương A Châu thổi tới và giử lại các làn gió
lưu tích sự ẩm ướt của gió mùa. Phần lớn các băng tuyết của núi
này đã tạo ra các giòng thủy lưu nuôi sống vùng bình nguyên Ấn
Hà. Các đường thông thương với vùng Thượng Huyền đều nằm ở phía
tây bắc Ấn Độ. Cả vùng tây và bắc Ấn Độ đều có các núi cao và
cao nguyên. Mùa đông cực rét. Mùa hè, băng tuyết tan. Sông ngòi
đều có thủy lưu cháy xiết. Về phía nam có gió mùa đem mưa từ Ấn
Độ dương vào lục địa. Vì vậy, Ấn Độ như có các biên giới thiên
nhiên để được sống yên bình, phát triển văn minh thành thị. Nếu
không nhờ có nàm nhánh sông Jhelam, Chenab, Ravi, Béas và
Satlédj hợp lại với sông chính Indus thì cả vùng phía tây bắc Ấn
Độ chỉ là sa mạc mà thôi. Vùng đất phì nhiêu nhất hiện nay của
Ấn Độ là hai trung nguyên Ấn Độ hà và Hằng hà, vì nơi đây dân cư
đông đúc, xóm làng trù phú. Mọi sinh hoạt đều bắt rễ từ đấy rồi
tỏa ra khắp nơi trong nước. Địa bàn Dèkkan và Kashmir là hai cực
nam, bắc đã phân định hình thể địa dư bản xứ. Toàn cõi Ấn Độ có
một diện tích rộng lớn là trên ba triệu km2 (Ấn Độ) 935.000km2
(Hồi Quốc), bằng hơn 7 lần diện tích nước Pháp hay bằng hơn cả
Âu Châu, trừ nước Nga. Và Ấn Độ đứng hàng thứ hai về dân số
(1984: 688.600.00 người), bằng 1/5 tổng số nhân loại, bằng 10
lần dân số nước Pháp.* Thủ đô hiện nay là New Dehli. Nói về địa
thế Ấn Độ thật hùng vĩ, phía bắc có dãy núi Himalayas bao bọc,
phía nam là một đại hải mênh mông bát ngát... như cuốn hút tất
cả tinh hoa của trời đất tụ lại. Giòng sông thiêng Gange linh tú
trong xanh lững lờ đổ nguồn về vịnh Bengale làm tươi mát cả một
vùng đất rộng lớn. Và, hơn nữa; Ấn Độ được coi như là trung điểm
của địa cầu. Sở dĩ nền văn hóa, văn minh vĩ đại của Ấn Độ có
được vị thế độc tôn là do ảnh hưởng của hoàn cảnh, khí hậu,
thiên nhiên mà có. Nền văn hóa, văn minh ấy có một sắc thái khác
hẳn các tư trào văn hóa, văn minh hiện hữu trên thế giới (xin sẽ
bàn đến trong mục Văn Hóa ở dưới). Một khu vực có những che chở
thiên nhiên, có núi cao, biển rộng, sông dài... Đấy cũng là lẽ
tất yếu đã giúp Ấn Độ sớm nảy nở một nền văn hóa siêu đẳng: Văn
hóa Đạo Phật.
-
Hoàn Cảnh Xã Hội
-
Khi muốn biết trình
độ tiến hóa của một dân tộc, người ta căn cứ vào từng giai đoạn
và sự biến thiên của lịch sử dân tộc ấy, để thẩm định giá trị
của nó. Sau thời đại thái cổ, xã hội Ấn Độ tuy đã thoát qua thời
kỳ man dã, bán khai, tiến sang thời kỳ văn minh; nhưng... dân
chúng nơi đây vẫn luôn luôn sống trong tình trạng đói khổ và bị
áp bức, đời sống con người do đấy mà bị chi phối về mọi mặt.
-
*Về Nhân Chủng: Cách
nay khoảng bốn, năm nghìn năm, những người đầu tiên (Adivâsis) ở
bình nguyên Indus và ở rải rác trong xứ, gồm có các nhóm nhân
chúng (groupes ehtniques) Négroides và Proto Australoides. Các
người Négroides thì sinh tụ ở các rặng núi Cochin và Travancore,
có màu da gần như đen, đầu dài hoặc trung bình, tóc quăn thành
các xoáy trôn ốc dài. Còn các người Proto-Australoides thì ở
miền trung (Ấn Độ) và một số ở rải rác về phía bắc Ấn Độ. Ngày
nay nếu nói đến người bản xứ Ấn Độ là nhắc đến loại người đã
chiến thắng được các người Négroides, tức là người
Proto-Australoides "Dravidiens". Về nguồn gốc người bản xứ Ấn Độ
Dravidiens thì chúng ta rất it biết chắc chắn lắm. Có nhiều giả
thuyết đã được nêu lên. Rất hữu lý thì chúng ta phải nên chấp
nhận nguồn gốc người Dravidien phát tích từ Béloutchistan. Ngày
nay người ta còn thấy các người Brahuis ở vùng biên giới
Béloutchistan còn nói một thổ ngữ Dravidien. Có thể họ đã ở Ấn
Độ rồi sau này bị các người Aryens đẩy xuống phía nam Ấn Độ.
Cũng có thể họ đã ở khắp Ấn Độ trước khi người Aryens vào đây.
Có nhiều nhà bác học nhân chủng cho rằng các người
Paléo-Méditerranéens là những người bản xứ Ấn Độ ngày nay. Nhưng
cũng có người cho rằng họ hãy còn ở nam bán đảo Dekkan và là
giống người căn bản cho Đông Nam A, từ quần đảo Andanans tới
quần đảo Indonésiens. Người Dravidien vốn sinh trưởng từ trước ở
Ấn Độ, có nước da ngăm ngăm, tóc quăn, vóc người tầm thước.
Người Aryens thì sáng nước da, cơ người to lớn, mũi thẳng, khôn
ngoan hơn đã đột nhập tại lưu vực Ấn Độ hà; mãi về sau từ phía
tây bắc vượt qua các thung lũng dõi theo núi Tuyết (Himalaya)
vào khai lập ở lưu Ngũ Hà. Có một sự kiện mà chúng ta nên lưu ý
là có vài bộ lạc mang huyết tố Dravidien lại nói thổ ngữ gốc
Aryen, như trường hợp các người Bhil thuột bộ lạc Mounda, hiện
lưu cư tại miền cao nguyên Dekkan. Trước hết, ta nên để ý các
giống người Paléo-Méditerranéens có một vị tri địa dư nhân chúng
rất lớn cũng như khi ta nói đến nhân chúng Négroide đấy mới chỉ
là đứng về phương diện nhân chúng mà xét, như vậy là đả ngoại
trừ các yếu tố quốc gia, chính trị... Nói tóm, Ấn Độ gồm có 5
nhóm nhân chủng chính: đó là các người da đen Phi châu; như các
người Proto-Australoides, thuộc giống Úc Châu. Ngoài hai loại
người này còn có giống người Paleo-Méditerranéens, các người
Austro-Asiatiques (Nam A), các người Armenoides và Alpins... Về
nhân số thì nước Cộng Hòa Ấn Độ hiện nay có khoảng trên sáu trăm
triệu người.
-
* Về
Kinh Tế:
-
Ấn Độ là dải đất
"phì nhiêu" rộng lớn rất thuận tiện cho sự trồng trọt, canh tác
của người bản xứ. Về Canh Nông là nghề chinh của các dân tộc
chịu ảnh hưởng nền văn hóa thảo mộc đông phương, do đó mà người
Ấn Độ rất cần củ, nhẩn nại. Nông sán chính là lúa gạo và lúa mì,
nhưng theo lối canh tác cô xưa, dụng cụ thô sơ, sự thu hoạch rất
kém cói... nên dân Ấn Độ rất nghèo! Để bù vào sự thiếu hụt đó,
các sản vật khác củng giúp cho sự mưu sinh đỡ phải chật vật, như
bông, đay, gai, mía, chè và các nghệ chăn nuôi súc vật... Về Kỹ
Nghệ, Ấn Độ có kỹ nghệ cổ truyền, như làm đồ gốm, luyện kim,
thuộc da, đan đồ dùng bằng tơ, dệt vải v.v... Có chì, kẽm, dầu
hỏa và có nhiều mỏ than, sắt là những nguồn tài nguyên giàu có
của quốc gia này. Về Thương Mại, các đường thông thương tiện lợi
vẫn là phía tây bắc Ấn Độ với vùng Thượng Huyền. Ngay từ bán sơ,
ta có thê xép Ấn Độ đứng hàng thứ hai thứ ba trên hoàn cầu. Vì
hầu hết các đô thị lớn đều tiện đường giao thương, có rất nhiều
đường bộ và thủy thuận tiện cho sự xuất, nhập cảng như
Calcutta, Bombay, Karatchi, Madras là nơi có những hải cảng quan
trọng...
-
Đáng lý với hoàn cảnh
thuận tiện ấy, dân chúng Ấn Độ không đến nổi nghèo khổ suốt đời
phải lao lực, bận bịu trong những kẻ mưu sinh vụn vặt, tầm
thường mới phải, nhưng, tại sao dân chúng vẩn nghèo khổ, so với
các quốc gia khác trên thế giới? Ta hảy nhìn vào hoàn cảnh xã
hội sinh hoạt chính trị từng thời đại để tìm nguyên nhân trả lời
cho câu hỏi kia.
-
Về Chính Trị, từ
nghìn xưa, xã hội Ấn Độ có truyền thống là một xã hội đẳng cấp,
nhất là sau cuộc di dân vĩ đại của nhũng người Aryens thấm nhập
và đồng hóa dân tọc này. Với mục đích chia để trị, họ đã phân
định xã hội Ấn Độ thành bốn đắng cấp cách biệt hắn nhau. Bốn
đẳng cấp ấy là: 1. Brahmanes, những thày tu (giáo sĩ Bà La Môn)
giữ việc lễ nghi cúng hiến; 2. Ksatryas (Sát Đế Lị), giòng dòi
những người quyền qui, nắm giữ chính quyền, cai trị dân chúng;
3. Vaisyas (Phệ xá), những người buôn bán, làm ruộng, suốt đời
cày thuê làm mướn; 4. Sudras (Thú Đà La), giống thổ dân ở những
nơi rừng núi thâm u và làm tôi mọi suốt đời... Dòng tình cản
đồng loại bị chia cắt. Sự tranh chấp giữa các đẳng cấp trong xã
hội có khi ngấm ngẫm, có khi bộc phát, làm cho bầu không khí
nghẹt thở, khó chịu, mỗi ngày thêm căng thẳng, trầm trọng. Những
người thiệt thòi nhất trong xã hội là hai lớp người Vaisyas và
Sudras. Họ không có một tia hy vọng nào được giải phóng cả.
Ngoài bốn đẳng cấp ấy, còn một hạng người man rợ - hạng người
Parias đời sống của họ khó hơn con vật, không bao giờ biết có
ánh sáng mặt trời! Thật là cảnh địa ngục ở trần gian. Tại sao
cùng là một kiếp người lại sự chênh lệch đến thế?!
-
Và... còn biết bao sự
đao khổ dày vò thể xác lẫn tâm hồn, họ đành phải nhận chịu một
phần do ảnh hưởng xã hội đế chế phong kiến cổ thời và một phần
chính do tư tưởng Bà La Môn giáo gây ra... Điều này to không lấy
làm lạ. Khi dòng Bà La Môn đã tạo được lực lượng tôn giáo, lẽ
tất nhiên họ sẽ tìm đủ mọi cách giữ gìn địa vị của mình, và muốn
mãi mãi duy trì chế độ đắng cấp, nên đã vin vào những thần
thuyết mơ hồ, thiếu căn cứ, đặt ra một bộ luật có tính cách nữa
chính trị, nửa tôn giáo, bộ luật Manou, có những đều: cấm chỉ sự
hôn phối giũa những người thuộc đăng cấp khác nhau. Đạo đức, tôn
giáo lúc này chỉ còn là hình thức, đời sống hỗn độn, con người
không có tự do, thiếu sinh khí, không biết gì là hứng thú sống
còn! Suốt đời họ phải nại lưng ra làm việc để kiếm miếng ăn
manh áo mặc cũng không đủ, lại còn phải đóng góp đủ thứ sưu cao
thuế nặng để cung phụng cho bọn cai trị mình thụ hưởng một cách
phi lý. Cuộc sống của họ thật cơ cực, vất vả, thiếu thốn... Một
chế độ đẳng cấp (système des castes) bất bình đẳng đương nhiên
không thể đứng vững được. Chỉ có những hạng người bạc nhược, thụ
động, ích kỷ mới chịu thu hình trong một hoàn cảnh đã rồi. Những
người có tâm hồn thức giác, biết nhìn xa, trông rộng, có chí khí
sắt đá, chỉ chờ cơ hội là cuộc cách mạng tương lai bộc phát.
Phong trào "phản kháng" mỗi ngây thêm tỏ rõ, mãnh liệt...!!
-
* Về Văn
Hóa:
Ngay từ buổi rạng đông, Ấn Độ đã sớm có một nền văn minh, những
ngôn ngữ, văn tự (Phạm văn = Sanskrit và Pali) riêng, đại biểu
xứng đáng cho nền Văn Hóa Nhân Bản Toàn Diện: đó là sự ưa sống
trầm hùng, đượm sắc thái Tự do, giải thoát. Người Ấn Độ rất
thông minh và giàu tình cảm. Đứng về phương diện quốc gia thì,
văn minh Ấn Độ có rất nhiều nhân chủng tạo dựng. Đại loại người
ta chia ra làm hai. Đó là văn minh bắc Ấn, thuộc nền văn minh
nam Ấn, thuộc người da màu. Văn minh da màu có trước văn minh da
trắng. Nền văn minh này còn gọi là văn minh tiền Aryenne
(Civilisation pré-Aryenne). Nhưng đứng về thời gian mà nói, nền
văn minh tiền Aryenne được gọi là nền văn minh bán xứ.
-
Để tránh ngộ nhận ta
gọi là văn minh Dravidienne (Civilisation Dravidienne). Văn minh
Dravidienne chịu ảnh hưởng của các nền văn minh khác. Nói thế
tức có nghĩa nền văn minh nhân chúng Dravidienne là một sự tổng
hợp khá bền chặt giữa các mối liên lạc của các vùng Địa Trung
Hải và Cận Động. Văn minh bản xứ Ấn Độ cũng rất huy hoàng không
kém các vùng khác, trái lại còn có nhiều điểm ưu thắng hơn.
Người Aryens đã không đóng góp gì vào nền văn minh thành thị
nguyên thủy Ấn Độ, hay nói khác là nền văn minh tiền Aryenne,
tức là nền văn minh tây bắc Ấn Độ, vùng sông Indus. Văn minh này
có các biên giới thiên nhiên che chở. Phía bắc có rặng núi
Himalayas; tây nam có biển Oman; đông nam có vịnh Bengale.
-
Do đó Ấn Độ là vùng
đặc thù của phần đất thuộc văn minh Âu - Á (Eurasie). Ấ Độ có
cửa ngõ gần như duy nhất để tiếp xúc với vùng Âu A ở tại phía
bắc. Nơi đây các dân cư Ấn Độ và các vùng lân cận giao tiếp theo
hai ngả đường. Ngả thứ nhất bằng con sông Caboul, qua Khaĩber.
Ngả thứ hai bằng các thung lũng của hai con sông Kouran và
Gounal, qua Waziristàn. Khaĩber là cửa ngõ đưa vào bắc Pendjab.
Waziristàn là đại lộ vào vùng trung Pendjab. Ta có thể nói được
là vùng tây bắc, vùng sông Indus, chính là cuống họng đưa chất
dinh dưỡng hay độc tố vào nội địa Ấn Độ; người Aryens vào khoảng
giữa đô thị thiên niên kỷ, người Macédoniens do đại đế Alexandre
le Grand năm 326 và năm 180 TTL; người Grecs Bactriane; người
Indo - Scythes vào khoảng thời đại Jésus. - Christ; người Hung
Nô (Huns) vào khoảng 450 TTL; người Turca - Afghans từ năm 1.000
TL, người Grands Moghols từ 1526 TL, đều qua ngả tây bắc để vào
Ấn Độ. Bất luận vào thời đại nào, dù văn minh phế hưng ra sao,
Ấn Độ vẫn mang đặc tinh thế giới sứ là nhờ vào các cửa ngõ ở
phía tây bắc Ấn. Các cửa ngõ này đã quyết định cường độ văn minh
bình nguyên Ấn Hằng nhiều nhất và có tính cách trực tiếp, rồi từ
đó ảnh hưởng lan dần xuống cao nguyên Dekkan ở phía nam Ấn Độ.
-
Nền văn minh Ấn Độ có
vẻ trầm lặng nhưng oai hùng hơn các vùng khác; tuy cùng mang một
đặc tính "định cư, nông nghiệp, thành thị". Cái đặc tính trầm
lặng này của Ấn Độ ngày nay vẫn còn.
-
Nền văn minh cổ nhất
và có tính cách ngoạn mục mới được khai quật gần đây, nằm trong
vùng tây bắc Ấn Độ, thuộc Khaipur ở Pendjab.
-
Địa danh này mang tên
Kot Diji. Kot Diji hợp với Mohenjo-daro và Harappa, thành địa
danh văn minh tối cố của Ấn Độ. Kot Diji đứng vào hàng cổ nhất.
-
Ta có thể nói là từ
năm nghìn năm nay, bình nguyên sông Indus là nơi đắc địa cho các
nền văn minh đầu tiên của Ấn Độ khai mở. Nghệ thuật, thủ công
nghệ và cả hệ thống chữ viết nữa đã đạt tới mức vô cùng sáng
sủa. Tiếng Hindia thuộc dòng những tiếng Indo Européenne, cùng
một nguồn gốc ngữ tộc với tiếng Phạm, nghĩa là của những dân tộc
có tổ tiên là người Ấn Âu. Người Ấn Độ bản xứ là hậu duệ của
giống dân da sậm có liên lạc huyết thống (xa hay gần) với nhân
chủng Négroĩdes và Proto-Australoĩdes... Như vậy ta có thể kết
luận tiếng Phạm đứng hàng đầu trong loại Indo-Européenne.
-
Ba khu vực có giống
người gây thành xã hội trên thế giới:
-
1. Lưu vực giữa hai
con sông Dương Tử và Hoàng Hà.
-
2. Đồng bằng sông
Nil.
-
3. Đồng bằng sông
Hằng.
-
Ba khu vực có ba
luồng từ tưởng khác nhau và là căn bản của nhân loại
-
Từ đồng bằng sông
dương tứ thuộc một thứ tiếng khác hẳn, loại tiếng liên âm của
những người phi châu, còn hâù hết loại đa âm đều thuộc dòng
Indo-Européene, trừ những dụng ngữ hằng ngày để sống, từ khu vực
có khác nhau, còn những ngữ thuật [termes savants] để biểu lộ tư
tưởng lúc đầu [tời thượng cổ] phần lớn lọai đa âm đều mượn ở
phạm văn.
-
Các học giả chia làm
tám nghành của Indo-Européenne
-
1. Nghành Aryenne hay
indo - iranienne gồm cáctiếng ấn, ba tưvà phạm, Arabe v.v…
-
2. Nghành Arménien,
một phần nước nga
-
3. Hi lạp [cổ và
kim],Ionien, Altique, Dorien v. .v..
-
4. Albanie, giáp
giới nga và trung đông.
-
5. Nghành Italique,
gồm Y, LA Mã, LA tinh v.v..
-
6. Nghành Celtique,
phần nhiều là từ - ngữ. gồm pháp, một phần Anh,bồ.
-
7. Nghành Germanique.
gồm Aí Nhĩ Lan. Scandinave, các tiếng Đức, Phổ, Anh và Anglo-
Saxon.
-
8. Nghành
Balto-Slave. Lithuanie. NGA. BA Lan. Tiệp. Bulgarie, các dân
tộc Nam tư [sevbo- croate].
-
Văn minh phạm còn có
một công trình lớn là đầu tiên dùng chữ số như chữ số ngày nay
ta viết, nhớ lại con số cuả người trung hoa hay la mã không thể
naò đặt con tính được, chữ ai cập cũng vậy, phạm văn đầu tiên đã
dùng số hệ [syetème numérique] nhân muời như ngày nay,và nghĩ ra
con số "không"(zézo),trong chữ số, ta có thể nhờ đó mơí có toán
học. Tiếng phạm thuộc trong những loại đa âm hiện có trên thế
giới nhưng tiếng phổ thông mà ngày nay dân chúng Ấn độ bắt buộc
phải dùng để thống nhất ngôn ngữ là tiếng hindi, có gốc từ chữ
phạm và ngôn ngữ Ấn âu hơn là những tiếng địa phưong có gốc từ
tiếng moundari và dravidien, còn vềlối chữ cổ Ấn độ như ta biết
theo lối tượng hình, giống lối chắp A.B.C... Ngày nay đại đa số
các nước tiên tiến đều dùng lối chữ trên, và cả các việc ấn
loát, tốc ký và điện tín cũng dựa vào lối viết ấy. một dân tộc
có quá trình tiến hóa như ấn độ, lẽ dĩ nhiên những tư tưỡng về
tôn giáo, triết học cũng sớm được nảy mầm, giờ đây ta hãy đi
vàolĩnh vực ấy để tìm hiểu...
-
* Tư tưởng siêu nhiên
thời đại hồng hoang, bất cứ dân tộc nào, xã hội loài người cũng
sùng bái thiên nhiên. ngoài tư trào tôn giáo, họ chưa có ý
thức về triệt học hoặc luân lý nhân đứng trước bầu trời mặt đất
rộng lớn, với cảnh tượng kỳ lạ như sắm chớp, trăng sao núi
sông... họ sinh lòng tín ngưỡng tôn giáo, triết học và mê tín ở
ấn độ cũng như hầu hết các dân tộc khác ở trên thế giới khi ý
thức con người vừa chớm nở, đều không vượt ra ngoài ra công lệ
ấy. Những bài ca tán tụng tôn giáo do đó mà làm ra, mục là để
cầu phúc, tiêu tai, sau lâu trở thành những lời sám bí truyền,
nhằm giải thích sự linh ứng của thần và sự tế tự, cầu đáo cùa
người ta, đấy là nguyên nhân chính để tạo lập ra bộ thánh kinh
véda. Véda là một bộ thánh kinh cổ nhất của xứ ấn độ. [véda,
dịch là "minh trí" "trí sáng" nghĩa là kinh này làm cho sáng
suốt, tỏ rỏ sự thật] kinh điển véda gồm có 4 lọai chính 1. Rig
-véda chép những bài ca tán tụng tôn giáo. 2. Sama véda, chép
những văn tế, giải thích càc lời nghi thức quan hệ. 3. Yajur
-véda, chép những chú thực tướng truyền , * Atharva -véda, chép
những lời giải đáp về các bì quyết, ma thuật v.v.. . kể tử
khi người Aryens xâm chiếm dùng bắc ấn độ thì lịch sử thánh
kinh cũng bắt đầu được kiến lập ngay từ buổi ban sơ, người
Aryens đã nghĩ đến sự bỏ củ thay mới, và tạo lập một lý thuyết
có tính chất kỳ thị và trực lợi làm nền tảng cho các bộ máy hành
chính sao này. đó là thứ lý thuyết lãnh đạo chí huy tổng quát
tầt cả cơ cấu của xã hội, một thứ hiến pháp bất thành văn. thứ
hiến pháp được xây dựng trên căn bản của bộ thánh kinh phệ đà
[véda]về sau, thánh cũng được sáng tác thêm các thần cũ chỉ còn
là một bóng mờ đối với những vị mới được tân chế các bộ thánh
kinh véda nhuờng chỗ cho các bộ mới ra đời. Đó là các bộ; té
nghi thư [Brahmana]sâm lâm thư [Aranyaka] và áo nghiã thư [U
panishad]vào thời kỳ thế nghi thư thì có tạo vật chú Prajapati,
và thời kỳ áo nghiã thư có thần Atman. hệ thống kinh điển thần
học và xã hội học được giải thích mỗi lúc thêm khó hiểu, và do
đó mới có nhiều nguồn tự do tưởng giải thích thánh kinh.
-
Sau thời đại véda tư
tưởng ấn độ bắt đầu chuyển biến, triết học do đấy được manh nha
con người không tinh vào thần thọai nữa muốn hiểu vũ trụ con
người đã vận dụng đến trí năng mình để khảo sát nó và, bắt nguồn
từ đấy, các phái triết học tiếp nhau ra đời. Trong những phái
triết học, hoặc dung hợp nhau nhưng tất cả là hướng tim cái
nguồn gốc của vũ trụ, có phải cho rằng "phạm thiên"[brahma] là
căn bản của vũ trụ, vạn hữu nhưng phái khác laị cho rằng "đất"
là gốc của vạn hữu; phái lại cho rằng "nước" là gốc, phái cho
rằng "lữa" là gốc phải cho rằng "gió" làgốc v.v... Tiến bộ một
nấc nữa, người ta bó vật chất [đầt, nước, gió, lửa]mà hướng về
chổ trừu tượng, nên có những phái lập ra "thời gian luân"
"phương hướng luận" "không gian luận"vv... rồi nào chủ quan,
khách quan, trừu tượng cụ thể nhất nguyên, đa nguyên, chủ động
chu tỉnh bao nhiêu tư tưởng khởi xướng trở thành một thời đại
hết sức hổn độn.
-
Có thể nói thời kỳ
này các tư tưởng gia ấn độ sinh hoạt rất náo nhiệt kinh Phật ghi
sổ mục có chín mươi hệ phái thần học, triết học khác nhau, nhưng
nổi bật nhất, vẫn là sáu triết phái, đó là.
-
1. Phái AJITA
Kesakambali, chủ trương "duy vật luận" con người là do các yếu
tố vật chất kết hợp tạo thành, khôngcó qủa dị thục các nghiệp
thiện ác, không có sự kết sinh tương tục trong đời mai sau, con
người chết là hết, thuyết này có tính cách chống lại thần cách
siêu hình của bà la môn giáo, không nhận có thượng đế [brahma]
sáng tạo vũ trụ và loài người, và lấy sự hưởng thụ vật chất làm
mục đích cứu cánh cuộc đời
-
2. Phái Pakudha
Kaccayana thì chủ trương thuyết "vạn vật thường tồn" vạn sự vạn
vật ở đời chẳng qua là do các yếu tố nhân duyên tạo thành vậy ta
không nên quan tâm tới chúng, vì nếu không, chỉ nhận lấy sự
đắng cay phiền não vô ích.
-
3. Phái Purana
Kasspa, chủ trương "ngẫu nhiên thuyết", cho rằng vạn vật có ở
đời, chỉ là ngẫu nhiên. không tin có luật nhân qủa. phủ nhận đạo
đức chẳng phải tôn thời, sùng bái gì cả. nói khác, đạo đức là
không tương cần phải phá bỏ, vì mọi liên hệ cuộc đời là ngẫu
nhiên. .
-
4. Phái Maakhali
Gosala lại chủ trương "tự nhiên thuyết", con người sinh ra đời
là bởi tự nhiên mọi sự họa phúc, vui hay khổ cùng là tự nhiên,
nó không bị ảnh huởng bất cứ một nguyên nhân nào chi phối cả.
-
5. Phái Sajaya
Belathiputta chủ trương "hoài nghi thuyết", ngụy biện rằng chân
lý không phải là không biến đổi, việc trước mắt ta vừa thấy đó,
ví dụ các hoa chẳng hạn, thoạt nhìn tưởng là nó vẫn y nguyên
nhưng sự thực thì, nó đã biến đổi từng chớp mắt, từ màu hống
thẫm chuyển sang màu hồng lợt đối với sự vật cũng thế, ta không
thể không hoài nghi về sự hiện hưũ của chúng.
-
6. Phái Nigantha
Nataputta, chủ trương thuyết "tương đối", nghĩa là không có cái
gì tuyệt đối cả. mọi con người sinh ra đời, lớn lên, làm việc
rồi chết; vậy bất cứ giải quyết vần đề gì, ta cũng nên chú ý đến
các yếu tinh tâm lý ngã - tha, để khỏi bị va chạm làm bẩn kiềp
sống con người trên cõi đời này, như, không gây ra các tội
lỗi, phát triển lòng từ, và điều cần yều là biết luyện thân
khắc khổ để cầu giải thoát kiếp sống chẳng ra gì [vì là tương
đối], thôi thì mong để một khi chết yên vui ở kiếp sau... Tiếp
sau đó, còn có những học phái khác lần lượt ra đời đó là sáu học
phái;
-
1. Nỳaya
-
2. Vaisésika
-
3. Samkhya
-
4. Yoga
-
5. Mimansa và
-
6. Védanta
-
Tư tưởng của sáu học
phái này chụi ảnh hưởng, hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp, của ba
thời kỳ Rig-Réda, Bràhmana và U pànishad, phần nội dung của nói
chỉ là khai triển điều [đã có] trong các thánh thư đôi khi cũng
có phát triển những điều mới lạ nhưng là để chứng minh cho những
thuyết lý của các thánh thư được sáng tỏ mà thôi.
-
Kiểm điểm lại, ta
thấy, tư tưởng ấn độ đã tuần tự phát triển một cách nhiệp nhàng.
Thọat đầu, con người còn sùng bái ánh sáng thiên nhiên, về sau,
sấm, chớp, gió, mưa, cũng được coi là có thần linh chi phối,
cai quản, đó là từ độc thần giáo [monothéisme]chuyển qua thời kỳ
ĐA thần giáo [Polythéisme] rồi từ đa thần giáo đi đến phiếm thần
giáo [Panthéisme]về sau tư tưởng càng ngày thêm sáng đạt, người
ta lại nảy ra những nghi ngờ và tự hỏi, căn bản của vũ trụ là
gì? -Nhân sinh ra đâu mà có? giá trị cũa thực sống ra sao? Những
câu hỏi hóc búa ấy là những roi đòn đánh váo tâm thức con người,
bắt phải suy nghĩ, do dó, tư tưởng triết học mỗi ngày khai triển
càng rộng, sâu thêm, nhằm giải đáp những mối băn khoăn, thắc mắc
của con người, về siêu hình cũng như về thực tại cuộc sống,
[xin xem vấn đề này ở phần luật thuyết ở dưới]
-
Nói tóm, ở ấn độ xưa,
trước đời đức Phật ra đồi, về tư tưởng, tôn giáo, triết thuyết
cũng như về mặt chính trị, kinh tế và xã hội thật là vô cùng
phức tạp, thêm vào đó, nạn kỳ thị tôn giáo cũng trầm trọng không
kém. Phía tây ấn độ là địa bàn hoạt động của bà la môn giáo
[Bbrahmanisme].phía đông thì thuộc kỳ na giáo [Jahìsme], hai tôn
giáo này tranh giành ảnh hưởng với nhau, và chi phối hoàn toàn
đời sống con người, không những về mặt tinh thần mà cả về phương
diện vật chất nữa, có thể nói đây là một thời đại loạn của sứ ấn
độ con người còn biết tinh tưởng, bám viú vào đâu nữa cả?
-
Giữa lúc hoàng cảnh
bế tắc ấy. đức phật xuất hiện như một mặt trời sáng rỡ buổi
sờm mai làm mất đi những bóng tối của đêm đen dày đặc, đang che
phủ cuộc đời. Ngài là cứu tinh không chỉ dành riêng cho xứ ấn
độ thời ấy, mà là của nhân loại chúng sinh. Thật vậy đức Phật
ngày đầu tiên xướng thuyết nhân bản, lấy con người làm cứu cánh
để giải quyết hết mọi vất đề bế tắc của thời đại cả về nhân
giới, tâm giới và siêu giới. giáo lý của đạo phật là như thật
[chân lý], là ánh sáng của trì tuệ và là niềm tin cho con người,
ở bất cứ thời gian, hoàn cảnh và nơi đâu... đấy là những đặc
điểm nguyên lý sáng lập đạo Phật.
-
Source: Phật
học tinh hoa, một tổng hợp giáo lý, viện triết lý Việt Nam và
triết học thế giới, California xuất bản năm 1999-08-25.
-
Địa chỉ liên lạc với
tác giả: (xin xem tiểu sử của tác giả ở Trang Danh Nhân Phật
Giáo VN trên Cùng Trang Web này)
-
Hòa
Thượng Đức Nhuận
-
Chùa
Giác Minh,
-
716 Điện
Biên Phủ,
-
Phường
11, Quận 10, T.PH.C.M -Việt
Nam.
-
Tel:
84.8. 8322548
-
- --o0o--
|
|