|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Tranh Chăn Trâu
-
Đại Thừa; Thiền Tông
-
Thích Tuệ Sỹ
-
--o0o--
-
-
MỤC NGƯU ĐỔ là tranh chăn trâu. Tranh ra đời tự triều đại nào,
dưới ngọn bút lông nào, khó mà tra cứu cho đích xác được. Điều
chắc chắn là tranh có từ xa xưa lắm, ban đầu chỉ có sáu bức, sau
thất lạc luôn. Mãi đến từ đời nhà Tống, thế kỷ XII, nhiều bộ
tranh mới bắt đầu xuất hiện từ các tòng lâm, thiền viện, phản
ảnh nhiều khuynh hướng khác nhau trong sự tu tập. Như vậy là
không phải chỉ có một bộ, mà nhiều bộ "mục ngưu đồ" khác nhau,
tất cả đều đượm nhuần tinh thần Phật giáo Bắc Tông. Trong số ấy
hiện nay được truyền tụng nhất là tranh của hai họa sĩ áo nâu
THANH CƯ và QUÁCH AM.
-
Tuy có nhiều bộ tranh, nhưng bộ nào cũng như bộ nào, đều có 10
bức, mỗi bức có một bài tụng bằng thơ tứ tuyệt, và một bài chú
giải bằng văn xuôi. Đó là về hình thức. Còn về tinh thần thì
tranh tuy có nhiều, nhưng có thể xếp thành hai loại : loại tranh
theo khuynh hướng Đại Thừa, và loại tranh theo khuynh hướng
Thiền Tông. Trong hai loại, tranh vẽ sai khác nhau hết, nhưng
bài tụng và chú riêng cho mỗi loại vẫn không thay đổi.
-
A.
TRANH ĐẠI THỪA
-
I. TRANH
-
Tranh Đại Thừa vẽ con trâu đen. Lần lượt qua từng bước họa, trâu
đen trổ trắng lần lần, trắng từ trên đỉnh đầu, lan dần xuống
mình, rồi chót đuôi.
-
Đó là tượng trưng cho phép tu TIỆM. Theo phép tu tiệm thì phải
rất nhiều công phu mới tiến lên được từng nấc thang giác ngộ ;
nhờ công phu, cái tâm vọng lần hồi gạn lọc được trần cấu mà sáng
lần lên, cũng như nhờ được dìu dắt mà con trâu hoang lâu ngày
chầy tháng thuần thục lần, và trắng lần lớp da đen dơ dáy :
-
Nhật cửu công thâm thỉ chuyển đầu
-
Điên cuồng tâm lực TIỆM điều nhu
-
(Công phu chầy tháng mới quay đầu
-
Tâm loạn lần hồi chịu thuận nhu)
-
Còn về thứ lớp thì bộ tranh Đại Thừa nào cũng mở đầu bằng bức
họa vi mục (chưa chăn) vẽ con trâu hoang, và khép lại bằng bức
họa song dẫn, vẽ một vòng tròn tượng trưng cho Viên Giác. "Song
dẫn" là dứt hết cả hai : trâu và mục đồng, tâm và cảnh, dứt được
hết là hiển hiện ánh Chơn Như lung linh trong màu cỏ nội hoa
ngàn :
-
Nhân ngưu bất kiến yểu vô tung
-
Minh nguyệt quang hàn vạn tượng không
-
Nhược vấn kỳ trung đoan đích ý
-
Dã hoa phương thảo tự tùng tùng
-
Nghĩa :
-
Người trâu chẳng thấy biệt mù tăm
-
Trăng sáng soi trùm muôn tượng không
-
Ví hỏi vì sao đoan đích ấy
-
Um tùm cỏ nội với hoa đồng
-
Chúng ta có thể thưởng thức vài bộ tranh chăn trâu loại Đại Thừa
nầy trong cuốn Judo International của Liên Đoàn Nhu Đạo Pháp
quốc, do Jagarin sao lục lại và có dịch luôn các bài tụng và chú
; trong Phật Học Tinh Hoa của giáo sư Nguyễn Duy Cần (phần phụ
lục) ; trong pho sách cổ "Mục ngưu đồ" bằng chữ Hán tại thư viện
chùa Xá Lợi ; trong tập "Học làm Phật" của thầy Trường Lạc (chùa
Linh Chưởng ấn hành, 1964) trong ấy có đủ mười bài thơ chăn trâu
Đại Thừa, vừa nguyên tác vừa bản dịch của Tuệ Nhuận.
-
II. NỘI DUNG
-
Đề tài chung của các loại tranh chăn trâu là đường lối tu tập.
Đường lối tuy nhiều, song không ngoài việc bắt tâm. Nên thập mục
ngưu đồ có thể coi như là lời giải đáp cho câu hỏi trong kinh
Kim Cương :
-
"Vân hà hàng phục kì tâm ?"
-
(Làm sao làm chủ được cái tâm ?)
-
Tâm ở đây là con trâu. Vì có trâu nên có mục đồng. Vì có tâm nên
có cảnh. Tất cả cố gắng của Đại Thừa đều nhắm vào sự "cột" trâu,
tức là "điều tâm" vậy. Tâm là con trâu hoang. Muốn trị nó phải
dùng những biện pháp mạnh, như đánh bằng roi, xỏ mũi bằng giây
lòi tói v.v... Cũng vậy, muốn trị tâm, cần quy y, giữ giới cấm,
phát tâm bồ đề v.v... Lâu ngày chầy tháng, trâu trở nên thuần
thục, tâm trở nên điều hòa. Đó là bước đầu, diễn tả bằng năm bức
họa đầu : "vị mục, sơ điều, thọ chế, hồi thủ và tuần phục". Đó
là giai đoạn của GIỚI vậy, mở đường cho ĐỊNH phát sanh trong
giai đoạn kế.
-
Trong giai đoạn nầy, tâm đã tuần phục, khỏi phải chăn giữ. Tâm
đã định, không gặp gì chướng ngại.
-
Tâm định là ngã chấp hết, song vẫn còn pháp chấp.
-
Đó là bước tu chứng của hàng tiểu thừa (thanh văn và duyên giác)
diễn đạt bằng hai bức họa "vô ngại" và "nhiệm vận".
-
Cần đi thêm bước nữa, khai thác HUỆ giác đến chỗ TÂM
vô TÂM :
-
"Nhân vô tâm, ngưu diệc vô tâm".
-
Đến đây mới phá được pháp chấp : pháp cũng không, mà ngã cũng
không, trâu cũng mất mà người cũng mất, cảnh cũng quên mà tâm
cũng quên. Trước hết trâu mất còn người. Rồi người cũng mất
luôn. Đó là cảnh giới của Bồ tát, diễn tả bằng hai bức họa
"tương vong" và "độc chiếu"
-
"Tâm cảnh song vong nãi thị chân pháp".
-
Từ đó, đi thêm bước nữa vào cảnh giới Như Lai, không nói được
nên lời, mà chỉ có thể hình dung bằng một vòng tròn : Viên Giác.
Đó là ý nghĩa của bức tranh chót (song dẫn) khép lại quá trình
tu chứng theo TIỆM GIÁO, đi từ giới đến định và huệ, từ thanh
văn, duyên giác đến bồ tát, Phật, từ hữu tâm đến tâm và vô tâm,
từ chỗ tất cả đều có đến chân pháp đều không v.v... Đó là vô dư
Niết Bàn.
-
Tóm lại, "Thập mục ngưu đồ" vẽ lại quá trình công phu của người
học đạo, trước hết tự thắng bản năng mình, sau đến tự tri, cuối
cùng chỉ để tự tại thôi (être simplement). Cái vòng tròn cuối
cùng (tranh 10 : song dẫn) tượng trưng sự đoạn tuyệt với tất cả
những nếp suy tư của chúng ta, cắt đứt hẳn một trạng thái ý thức
và hiện hữu mà thường chúng ta không được biết".
(J. L. Jagarin : Le Judo International)
-
B.
TRANH THIỀN TÔNG
-
I. TRANH
-
Tranh Thiền Tông có loại vẽ con trâu đen, có loại vẽ con trâu
trắng. Trâu trắng là ý nói "bạch ngưu xa", xe trâu trắng, tức là
Phật thừa. Đạo Phật có ba thừa - ba cỗ xe - là xe dê, xe nai và
xe trâu (thường) chở các hàng thanh văn, duyên giác và bồ tát ra
khỏi nhà lửa mà thành đạo. Tuy nhiên, ba thừa chỉ là phương tiện
giả lập lên, những hóa thành, những pháp môn tiếp dẫn dùng cho
người kém khí lực. Đối với hạng thượng căn thì chỉ một thừa thôi
- Phật thừa - trực tiếp đưa người vào cảnh giác. Phật thừa là
"bạch ngưu xa". Bạch ngưu xa, chính là cái tâm đại giác viên mãn
của Phật. Thiền Tông chủ trương trực tiếp thành Phật là vậy.
-
Tuy nhiên, lý thuyết là lý thuyết, loại tranh vẽ trâu trắng vẫn
hiếm hoi, ít thưởng thức bằng loại tranh vẽ trâu đen, rắn rỏi,
mộc mạc, gần cuộc sống hơn.
-
Dầu trắng hay đen, con trâu Thiền đều giữ nguyên vẹn một màu
lông qua các giai đoạn biến chuyển. Đó là phép tu ĐỐN. Đốn giáo
dạy rằng người ta thành Phật là thành ở nội tâm, "hoát nhiên" mà
thành, không phải thành lần hồi, theo cấp bực ; xưa nay chưa hề
có Phật cấp bực bao giờ (Bổn lai vô thứ đệ Phật - Hy Vận), nên
người ta hoặc là Phật, hoặc không là Phật, chớ không thể suýt
thành Phật, Phật chút chút, lai rai được.
-
Còn về thứ lớp thì tranh Thiền Tông nào cũng mở đầu bằng bức họa
tầm ngưu, vẽ một chú mục đồng đi tìm trâu (trâu không có trong
hình) và khép lại bằng bức họa nhập triền thùy thủ (buông tay
vào chợ) vẽ một nhà sư trộn lẫn cùng thế tục.
-
Riêng về cái vòng tròn Viên Giác nằm ở bức họa thứ 10 của Đại
Thừa, qua bên Thiền Tông lại thụt lùi về hàng thứ 8, mà đề là
nhân ngưu câu vong, nghĩa là trâu và người đều quên. Bảng đối
chiếu sau đây cho ta thấy sự sai khác nhau giữa hai loại tranh,
về hình thức cũng như về nội dung :
-
TRANH ĐẠI THỪA TRANH THIỀN TÔNG
-
1. Vị mục : chưa chăn 1. Tầm ngưu :
tìm trâu
-
. Sơ điều : mới chăn 2. Kiến tích : thấy dấu
-
3. Thọ chế : chịu phép 3. Kiến ngưu :
thấy trâu
-
4. Hồi thủ : quày đầu 4. Đắc ngưu :
được trâu
-
5. Tuần phục : vâng chịu 5. Mục ngưu : chăn trâu
-
6. Vô ngại : không ngại 6. Kỵ ngưu qui gia: cỡi trâu
về nhà
-
7. Nhiệm vận : tha hồ 7. Vong ngưu tồn nhân : quên
trâu còn người
-
8. Tương vong : cùng quên 8. Nhân ngưu câu
vong : người trâu đều quên
-
(vẽ vòng tròn)
-
9. Độc chiếu : soi riêng 9. Phản bổn hoàn nguyên :
trở về nguồn cội
-
10. Song dẫn : dứt cả hai 10. Nhập triều thùy thủ :
thõng tay vào chợ
-
(vẽ vòng tròn)
-
Chúng ta có thể thưởng thức loại tranh này tại chùa Tam Tông
Miếu, đường Cao Thắng Sài Gòn ; tranh vẽ lớn trên tường bằng sơn
dầu, tại chánh điện ; tuy nét bút thiếu cổ kính, tranh cũng phản
ảnh phần nào cái thiền phong ngày trước.
-
Ngoài ra, chúng ta có thể tìm xem nhiều loại khác trong các tác
phẩm sau đây của hội Phật học Luân Đôn, do giáo sư Thiền học
Suzuki biên soạn :
-
- The Ten Oxherding Pictures,
-
- Manual of Zen Buddhism,
-
- Essays in Zen Buddhism, First Series.
-
- Còn một loại tranh khác, rất cổ kính, in bằng mộc bản, do Paul
Reps sưu tập trong tác phẩm Zenflesh Zen bones (Thiền cốt Thiền
nhục), xuất bản tại Nhật (Ed. Charles E. Tuttle Co - Rutland
Vermont - Tokyo Japan - 1957). Chính từ tác phẩm này chúng tôi
trích in lại mười bức họa sau đây.
-
II. NỘI DUNG
-
Cũng như ở hầu hết các pháp môn khác, vấn đề đặt ra cho Thiền
vẫn là sự "hàng phục kỳ tâm". Tâm của Đại Thừa là ngã tướng. Đến
Thiền thì cái ngã được thâu hẹp thành cái niệm. "Tôi tư duy, tức
có tôi". Niệm là ý nghĩ, là tư duy, là intellect, được coi là
phần tử cốt cán của cái "tôi". Nên Thiền dạy vô niệm, dạy cắt
đứt suy tư, bất cứ suy tư gì :
-
Vô niệm : niệm tức chánh
-
Hữu niệm : niệm thành tà
-
(Pháp bửu đàn kinh)
-
Do đó Thiền ký
luận, không giảng dạy, thường chỉ ngậm miệng quên lời, thảng
hoặc có nói thì thường chỉ nói bằng lối phi lý luận. Trong quá
trình phân phái của đạo Phật, Thiền quả là nhát búa cuối cùng
của Đại Thừa đập vào óc thông minh ưa lý luận mà loài người
chúng ta hằng tự phụ.
-
***
-
Trong hệ thống các pháp môn, Thiền là đốn giáo, chủ trương thấy
được tánh là tức khắc thành Phật, tại đây và ngay ở phút giây
này.
-
Tuy nhiên, pháp môn nào cũng có tu và có chứng. Chứng là một
biến cố đột ngột, ngoài thời gian. Đó là một sự thật quá ư thật,
như tiểu sử nhiều thiền tổ đã chứng rõ. Tuy nhiên, cũng vẫn
những tiểu sử ấy còn cho ta thấy trước khi được đốn ngộ, hầu hết
các tổ, và trước hết là Phật Tổ, đều trải qua nhiều đoạn đường
dọ dẫm rất gay go. Như vậy là sự tu tập vẫn phải đặt trong chiều
thời gian mà đi đến lần hồi vậy, hay nói một cách khác : tu thì
tiệm mà chứng thì đồn.
-
***
-
THẬP MỤC NGƯU ĐỔ của Thiền Tông cũng ghi lại bước tiến từng bực
ấy trong thời gian và không gian.
-
Chúng tôi xin trình bày bước tiến ấy theo ba đoạn đường : sai
tâm bắt tâm - tâm vô tâm - bình thường tâm.
-
1. SAI TÂM BẮT TÂM
-
Chú mục đồng đi tìm trâu (tranh 1). Tìm ở đâu ? Đâu cũng là
hoang vu, là rừng rậm, là nẻo dọc đường ngang, chỉ có tiếng ve
kêu rộn rã đầu cành.
-
Rồi chú thấy dấu chân trâu (tranh 2), thấy thân trâu (tranh 3).
Thì ra trâu có mất đi đâu, tại chú không thấy đó thôi. Trâu vẫn
đứng đó một mình, tự thuở nào, đôi sừng lẫm liệt, mũi đụng mây
xanh.
-
Rồi chú chụp lấy trâu (tranh 4), rồi xỏ mũi, cột cổ, đập đánh,
canh chừng không rời mắt, quyết dõng mãnh để mà chiến thắng. Lần
lần trâu thuần tánh ngoan ngoãn theo chú như bóng theo hình
(tranh 5). Rồi chú cỡi trâu về nhà, miệng thổi sáo, hát líu lo,
lòng vui không nói được (tranh 6 : kgưu
quy gia).
-
Cỡi trâu về nhà là cỡi tâm về chỗ ban sơ.
-
Người ta đi tìm trâu vì trong đôi giây phút khác thường nào đó,
người ta đâm ngờ bản thân mình, cũng như ngờ những điều mắt thấy
tai nghe. Có nghi mới có tìm. Có tìm ắt gặp dấu. Gặp dấu trong
kinh sách, và nhất là trong những phút trống trải, cảnh vắng,
đêm tàn, trí óc nhẹ suy tư, con người bỗng dưng như đối diện với
chính mình trong một niềm đau thương và kỳ thú khó nói.
-
Thế là bắt được dấu, con người phăn mối đi tìm trâu. Đó là giai
đoạn ngoại cầu. Ngoại cầu là "khiến Phật đi tìm Phật, sai tâm đi
bắt tâm" (Hy Vận). Tâm ở đâu mà bắt ? Thử coi : lần lượt qua sáu
bức họa, ta thấy khoảng cách giữa trâu và người chăn trâu cứ
thâu ngắn lại mãi cho đến rốt cuộc người chăn trâu ngồi hẳn trên
lưng trâu, trâu với người nhập làm một. Vậy nên hỏi rằng tâm ở
đâu chẳng khác nào hỏi trâu ở đâu trong khi chính ta đang cỡi
trên lưng trâu. Ta đã đuổi bắt tâm khắp đó đây, rốt cuộc mới
nhận ra rằng tâm ở nơi ta ; ta chỉ cần dừng bước lại là nó hiện
liền trước mắt, và sự vật hiện nguyên hình trong ánh sáng mới
lạ.
-
Dừng bước lại : ai ngờ đâu cái việc làm hết sức là vô vi ấy lại
có một thần lực nhiệm mầu có thể thay đổi cả cuộc diện của một
kiếp người, cả một lớp người. Nếu thỉnh thoảng loài người chúng
ta biết dừng chân lại vài phút, ngồi im một chỗ vài phút - vài
phút thôi - thì khuôn mặt của thế gian nầy chắc không đến đỗi
quá nhăn nhíu như ngày nay.
-
2. TÂM VÔ TÂM
-
Tuy nhiên, còn tâm là còn cảnh. Còn cảnh thì còn "xúc cảnh sanh
tình". "Tình sanh thì trí cách". Tâm, cảnh, tình kết dính vào
nhau trong cái thế liên hoàn, cái vòng nhơn duyên gây ray rứt,
mâu thuẫn.
-
Đạo không có mâu thuẫn. Thiền là "bất nhị pháp môn", không hai
mà cũng không một.
-
Mâu thuẫn là do tâm, do niệm.
-
Ta niệm vì ta tưởng rằng mình thiếu một cái gì, nên đi tìm ở
ngoài mình để đắp vào. Thiền dạy rằng ta không thiếu gì hết, tự
đời thuở nào ta vốn là tròn đầy, ngàn trước, ngàn sau. Ta không
thiếu. Trái lại ta có dư : cái hại là ở đó. Ta dư đủ thứ do niệm
đặt bày ra, do suy tư vẽ vời thêm, đủ thứ. Những cái dư ấy, gọi
chung là vô minh. Vô minh vốn không thật, nên không ai hoài công
mà trừ nó bao giờ, mà chỉ cần tự tri tự giác thôi. Tự biết được
"con người thật" của mình thì vô minh tan mất, như bóng tối tan
trước vừng dương. Phật dạy trong kinh Viên Giác :
-
tri huyễn tức li
-
li huyễn tức giác là vậy.
-
Cũng vậy, khi sư Huệ Khả ra mắt tổ Đạt Ma xin pháp an tâm, Tổ
dạy : Người đem "tâm" lại đây ta "an" cho. Sư lính quýnh hồi
lâu, sau đành thú thiệt : Con tìm mãi mà không thấy được tâm. Tổ
dạy : Thầy đã "an" rồi cái "tâm" của con đó.
-
Như vậy, cái việc mà ta quen gọi là phá vọng không còn là một
việc làm nữa - nếu không nói là một việc làm VÔ VI - mà xét cùng
ra chỉ là một sự nhận thức thôi, một prise de conscience - nhận
thức tánh Phật bổn lai ở trong ta.
-
Vậy, sau giai đoạn ngoại cầu, tiếp theo là giai đoạn tự tri tự
giác. Tự tri không phải bằng suy niệm mà bằng dứt niệm; dứt niệm
bằng những phép tu tập rất vô vi, như tịnh quán chẳng hạn. Bằng
tịnh quán, con người thấy, - xin nói rõ là thấy, là kiến, là tri
kiến, chớ không phải là học, là nghĩ, hay nghe nói, (tất cả bí
quyết của sự chứng ngộ đều nằm ở chữ thấy đó) - thấy tâm không
thật, thấy người không thật.
-
Thấy tâm không thật thì tâm dứt : trâu quên (tranh 7 : vong ngưu
tồn nhân).
-
Thấy người không thật thì người quên nốt (tranh 8 : nhân ngưu
câu vong).
-
Người và trâu đều quên, thì tự lòng đất dõng mãnh vọt lên mặt
trời huệ, tượng trưng bằng cái vòng tròn Viên Giác (tranh 8). Đó
là Tâm vô Tâm. "Biết cái tâm là không tâm, ấy là hiểu suốt đạo
Phật".
-
Sau đây, chúng tôi xin mượn lời giáo sư Thiền học Suzuki đóng
lại đoạn nầy :
-
"Đứng về mặt tâm lý, giác là vượt ra ngoài vòng ràng
buộc của bản ngã".
-
"Về mặt lý luận, giác là viên dung có và không".
-
"Về mặt siêu hình, giác là trực ngộ được cái lẽ tự tại là luân
hồi, luân hồi là tự tại".
-
3. BÌNH THƯỜNG TÂM
-
Thiền cho rằng vô tâm chưa phải là đạo, mà còn phải qua một quan
ải nữa:
-
Mạc vị vô tâm vân thị đạo
-
Vô tâm do cách nhất trùng quan.
-
( Trần Thái Tôn)
-
Thật vậy, trong đêm cuối cùng, khi đức Phật ngồi ở cột bồ đề,
Ngài lần lượt xuất gia và nhập ba từng cảnh giới tâm linh (dục
giới, sắc giới, vô sắc giới) tức là Ngài đang chứng được cái tâm
vô tâm. Song Ngài còn phải thức tỉnh dậy nữa, nhờ ánh sao mai,
để mà trở về ý thức bình thường. Từ trạng thái "nhân cảnh câu
đoạt". Ngài phải trở về trạng thái "nhân cảnh câu bất đoạn"
(Cảnh và người đều giữ nguyên.Chữ của Thiền Lâm Tế trong pháp
"tứ liệu giản") để trả lại tất cả cho cuộc sống thường nhiên.
-
Trở về là trở về với trời đất, với muôn sinh, với nguồn sống vô
tận ở trong ta và ở ngoài ta, trở về để, như mọi người, "thấy
núi chỉ là núi, thấy nước chỉ là nước".
-
Trở về với trời đất - Trở về với trời đất, với Pháp giới : đó là
ý nghĩa của bức họa số 9, đề "Phản bổn hoàn nguyên", và vẽ cảnh
lá rụng về cội, nước chảy về nguồn.
-
Tự đời thuở nào, con người vốn là thanh tịnh, vốn là không, nên
Thiền dạy khỏi phải làm hết, chỉ cần thấy tánh là được trở về để
mà nhập cuộc.
-
Nhập cuộc là nhập vào cái trật tự tự nhiên, không thỉ không
chung của trời đất.
-
Trong trật tự ấy, chúng sanh là một pháp vô tâm nên vô sự. Viên
sỏi bên đường là một pháp vô sự nên vô vi. Muôn pháp đều vô vi
mà bình đẳng nhau trong pháp giới vô ngại : nước chảy, hoa trôi,
trăng lên, gió mát. Muôn vật đều vô ngại nên tự tại, không phải
tự tại ở Niết Bàn, không phải tự tại trong phiền não mà tự tại
trong KHÔNG : Niết Bàn và phiền não chỉ là trò ảo thuật của
tâm. Trong trạng thái KHÔNG ấy, những danh từ thánh phàm phải
trái, tỉnh mê, đều mất nghĩa, tất cả đều là đại đồng, ứng hóa
từ một giác tánh, nên :
-
Nhất thiết không Niết Bàn
-
Không có Niết Bàn Phật
-
Không có Phật Niết Bàn
-
(Lăng Già)
-
TẤT CẢ là MỘT. MỘT là TẤT CẢ.
-
Một hột bụi chứ đủ ba ngàn thế giới. Bà ngàn thế giới là một hột
bụi : đều là KHÔNG.
-
"Có thì có tự mảy may,
-
Không thì cả thế gian này cũng không.
-
Nhìn xem bóng nguyệt giòng sông,
-
Ai hay không có có không là vầy".
-
(Huyền Quang tôn giả)
-
Đó là cái thấy của hàng bồ tát "quán tự tại", nghĩa là quán đến
chỗ cùng tột và tuyệt đối của sự vật.
-
Trở về với thế tục -... Dưới lớp áo của thế tục, đạo sĩ trộn lẫn
vào cát bụi của tình đời. Vả, cát bụi cũng không thấy là bợn dơ
nữa, mà chỉ còn là một diệu dụng, như hằng sa diệu dụng khác,
của Giác Tánh Bồ Đề. Đạo sĩ không phải là Phật, là Bồ Tát, mà
chỉ là một người thường, rất thường, một người vô tâm vô sự, vô
tích sự, một người không là gì hết, một "vô vị chân nhân".
-
"vào rừng không khua ua lá
-
vào nước không quậy sóng"
-
(nhập lâm bất động thảo
-
nhập thủy bất lập ba)
-
Trở về với thế tục là trở về với cái tâm bình thường. Thiền dạy
: "Bình thường tâm thị đạo".
-
Quốc sư Phù Vân đời nhà Trần nói :
-
"Lấy cái muốn của thiên hạ làm cái muốn của mình.
-
Lấy cái tâm của thiên hạ làm cái tâm của mình".
-
Cái muốn ấy chính là cái muốn mà đức Khổng Tử phải chờ đến bảy
mươi tuổi mới dám muốn, sau khi chứng lý "vô ngã" :
-
"Thất thập tòng tâm chi sở dục".
-
Chứng được đạo lý ấy thì làm gì cũng hiệp đạo, "không theo không
lìa, không dừng không dính, tung hoành tự tại, đâu phải là đạo
tràng" pháp nào là Phật pháp, đi đứng nằm ngồi cũng là Phật
pháp, chém rắn giết mèo cũng là Phật pháp, đói ăn khát uống cũng
là Phật pháp.
-
Cho nên Tổ Huệ Trung Trần Quốc Tảng, mới ung dung ngồi ăn thịt
cá, khiến bà em là hoàng hậu Khâm Từ lấy làm lạ hỏi :
-
- Anh đi tu mà lại ăn cá thịt sao thành Phật được ?
-
Ngài cười đáp :
-
- Phật là Phật, anh là anh. Anh chẳng cần làm ra
Phật, cũng như Phật chẳng cần làm ra anh. Hoàng hậu chẳng nghe
Cổ Đức nói "Văn Thù là Văn Thù, mà giải thoát là giải thoát" đó
ư ?
-
Cho nên vị sư trong THẬP MỤC NGƯU ĐỔ thõng tay đi vào chợ, tay
ôm bầu nước, tay chống gậy tre, đánh bạn với bợm nhậu và phường
thọc huyết heo - "tụi nó và thầy đều là Phật cả mà" (tranh 10).
Đó là vô trụ Niết Bàn.
-
KẾT LUẬN
-
Để gom hết yếu lý chung của mười bức tranh chăn trâu, chúng tôi
xin chép lại bài kệ sau đây thay lời kết luận :
-
Tầm ngưu tu
phóng tích
-
Học đạo quí vô tâm
-
Tích tại, ngưu hoàn tại
-
Vô tâm đạo dị tầm
-
Nghĩa :
-
Tìm trâu cần phăn dấu
-
Học đạo cốt vô tâm
-
Dấu đâu thì trâu đó
-
Vô tâm đạo dễ tâm
-
Phước Châu Đại
An hỏi :
-
- Tôi khao khát
hiểu pháp Phật, đó như cái gì ? Bách Trượng đáp : Hệt như cỡi
trâu tìm trâu.
-
Hỏi : Hiểu rồi thì như thế nào ?
-
Đáp : Như người cỡi trâu về nhà.
-
Hỏi : Rồi làm sao giữ cho trước sau khế hợp ?
-
Đáp : Như người chăn trâu cầm roi giữ trâu mình đừng phạm đến
lúa mạ của người.
-
- PHỤ
LỤC
-
Thi tụng và Họa của các Thiền Sư
-
Về Tranh Chăn Trâu
-
TUỆ SỸ soạn tập
-
Giới thiệu
-
Theo chỗ tôi biết, tác phẩm này đã được soạn từ lâu, nhưng một
số các bài thi tụng chưa được tìm thấy đầy đủ, nên tác giả có ý
để dành lại. Bây giờ, sửa chữa hay thêm thắt không còn là vấn đề
nữa. Nó là một di cảo.
-
Thuở sinh tiền, tác giả có nói chuyện với tôi về các bài thi
tụng, nhưng tôi chưa kịp mang đến tác giả tiện bề tham khảo.
Nay, tôi cố gắng sưu tập chúng, in vào phần phụ lục này, gọi là
một chút tưởng nhớ.
-
Tài liệu này, tôi rút ra từ Tục Tạng Kinh bản chữ Vạn, quyển
113, phần "Thiền tông trước thuật bộ". Trong đó, có ba bản cùng
một tiêu đề chung là Thập ngưu đồ tụng.
-
Bản thứ nhất, gồm mười hai thi tụng của Quách Am, luôn cả những
bài họa của Thạch Cổ hòa thượng và Hoại Nạp Liễn hòa thượng, với
một bài tựa do chính Quách Am viết, và những lời dẫn về các bức
tranh, cũng của Quách Am (Quách Am ; Pháp hiệu Sư Viễn, phủ
Thường Đức, Lương Sơn, dòng Lâm Tế, đời thứ 15 kể từ Nam Nhạc
trở xuống, Sư là đệ tử của Đại Tùy Tĩnh thiền sư).
-
Bản thứ hai, tiêu đề riêng là Tân khắc Thiền tông Thập ngưu đồ,
do Hồ Văn Hoán soạn tập. Bản này chép những bài vịnh của Phổ
Minh thiền sư, và các bài họa của Vân Cái. Ngoài các bức tranh
chăn trâu, Hồ Văn Hoán còn cho in cả các bức tranh về "Khổ lạc
nhân duyên", mà theo lời ông, ghi trong bài tựa, cả hai loại
tranh hình như cùng có một ý nghĩa như nhau, là thuật luyện Tâm.
Cuối cùng là một bài thơ "Tổng Đề" của Hồ Văn Hoán. Bài thơ ấy
như sau :
-
Quán bãi ngưu
đồ diệc liễu nhiên
-
Tái quan khổ lạc hữu nhân duyên
-
Giả nhiêu bán tánh phi Không hậu
-
Tất cánh viên quang bất hiện tiền
-
Đã phá Thiền cơ Tam hữu Phật
-
Thoát ly ác thú phục tàng thiên
-
Yếu tri thử diệc phi nan sự
-
Thí bả công phu trước nhất tiên.
-
Bản thứ ba, gồm các bài họa tụng của 15 thiền sư về vịnh chăn
trâu của Phổ Minh thiền sư. Bản này có một bài tựa của Chu
Hoằng, một bài tựa của Đô Lịch đạo nhân, một bài tựa và danh
sách các thiền sư hoa tụng của Như Niệm Không. Cuối cùng còn in
riêng mười bài về tranh trâu trắng của Cự Triệt thiền sư. Điều
đáng để ý là, trong bản này, có nhiều chữ bị mất, mà Hội Phật
giáo Trung Quốc in lại năm 1957 đành bỏ trống.
-
Trong phụ lục này, tôi dịch tất cả các bài đã được kể trên. Trừ
bài tựa của Hồ Văn Hoán, chỉ dịch một nửa, lược bỏ đoạn đề cập
về tranh "Khổ lạc Nhân duyên". Độc giả sẽ thấy các bài tựa này
cung cấp khá nhiều chi tiết liên quan đến tranh chăn trâu. Do
đó, tôi chỉ dịch mà không dẫn giải. Ngoài ra, tôi dịch trọn mười
bài tụng của Quách Am, mười bài vịnh của Phổ Minh, và mười bài
về tranh trâu trắng của Cự Triệt. Những bài khác lược bỏ.
-
Dịch mà không dẫn giải, còn một lý do khác. Ngoài lý do, những
gì cần nói, đã được tác giả của tập sách nói rất đầy đủ, về hình
thức, nội dung cũng như gốc gác của các loại tranh chăn trâu ;
và tài liệu của các bài tựa được dịch cũng nói rất nhiều ; ở
đây, lý do riêng của tôi là tránh làm rối loạn một di cảo, khiến
cho sai lạc bản ý của tác giả. Vả lại, đến bây giờ, tôi vẫn
không rõ những tài liệu mà tôi dịch ở đây có phải những gì mà
tác giả cần có hay không. Vì tôi chưa có thời gian để học lại
tác giả, nay thì không bao giờ có thể hỏi được nữa.
-
Tôi chỉ mong việc làm này, nếu không cần thiết theo bản ý của
tác giả, thì cũng không đến nỗi làm lạc ý của tác giả. Như thế
gọi là có thể tưởng nhớ được một chút tình tri ngộ của tôi đối
với tác giả, kể từ khi cộng tác cho tạp chí Vạn Hạnh, và trong
những năm cùng dạy học tại Viện Đại Học Vạn Hạnh. Vậy, mong độc
giả dành cho Phụ lục này một vị trí khiêm nhượng trong tập sách,
để khỏi phụ lòng tác giả.
-
Tu Viện Quảng Hương, VII,
1972
-
-
-
MƯỜI BÀI TỤNG CHĂN TRÂU
-
Của Hòa Thượng Quách Am
-
TỰA
-
Chúng sanh vốn đã có sẵn cái nguồn suối Chân tánh của chư Phật :
nếu mê, phải chịu trôi lăn trong tam giới, nếu ngộ, tức khắc
vượt ngay ra ngoài cõi tứ sinh. Do đó, có kẻ thì thành Phật, có
hạng thì làm chúng sinh.
-
Các bậc hiền triết xưa, với tấm lòng thương yêu, đã bằng mọi
cách dựng lên lắm đường đi. Về Lý, thì vượt những méo mó hay
tròn đầy ; về Giáo nêu cao Đốn hoặc Tiệm. Từ thô sơ cho đến tinh
tế, từ cạn cợt cho đến sâu sắc, cuối cùng, trong một chớp mắt,
đóa sen xanh đã gợi lên nụ cười chúm chím của Đầu đà (Ca Diếp).
Chánh pháp nhãn tạng từ đó chảy cùng khắp thiên thượng nhân
gian, cõi này và cõi khác. Ai nắm được Lý của nó, thi siêu tông
vượt cách, như đường chim không vết tích. Ai chỉ nắm được Sự của
nó, tất lặn lội trong vũng ngôn từ, như con linh qui lết đuôi
trong bùn lầy vậy.
-
Gần đây, có Thanh Cư thiền sư, ngài quán sát căn khí của chúng
sinh, theo bệnh mà cho thuốc, soạn những bức tranh chăn trâu,
tùy cơ trình bày giáo nghĩa. Từ buổi đầu, dần dần trắng, nêu rõ
lực lượng còn yếu kém. Lần hồi, đến chỗ thuần chân, biểu trưng
cho căn cơ đang tỏa dần. Cho tới lúc, người và trâu không còn
thấy nữa, đó là tiêu biểu cho yếu lý rằng Tâm và Pháp thảy đều
quên hết và cũng tiêu biểu cho giáo pháp nói rằng đã thấu suốt
căn nguyên rồi vậy. Còn để lại cái nón lá, do đó, khiến cho kẻ
căn khi thấp kém ngờ vực, bậc trung và bậc hạ phân vân. Hoặc ngờ
nó rơi vào cõi hư vô, hoặc cho là nó rớt vào cái chấp thường
hữu.
-
Nay xét ra, ngài thiền sư phỏng theo mô phạm của các đấng tiền
hiền, rút ra từ lưng túi của mình làm mười bài thi tụng tuyệt
tác, những luồng sáng giao nhau phản ảnh. Bắt đầu từ chỗ lạc
mất, cuối cùng đến chỗ hoàn nguyên ; khéo léo phù hợp với mọi
lớp căn cơ, lòng từ xa rộng cứu cơn đói khát. Do đó, tìm tòi
diệu nghĩa, lượm lặt huyền vi, như kiếm đồ ăn cho sứa, làm mắt
sáng cho loài cua biển. Bắt đầu từ việc tìm trâu, cho đến lúc đi
vào chợ, thật như là đất bằng sóng dậy, đầu bỗng mọc thêm sừng.
Tâm còn chẳng có để mà mò, thì làm gì có trâu để phải kiếm. Đậu
lại nơi chỗ vào chợ, sao mà quỷ quái thế ? Thế là còn làm cho
các ông không biết tai vạ, con cháu chẳng biết đâu mà lường.
Đây, tôi thử hoang đường soạn ra đề xướng.
-
I.- MẤT TRÂU
-
DẪN - Xưa nay đâu có mất, săn tìm chi ? Bởi, quay lưng với Giác
mà thành ra lỏng lẻo ; sấn bước vào Trần nên mới bị mất đi. Từ
đó, quê hương càng lúc càng diệu vợi, mà đường sá lại gập ghềnh.
Cái lẽ được và mất đã cháy bừng bừng ; phải và quấy mọc lên tua
tủa.
-
TỤNG
-
Mang mang bát
thảo khứ truy tầm
-
Thủy thoát sơn diêu lộ cánh thâm
-
Lực tận thần
bì vô mịch xứ
-
Đản văn phong
thụ vãn thiền ngâm
-
Nức lòng vạch
cỏ rong tìm
-
Non xa nước rộng đường chim mịt mù
-
Sức cùng dạ mỏi tìm mô ?
-
Rừng phong bóng ngả nghe hồ ve ngâm.
-
II.- TÌM TRÂU
-
DẪN - Mò kinh để thấy nghĩa, học giáo để tìm ra tung tích. Rõ,
bao khí dụng chỉ một chất vàng, hết thảy tạo vật là chính ta cả.
Chính tà khỏi lựa, chân ngụy khỏi phân. Bởi chưa vào được cửa
đó, nên mượn tiếng kêu là "thấy dấu".
-
TỤNG
-
Thủy biên lâm hạ tích thiên đa
-
Phương thảo li phi kiến dã ma
-
Túng thị sơn thâm cánh thâm sứ
-
Liêu thiêu
khổng tị tạc tàng tha
-
Dấu chân dọc bến ven rừng
-
Cỏ non chằng chịt biết chừng đâu đây ?
-
Non kia cứ
vẫn xa dầy
-
Trời cao mũi hẹp dấu mày được ư ?
-
III. - THẤY TRÂU
-
DẪN - Theo tiếng mà vào, ghé mắt là thấy. Cửa sáu căn tỏ rõ
không nhầm ; ngay nơi động dụng rành rành hiển lộ. Chất mặn
trong nước, chất xanh trong màu. Vén lông mày lên, là nó chứ ai
!
-
TỤNG
-
Hoàng li chi
thượng nhất thanh thanh
-
Nhật noản
phong hòa ngạn liễu thanh
-
Chỉ thử cánh vô hồi thị xứ
-
Sâm sâm đầu
giác họa nan thành
-
Vàng anh trên
ngọn líu lo
-
Gió reo nắng ấm bên bờ cỏ xanh
-
Chỗ này thôi hết chạy quanh
-
Đầu sừng rối rắm khó thành vẽ lên.
-
IV.- ĐƯỢC TRÂU
-
DẪN - Từ lâu, vùi lấp ngoài đồng hoang, hôm nay đã gặp mi. Bởi
cảnh đẹp nên khó lòng đuổi, đắm say cỏ non hoài mãi không thôi.
Cứng đầu còn quá lắm, tính buông lung chưa hết. Muốn cho chịu
khép mọi bề, cần cho roi vọt.
-
TỤNG
-
Kiệt tận thần
thông hoạch đắc cừ
-
Tâm cường lực tráng tốt nan trừ
-
Hữu thời tài
đáo cao nguyên thượng
-
Hựu nhập yên vân thâm xứ cư
-
Trăm đường mới chộp được mi
-
Cứng đầu hăng tiết chưa qui thuận nào
-
Thoảng khi dắt đến gò cao
-
Lại trông mây nổi dạt dào buông lung.
-
V.- CHĂN TRÂU
-
DẪN - Niệm trước vừa khởi, niệm sau tiếp theo. Bởi đã Giác nên
thành Chân. Bởi tại mê, hóa ra vọng. Chẳng phải lo cảnh mà có,
nhưng chính do tâm mà sinh. Xỏ mũi, cùm đầu, không chần chờ gì
nữa.
-
TỤNG
-
Tiên sách thời thời bất li thán
-
Khủng y túng bộ nhập ai trần
-
Tương tương mục đắc thuần hòa dã
-
Cơ tỏa vô ức tự trục nhân
-
Cây roi mang sẵn kè
-
Ngại y tung vó theo bè trần ai
-
Sửa lưng, mày đó ta đây
-
Trói chân cho kỹ, mày quây đường nào ?
-
VI.- CƯỠI TRÂU VỀ NHÀ
-
DẪN - Đã hết cuộc can qua, đã rồi câu được mất. Hát bài ca đồng
của anh đốn củi, thổi điệu khúc quê của chú bé con. Vắt mình
trên trâu, mắt mở nhìn mây vời vợi. Kêu réo, không quay đầu ;
kéo lôi, cũng chẳng dừng bước.
-
TỤNG
-
Kỵ ngưu đà lê
dục hoàn gia
-
Khương địch thanh thanh tống vãn hà
-
Nhất phách nhất ca vô hạn ý
-
Tri âm hà tất cổ thần nha
-
Lưng trâu
bước chậm ta về
-
Sáo lên vi
vút ngoài tê ráng chiều
-
Vừa ca vừa
nhịp hiêu hiêu
-
Tri âm rồi khỏi ra điều nọ kia
-
VII. - QUÊN TRÂU CÒN NGƯỜI
-
DẪN - Pháp không là pháp phân hai, mắt trâu là tông chỉ. Mượn
tiếng "bẩy thỏ" để dụ cho dị danh ; lấy chữ "dò cá" để nêu cái
sai biệt. Như vàng ròng rút ra từ đống quặng ; như trăng tỏ vén
khỏi cụm mây. Một đạo hàn quang qua khỏi kiếp Uy Âm vô thủy.
-
TỤNG
-
Kỵ ngưu dĩ
đắc đáo gia sơn
-
Ngưu dã không hề nhân dã nhàn
-
Hồng nhật tam can do tác mộng
-
Tiên thằng thông độn thảo đường gian
-
Lưng trâu thoắt đã quê mình
-
Buông trâu mất hút mặc tình thong dong
-
Nắng cao còn đượm giấc nồng
-
Quăng roi nhà cỏ hết dùng nữa thôi
-
VIII. - NGƯỜI TRÂU ĐỀU QUÊN
-
DẪN - Buông bỏ tình phàm, thì ý Thánh cũng không. Chỗ có Phật
cũng không thèm rong chơi, chỗ không Phật cũng không thèm ngó
lại. Không vướng đầu này hay đầu nọ, không liếc xéo nơi này hay
nơi kia. Hàng trăm con chim ngậm hoa, thẹn sao là thẹn !
-
TỤNG
-
Tiên sách
nhân ngưu tận thuộc không
-
Bích thiên liêu quách tín nan thông
-
Hồng lô diệm thượng tranh dung tuyệt
-
Đáo thử phương năng hiệp tổ tông
-
Người, Trâu, roi vọt đều không
-
Trời xanh vời vợi mù trông chốc mòng
-
Tuyết khoe trắng giữa than hồng
-
Cội nguồn quê quán tao phùng một phen
-
IX.- PHẢN BẢN HOÀN NGUYÊN
-
DẪN - Bản lai thanh tịnh, không vướng một mảy trần. Quán sát vẽ
tươi và héo của những gì là hữu tướng, an thân trong cảnh ngưng
tịch của đạo vô vi. Không đồng với huyễn hóa, cần gì phải tu,
phải trị. Nước biếc, non xanh, ngồi mà xem cuộc thành bại.
-
TỤNG
-
Phản bản hoàn
nguyên dĩ phí công
-
Tịnh như trực hạ nhược manh lung
-
Am trung bất
kiến am tiền vật
-
Thủy tự mang mang hoa tự hồng
-
Mắt công mò lại cội nguồn
-
Trắng trong một dải ra tuồng điếc đui
-
Trong am không thấy cõi nào
-
Ngoài kia hoa thắm nước trào mênh mông
-
X.- VÀO CHỢ BUÔNG
TAY
-
DẪN - Khép cánh cửa sài, một mình một bóng, dù Thánh Hiền vạn cổ
cũng không hay. Chôn vùi cái văn vẻ của riêng ta, bỏ lại lối mòn
của cổ đức. Mang bầu vào chợ, chống gậy về nhà, hàng rượu hàng
cá, dạy cho thành Phật hết.
-
TỤNG
-
Lộ hung tiễn
túc nhập triền lai
-
Phù thổ đồ hôi thiếu mãn tai
-
Bất dụng thần tiên chân bí quyết
-
Trực giao khô
mộc phóng hoa khai
-
Lưng trần
chân đất chợ người
-
Cát lầm bụi vẫn ta cười say sưa
-
Thần tiên bí quyết cũng thừa
-
Cây khô thoắt đã đong đưa nhụy vàng.
-
-
-
ĐỀ TỤNG CỦA PHỒ MINH THIỀN SƯ
-
TỰA của Phật tử Hồ Văn Hoán.
-
Tân khắc Thiền tông thập ngưu đồ
-
Tranh chăn trâu, vốn được Thiền tông dùng để thí dụ cho sự tu
tâm chứng đạo. Mục đồng, tức là Người ; Trâu chỉ cho Tâm. Vòng
ánh sáng tròn tức là Người và Tâm đã đến chỗ thuần nhất, chứng
được đạo Bản Nhiên.
-
Tâm, là cái ai mà chẳng có. Có thì phải biết cách sửa trị. Đạo,
người nào lại không sẵn. Đã sẵn, tất phải làm sao để chứng.
Nhưng, lẽ đó đâu phải riêng nơi Thiền tông mới có, để thí dụ.
Bọn ta dù là theo Nho, cũng đồng với lẽ ấy. Cũng chẳng phải
riêng gì bọn Nho chúng ta mới đồng với lẽ ấy, mà mọi người trong
thiên hạ thảy đều đồng. Nói gọn lại, từ đầu đền cuối không khác
nhau. Lẽ này quá rõ. Nhưng lần hồi ta bị vật dục che lấp mất,
cho nên cam phận trâu bò cũng chẳng bằng vậy. Trâu mà còn có thể
dạy nho thuần, trong khi, Tâm mà bảo rằng không thể sửa, quả là
điều chưa từng có.
-
-
TỰA của Chu Hoằng
-
Kinh Di giáo nói : "Y như chăn trâu, cầm gậy canh chừng, không
để nó buông lung phạm vào lúa mạ của người ta". Thế thì, thuyết
chăn trâu bắt nguồn từ đó.
-
Kế tiếp theo, có Mã Tổ. Ngài hỏi Thạch Củng : "Chú làm gì đây
?". Đáp : "Chăn trâu". Lại hỏi : "Chăn như thế nào ?". Đáp :
"Mỗi khi nó chạy a vào đồng cỏ, thì xỏ mũi kéo lui lại, thế là
người chăn giỏi".
-
Lại nữa, ngài Đại Qui An, vốn ở tại Qui Sơn, có nói : "Tôi nương
nơi Qui Sơn, nhưng không học Thiền Qui Sơn, mà chỉ chăn một con
trâu".
-
Lại nữa, ngài Bạch Vân Nghĩa Đoan hỏi vặn Quách Công Phu rằng ?
"Trâu thuần chưa ?".
-
Tự mình chăn, hay dạy kẻ khác chăn, đã thấy lũ lượt có, xưa nay
cũng khá nhiều, thật là rành rõi. Về sau mới có người vẽ thành
tranh. Bắt đầu từ lúc chưa chăn, cho đến lúc cả hai đều mất hút,
trình bày thành mười chặng, và trâu cũng theo thứ tự, từ đen đến
trắng, cuối cùng không còn màu trắng tinh ròng nào để mà tả nổi.
Ngài Phổ Minh lại kèm theo mỗi chặng một bài tụng.
-
Phổ Minh, chưa rõ gốc gác là ai. Tranh và tụng cũng chưa rõ có
phải do tay của một người hay không. Nay không bàn chuyện đó.
Chỉ xét các bức tranh, biểu tượng thì rất rõ mà ý chỉ lại sâu
sắc. Còn các bài tụng, lời gần gũi nhưng ý xa xôi. Người học cầm
lấy mà làm bản đồ, để xét lại đức của mình hầu thành đạt sự
nghiệp. Cúi xuống, xét chỗ thành tựu của mình ; ngửa lên, trông
vào chỗ chưa đến để đến. Khỏi mắc chừng được ít đã cho là đủ, sa
đọa vào tính kiêu mạn tự phụ. Như thế, giúp ích được rất nhiều.
Tôi liền sao lục, cho đúc lại các bản gỗ. Ngoài ra, có bộ tranh
vẽ, từ chỗ "tìm trâu" đến chỗ "vào chợ" gồm mười bức, đại đồng
tiểu dị với bộ tranh này. Thêm nữa, cứ theo sự phân biệt của
giáo điển về thứ lớp tiến tu, có thể so sánh mà biết. Tôi cho in
phụ vào cuốn sách để tiện tham khảo. Nếu là kẻ một phen vượt lên
là vào thẳng, không mất công roi rọt, mà trâu đã trắng rõ thiên
nhiên, không phải theo thứ bậc, trong khoảnh khắc năng và sở
cùng tuyệt hết, với người đó, tranh hóa ra đồ bỏ, và tụng cũng
thành lời thừa, xem qua chắc chẳng khỏi một trận cười. Tôi không
ép.
-
Niên hiệu Vạn lịch, năm Kỷ
dậu, ngày Như Lai khánh đản, kẻ hậu học, CHU HOẰNG, kính cẩn
viết TỰA.
-
-
TỰA của Độ Lịch
-
Ôi chao ! Trọn cả trái đất là một con trâu của Phổ Minh, chỗ nào
còn có Phật và chúng sinh nữa ? Không cách biệt mảy may, vốn là
Như Như. Nếu nói rằng, trâu này có đen có trắng, có đực có cái,
có đói có no, chỉ là một Thể mà được phân làm hai, thì, khi đức
Thế Tôn mới sinh, chỉ trời chỉ đất, đi một vòng, mắt dòm dõ,
phạm vào lúa mạ người ta không phải ít. Tổ sư Tây đến, chỉ thẳng
Tâm người, thấy tánh thành Phật, đã ăn cỏ uống nước của người ta
quá nhiều. Ba huyền yếu, bốn liệu giản, năm vị quân thần, chín
mươi sáu viên tướng, chịu hết roi vọt, cho đến dộng chày dựng
phất, hươi gậy la hét, đủ mọi cách dùng, lông lá rụng cả, bốn vó
lún dấu, để cho một cổ trâu trốn chỗ nào chả biết. Đến chỗ này
thì, lớp quan ải dày đã bị phá, thử nói, bên trên kia còn có sự
gì chăng ? Cầm phất tử vẽ viên tướng, bảo rằng : "Trong lửa trâu
gỗ cày mây trắng, trong mây ngựa đá dỡn gió xuân". Hiểu hay
không hiểu ? Xin xem các bài tụng chăn trâu, và các vần họa của
chư phương ; rút lại, có chỗ nào hơn kém hay không ?
-
Lâm Tế chánh tông, đời thứ
32, Độ Lịch đạo nhân Nghiêm Đại Tham kính cẩn đề tựa.
-
-
TỰA của Như Niệm Không
-
(Viết cho các bài tụng tranh chăn trâu của Phổ Minh và phụ họa
tụng của các Đại Thiền sư).
-
Ngài Vân Thê Liên Trì đại sư (Chu Hoằng), soạn bản gỗ cho các
bài tụng gốc của Phổ Minh, có viết Tựa nói : "chưa biết Phổ Minh
là ai". Thế thì, cũng không rõ đạo tràng của sư ở đâu vậy.
-
Năm tân sửu (1661), mùa đông, tôi về làng làm việc. Năm Nhâm Dần
(1662), mùa hạ, cư sĩ Đạc Lịch mang đầu mối của Phổ Minh và các
bức tranh trong chùa cũ ra cho xem, mới biết nhân duyên ở đây.
Cư sĩ đã khôi phục lại nền móng của chùa, ban đầu mời Huyền Vi
thiền sư, kế đến mời Ngài Minh Nham, chùa chiền sáng rỡ, phòng
liêu dẫy đầy, tương lai có cơ thành hang sư tử. Tôi tìm thấy các
bài tụng của chư phương, vui mừng không thể tả, bắt chước cũng
họa theo, và đem tranh cùng các bài họa tụng hiệp thành một
quyển để lưu thông.
-
-
MỤC LỤC các bài họa tụng
-
Văn Cốc đại sư
-
Thiên Ẩn thiền sư
-
Phá Sơn thiền sư
-
Vạn Như thiền sư
-
Phù Thạch thiền sư
-
Ngọc Lâm thiền sư
-
Nhược Am thiền sư
-
Sơn Tỳ thiền sư
-
Huyền Vi thiền sư
-
Hương Tràng pháp chủ
-
Đạc Lịch cư sĩ
-
Như Niệm đạo nhân què
-
Vô Y đạo nhân
-
Mục Công đạo nhân
-
Cự Triệt thiền sư (phụ các bài tụng trâu trắng)
-
Khang Hy nguyên niên (1662), tháng mạnh thu, ngụ Bát Nhã đưng,
Như Niệm Không, kính tường.
-
-
THI TỤNG của PhỒ MINH THIỀN SƯ
-
I.- CHƯA CHĂN
-
Sanh nanh đầu giác tứ bào hao
-
Bôn tẩu khê sơn lộ chuyển dao
-
Nhất phiến hắc vân hành cốc khẩu
-
Thùy tri bộ bộ phạm gia miêu
-
Đầu sừng hung bạo kêu la
-
Ngược xuôi rừng suối đường xa dặm ngàn
-
Mây đen một dải ngoài hang
-
Lân la từng bước gậm càn mạ non
-
II.- MỚI DẮT
-
Ngã hữu mang
thằng mạch tị xuyên
-
Nhất hồi bôn cạnh thống gia tiên
-
Tùng lai liệt tánh (khuyết ba chữ)
-
Do đắc sơn đồng tận lực khiên
-
Dây thừng xỏ mũi ta lôi
-
Một phen bứt chạy, lằn roi nặng nề
-
Vốn xưa dở tánh (.......)
-
Bây giờ chú mục sẵn kề một bên
-
III.- CHỊU KHÉP
-
Tiệm điều
tiệm phục tức bôn trì
-
Đồ thủy xuyên vân bộ bộ tùy
-
Thủ bả mang thằng vô thiểu hoãn
-
Mục đồng chung nhật tự vong bì
-
Dần dà chịu khép mọi đường
-
Băng mây vượt nước dặm trường có nhau
-
Nắm dây ta giữ lấy đầu
-
Một ngày mệt lả ra mầu nhởn nhơ
-
IV.- QUAY ĐẦU
-
Nhật cửu công
thâm thủy chuyển đầu
-
Điên cuồng tâm lực tiệm điều nhu
-
Sơn đồng vị khẳng toàn tương hứa
-
Do bả mang thằng thả hệ lưu
-
Ngày qua tháng lại lần khân
-
Hung hăng cuồng dại mấy phần chịu buông
-
Chú chăn ghé mắt trông chừng
-
Trong tay còn vững dây thừng chưa lơi
-
V. NGOAN NGOÃN
-
Lục dương âm
hạ cổ khê biên
-
Phóng khứ thâu lai đắc tự nhiên
-
Nhật mộ bích vân phương thảo địa
-
Mục đồng quy khứ bất tu khiên
-
Dương xanh rủ
bóng bên nguồn
-
Buông đi kéo
lại ra tuồng thảnh thơi
-
Cỏ non, nắng
quái, mây trời
-
Chú chăn thả bước tay lơi sợi thừng
-
VI.- KHÔNG NGẠI
-
Lô địa an
niêm ý tự như
-
Bất lao tiên sách vĩnh vô câu
-
Sơn đồng ổn
tọa thanh tùng hạ
-
Nhất khúc thăng bình lạc hữu dư
-
Giữa trời ru giấc thong dong
-
Khỏi công roi vọt, nhọc lòng kéo lôi
-
Cội từng chú mục ngồi chơi
-
Sáo lên vi vút nối lời vu vơ
-
VII. - BỎ MẶC
-
Liễu ngạn
xuân ba tịch chiếu trung
-
Đạm yên phương thảo lục nhung nhung
-
Cơ xan khát ẩm tùy thời quá
-
Thạch thượng sơn đồng thùy chánh nồng
-
Làn xuân, nét liễu tà dương
-
Khói un cỏ biếc trông chừng dặm xa
-
Đói ăn khát uống la đà
-
Gối tay trên đá người ru giấc nồng
-
VIII. QUÊN NHAU
-
Bạch ngưu thường tại bạch vân trung
-
Nhân tự vô tâm ngưu diệc đồng
-
Nguyệt thấu bạch vân vân ảnh bạch
-
Bạch vân minh
nguyệt nhiệm tây đông
-
Mây trời, trâu trắng một màu
-
Lòng người
thơ thẩn, lòng trâu hững hờ
-
Bóng trăng qua lớp mây đưa
-
Mây treo cõi bắc, trăng tà cõi đông
-
IX. MỘT BÓNG
-
Ngưu nhi vô
xứ mục đồng nhàn
-
Nhất phiến cô vân bích chướng gian
-
Phách thủ cao ca minh nguyệt hạ
-
Qui lai do hữu nhất trùng quan
-
Chú chăn thư
thả không trâu
-
Làn mây vời vợi trên mầu non xanh
-
Vỗ tay ca, bóng trăng ngàn
-
Nẻo về quê cũ tấc giang ngại gì
-
X.- VẮNG HẾT
-
Nhân ngưu bất kiến yểu vô tung
-
Minh nguyệt quan hàn vạn tượng không
-
Nhược vấn kỳ trung đoan đích ý
-
Dã hoa phương thảo tự tòng tòng
-
Người, trâu
vết tích là đâu ?
-
Trăng buông lạnh lẽo một bầu hư không
-
Hỏi thăm một lẽ tơ lòng
-
Kìa xem cỏ nội hoa đồng, chăng nhe ?
-
CỰ TRIỆT THIỀN SƯ
-
HỌA TRANH TRÂU TRẮNG
I.- MẤT TRÂU
-
Trâu ở phía
tây, mặt hướng về tây.
-
Mục đồng ở phía đông, mặt hướng về đông.
-
Ngưu thượng ngưu hề, đồng thượng đồng
-
Ngưu đồng bối
hướng các tây đông
-
Tiêm trần bất cách hà tiêu nhưỡng
-
Khoáng kiếp lai kim uổng tự hoăng
-
Chú, trâu, này chú nọ trâu
-
Chú, trâu hai ngả hai đầu đông tây
-
Bụi hồng cách một rèm mây
-
Thiên thu lơ láo những ngày lang thang
-
II.- TÌM TRÂU
-
Chủ nhân hỏi trâu ở đâu ?
-
Mục đồng lơ láo.
-
Lại có một người từ phía tây đi đến, đưa tay chỉ về xa.
-
Hốt hương sơn
đồng vấn bạch ngưu
-
Sơn đồng võng thác bất tri cầu
-
Bàng nhân thức đắc ngưu tung tích
-
Chỉ điểm sơn đồng cấp chuyển đầu
-
Thoắt đâu gạn hỏi sơn đồng
-
Mặt trơ mày dạn biết chừng là đâu
-
Có người hay được vết trâu
-
Đưa tay chỉ chú quay đầu về tây
-
III.- THẤY TRÂU
-
Chú nhắm phía
tây mà chạy ;
-
thấy có nhiều dấu chân trâu trong đồng ruộng.
-
Đê hối mạch chuyển hướng khê tây (tê)
-
Nhất lộ thâm đề gián thiển đề
-
Đoan đích tân tri tầm cựu thức
-
Nhân ngư đáo thử lưỡng vô mê
-
Quanh co đèo
suối về tây
-
Dấu chân rải rác thưa dày chen nhau
-
Đường kia nỗi nọ cơ cầu
-
Lần theo vết cũ đã hầu gặp nhau
-
IV.- THẤY TRÂU
-
Trâu trắng
nằm yên trong đồng ruộng,
-
đồng tử nôm thấy, vui mừng.
-
Hạnh tận sơn thôn quá thủy thôn
-
Hảo trung hốt kiến bạch ngưu tôn
-
Hân hân ổn bộ phương khinh khoái
-
Suyễn tức sơ điều dữ tế luân (luận)
-
Trải bao xóm nước làn mây
-
Thoắt trông một cổ ở ngoài đồng hoang
-
Nhẹ chân cất bước vội vàng
-
Nén hơi kéo lại, nỗi mừng thấp cao
-
V.- ĐƯỢC TRÂU
-
Trâu trắng từ từ đứng dậy.
-
Đồng tử vui vẻ, vuốt ve lưng nó.
-
Bạt thiệp khê sơn khởi đạn lao
-
Bạch ngưu đốn hoặch giá di cao
-
Khoái tâm cửu biệt trùng tương khế
-
Thiện phủ thung dung hỉ phục thao
-
Rừng khe bao quản lội trèo
-
Đã may gặp gỡ già nào trọng hơn
-
Xa nhau mấy nổi nguồn cơn
-
Thong dong tay ướm tay nâng vỗ về
-
VI.- GIỮ TRÂU
-
Đồng tử rỗi
rãi ngồi trên tảng đá.
-
Trâu trắng uống nước suối bằng thích.
-
Ngư thích nhân nhàn khước sấu phì
-
Phong thanh nguyệt bạch cửu vong ki
-
Ư hương dã lục doanh sơn cốc
-
Kỉ độ triêu huy ánh tịch huy
-
Mặc trâu không nại béo gầy
-
Trăng trong gió mát quên ngày đói no
-
Hương rừng cỏ núi mịt mù
-
Buâng khuâng nắng sớm đong đưa bóng chiều
-
VII.- CƯỠI TRÂU
-
Bóng chiều gác núi,
-
trâu trắng về ràng,
-
mục đầu vắt vẻo trên lưng,
-
thổi sáo làm vui.
-
Phóng khoảng kị qui thế sở hi
-
Liễu ti tiên ảnh nhiệm phong huy
-
Sơn đồng suy triệt vô sinh khúc
-
Địch vận như huy nhập cấm vi
-
Nghêu ngao lưng gối ai tày
-
Liễu tơ nghiên gió thoáng đầy bóng roi
-
Sơn đồng thổi khúc vui đời
-
Tà dương ruổi vận vào nơi cấm đình
-
VIII.- QUÊN TRÂU
-
Trăng sáng
trên trời,
-
mục đồng vỗ tay ca hát một mình.
-
Bạch cổ hồn
vong vô thặng trung
-
Sơ cuồng mục
thụ khiếu cô phong
-
Sơn hà đáo ảnh thiềm thừ chuyển
-
Ngọc lộ linh linh quang ảnh trùng
-
Bóng trâu vắng bặt am hao
-
Mục đồng cao hứng lên gào đỉnh xa
-
Nước non nghiêng, ánh trăng tà
-
Mà khuya điểm trắng sương pha lạnh lùng
-
IX.- VẮNG HẾT
-
Người và trâu đều không thấy,
-
chỉ có một vòng tròn.
-
Lâu các trùng trùng đạn chỉ khai
-
Bổn vô dư khiếm thất ban tài
-
Không truyền ngủ thập tam gia xú
-
Dẫn khước nhân ngưu đại mộng hồi
-
Khảy tay Lầu các chập chùng
-
Giàu sang bảy báu chưa từng thiếu dư
-
Hỏi chi thói Đáo hồ đồ
-
Giấc mơ Nhân Ngã bây giờ hoàn không
-
Phụ chú : Thiện tài Đồng tử theo lời dạy của Bồ tát Văn Thù, đã
đi hỏi Đạo trải qua năm mươi ba chỗ. Khi đến hỏi Đạo với ngài Di
Lặc, trong một thoáng gặp gỡ, Thiện Tài nhớ lại hết cả con đường
dài đã trải qua, bất giác nhìn lại hai tay đầy cả hoa trời. Sau
đó, ngài Di Lặc dẫn Thiện Tài vào lầu các Vairocona (Quang minh
biến chiếu), vừa khảy móng tay, tức thì cánh cửa mở rộng, Thiện
Tài thấy mình bước vào một thế giới giao ánh nhau trùng trùng vô
tận. Thiện Tài, có nghĩa là người sinh ra cùng lúc với bảy báu
cao quí nhất, và người đó từ khi mới sinh đã là bậc sang cả như
một hoàng đế của thiên hạ.
-
Người chăn trâu đến lúc này như đã bước vào Pháp giới vô tận. Từ
đây trở xuống, chỉ còn là hiện thần thông du hí tam muội mà rong
chơi trong các cõi luân hồi, như đi vào chợ mà ngao du. Ngao du
là chỗ rốt ráo của Bồ tát hạnh, vì nó tượng trưng cho ý nghĩa Vô
Sở Trụ : Bồ tát không trụ sinh tử, cũng không trụ Niết Bàn.
Chúng sinh lang thang như mục đồng tìm trâu mà không thấy vết
tích. Bồ tát cũng lang thang trong trầm luân khổ hải, nhưng
thong dong như mục đồng buông tay vào chợ.
-
X.- VÀO CHỢ
-
Đồng tử đi
trước, hướng về phía Đông
-
(vì là đang đi vào cõi sinh tử) ;
-
trâu trắng lẻo đẻo theo sau.
-
Mại lộng nhàn nhàn bạch cổ ngưu
-
Nhập triền thùy thủ tứ ngao du
-
Đồng lưu cửu giới cừu phong độ
-
Tâm Phật chúng sinh vô biệt cầu
-
Trâu theo đủng đỉnh mua vui
-
Buông tay vào chợ dạo chơi phố phường
-
Gió lành chín cõi đưa sang
-
Này Tâm, này Phật, này hàng Tử sinh.
-
-
Source: Tuệ Sỹ (1990)
THIỀN QUA TRANH CHĂN TRÂU, Chùa Khánh Anh, Paris, xuất bản
-
Xem Trang Kế Tiếp
|
|