|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
ĐỂ TRỞ THÀNH NGƯỜI
-
PHẬT TỬ CHÂN CHÁNH
-
Thích Thiện Bảo
-
--o0o--
-
-
A. KHÁI
NIỆM TỒNG QUÁT VỀ NGƯỜI PHẬT TỬ CHÂN CHÁNH:
-
Khi một
người biết đi Chùa, thờ Phật, lễ Phật, tụng kinh, Sám hối nghe
Chư Tăng thuyết pháp có nghĩa là người đó đã xác nhận mình là
Phật tử, nhưng từ một Phật tử để trở thành Phật tử chân chánh
cần phải có những nhân tố tích cực hơn về hai phương diện sự và
lý : Sự là thực hiện những lễ nghi đi chùa,tôn thờ, tụng kinh,lễ
bái, sám hối vị giáo chủ mà mình theo, qua hình tượng, tranh
ảnh, lý là thực hiện những lời dạy ứng dụng trong đời sống. làm
cho lời dạy đó biến thành hiện thực có lợi ích cho cá nhân, gia
đình. Đó chính là góp phần làm cho Phật giáo hưng thịnh.
-
Đạo
Phật không đòi hỏi người Phật tử phải thực hành những điều khó
khăn nhưng phải thể hiện tinh thần của Phật dạy qua đời sống,
muốn thế qua thân phải lễ lạy, miệng tụng kinh, niệm Phật, xưng
tán Phật hiệu, sám hối, ý phải thành tâm chánh niệm. Tam nghiệp
thân, khẩu, ý lúc nào cũng thanh tịnh, làm sao cho đạo đức cá
nhân của mình được thăng hoa tốt đẹp. Đó chính là một trong
những phương pháp mà người Phật tử chân chánh phải tu tập và
thực hành trên bước đường đến giải thoát.
-
Đức
Phật đã dạy Chư Tăng là những người có trách nhiệm duy trì Chánh
Pháp; còn người Phật tử tại gia có bổn phận hộ trì Chánh pháp,
làm cho Chánh pháp được mọi người nhận thấy qua đời sống của cá
nhân và gia đình thấm nhuần đạo lý Phật giáo. Đó chính là chúng
ta làm tròn trách nhiệm của người Phật tử chân chánh đối với
đạo, góp phần xây dựng cuộc đời trở nên Chân, thiện, mỹtheo tinh
thần Phật giáo.
-
I. TẠI SAO PHẢI THỜ
PHẬT?.
-
1) Nguồn
gốc xuất xứ & ý nghĩa:
-
a/ Nguồn gốc xuất xứ:
-
Khi Đức
Phật còn tại thế và sau khi Phật diệt độ, để thể hiện lòng tôn
kính đức đạo sư, Phật tử có vẽ họa hình tượng Phật để thờ. Câu
chuyện truyền thuyết về Đức Phật lên cung trời Đâu Suất thuyết
pháp cho thân mẫu liên tiếp trong ba tháng. Nhà Vua Vu Điền mến
mộ Phật Pháp thường đến tinh xá hầu Phật, nay xa vắng cảm thấy
nhớ Phật nên có sai họa sĩ vẽ chân dung Ngài để chiêm ngưỡng.
Sau khi Phật trở về nhà Vua có đem việc đó bạch với Đức Phật
Ngài mĩm cười và cũng bắt đầu từ đây việc thờ chân dung Đức Phật
được đệ tử Ngài tiếp nối từ đời nầy sang đời khác cho đến ngày
nay.
-
b/ Ý nghĩa việc thờ
Phật:
-
Qua câu
chuyện truyền thuyết trên khởi đầu là họa chân dung, đơn thuần
chỉ là một sự nhớ thương của một người đệ tử đối với Phật và rồi
dần dầ⮠trở
thành ngưỡng mộ, tôn kính, tri ân. Chúng ta nhận thấy trong xã
hội con cháu thờ phụng ông bà, cha mẹ biểu lộ lòng hiếu thảo.
Nhân dân lập đền thờ các vị anh hùng dân tộc biểu lộ lòng mến mộ
gương đức hy sinh vì dân vì nước. Điều nầy thể hiện "Cây có
cội nước có nguồn, ăn trái nhớ kẻ trồng cây" đây là thần
nhân bản trong đạo lý làm người. Cho nên người Phật tử hơn ai
hết ngoài việc chọn cho mình một vị giáo chủ để nương theo trên
con đường tìm chân lý còn phải thể hiện đủ ba phương diện: tri
ân, ngưỡng mộ và tôn kính.
-
Thờ
Phật với lòng tri ân:
Người
Phật tử ngoài việc tạo tượng, đúc chuông, xây dựng chùa chiền bố
thí cúng dường tạo phước, còn phải nhận thức Đức Phật là một vị
giáo chủ có những đức tánh màchúng ta cần phải học tập noi theo
để từ đó hướng bản thân mình tiến dần đến giác ngộ giải thoát
như Ngài. Qua hình ảnh đức Phật khơi lại nguồn tâm của chúng ta,
làm cho nó tỏa sáng với những đức tính từ bi, bình đẳng.
-
Thờ
Phật với lòng ngưỡng mộ:
Người Phật tử ngưỡng mộ Phật không có nghĩa là sùng bái,ca tụng,
tôn thờ như một thần linh ban phước, giáng họa mà chúng ta
ngưỡng mộ Ngài qua những đức tánh: Bi, Trí và Dũng ( từ bi vô
ngại, trí huệ vô biên và hùng lực phi thường). Chính ba đức
tánh đặc thù nầy có hiệu năng giúp cho người Phật tử xây dựng
một con người có lòng nhân, một gia đình hạnh phúc và hoán cải
hoàn cảnh xã hội. Ngưỡng mộ Đức Phật là chúng ta lập cước cho
bản thân mình đi trên con đường Ngài đã đi.
-
Thờ
Phật với lòng Tôn kính:
Tôn kính Phật không có nghĩa là chúng ta thần thánh hóa Đức Phật
mà chúng ta tôn kính Ngài với một niềm tin qua một con người đức
hạnh cao tuyệt, đưa đường chỉ lối cho chúng ta thăng tiến trên
bước đường tâm linh. Trên tinh thần đó người Phật tử là người
thực hiện theo con đường giác ngộ của Phật, cho nên việc tôn
kính Phật ngoài mục đích tín ngưỡng chúng ta còn thể hiện noi
theo hạnh lành mà Phật đã thể hiện, trong đời sống.
-
2/ Nên
thờ Đức Phật hay Bồ tát nào?.
-
Chúng
ta biết rằng các Đức Phật đều có những đức tính trọn lành, một
gương sáng mà chúng ta có thể nương nơi các Ngài để tu tập. Thờ
Phật là nương nơi đức tánh đó, chứ không phải nhờ Ngài ban ơn
giáng phước, tuy nhiên phải tùy theo tâm nguyện của mỗi người
cảm nhận Đức Phật nào mà ta cảm thấy thích. Đối với Phật giáo
Bắc tông ngoài thờ Phật Thích ca, Di Lặc, Di Đà, Dược sư...ngoài
ra người Phật tử lại thường thờ các vị Bồ tát như Quán Âm, Phổ
Hiền, Địa Tạng.... cũng chính điều nầy làm cho người Phật tử
không xác định nhất quán về việc thờ Phật hay Bồ tát. Cũng từ
những lệch lạc về nhận thức tinh thần Phật giáo làm cho người
Phật tử sanh ra thờ Phật, Bồ tát một cách không còn đơn giản mà
trở thành " đa thần giáo " nơi thờ Phật, Bồ Tát chớp sáng
lập loè, mất hết vẻ tôn nghiêm . Thời đại của chúng ta là thời
đại khoa học cho nên càng đơn giản càng tốt, vì chính sự đơn
giản là trang nghiêm. Chúng ta nên thờ độc tôn Đức Phật Thích Ca
là vị giáo chủ cõi Ta bà, vì hình ảnh của Ngài gần gũi với giáo
lý mà chúng ta đang thực hành, Ngài cũng được các Chùa cả Nam
Tông và Bắc Tông Phật giáo đều tôn thờ. Phải quan niệm thờ một
vị Phật là thờ tất cả Phật.
-
3) Thờ
Phật ở đâu cho phù hợp?.
-
Việc
thờ Phật đối với người Phật tử là hết sức cần thiết vì ngoài
biểu lộ xác định niềm tin Tam Bảo, còn một ý nghĩa nhắc nhở
chúng ta hằng ngày. Cho nên việc thờ Phật phải ở nơi trang
nghiêm,trang nghiêm không có nghĩa là trang nghiêm cho hình ảnh
Phật và Bồ tát mà trang nghiêm cho chính bản thân chúng ta.Vì
kinh Phật dạy: " trang nghiêm tự thân tức là trang nghiêm
Phật độ ". Thật vậy,trang nghiêm cho khung cảnh nơi thờ Phật
là tạo cho người Phật tử một niêm tin hỷ lạc khi lễ Phật, tụng
kinh. Như vậy, thờ Phật không nên rườm rà mà phải thờ sao cho có
thẩm mỹ, vì chính sự thẩm mỹ đó tạo nên nét đẹp trang nhã phù
hợp với tinh thần đơn giản, giải thoát của Đạo Phật.
-
Ngoài
ra người Phật tử có thể treo hình ảnh Phật nơi phòng khách,
phòng đọc sách, phòng học... nơi mà chúng ta làm việc hằng ngày,
giúp cho chúng ta nhớ đến Phật với những hạnh lành mà mình cần
phải noi theo, mỗi khi có những chướng duyên trái ý nghịch lòng,
đức Phật như một vị Thầy bên cạnh nhắc nhở cho chúng ta từng
giây từng phút.
-
II. TỤNG KINH, LỄ
PHẬT & NIỆM PHẬT:
-
1/ Nguồn
gốc ý nghĩa việc tụng kinh, lễ Phật& niệm Phật:
-
a) Vì
sao phải tụng kinh?.
-
Khi Đức
Phật viên tịch khoảng ba tháng, các vị đệ tử của Phật nhận thấy
sự quan trọng của Phật còn tại thế và ý thức đến sự lâu dài
những lời dạy của Ngài nên đã vân tập về thành Vương Xá đọc lại
lời dạy của Đức Phật. Tôn giả A Nan là vị thị giả hầu cận Đức
Phật nên được đại chúng đề nghị tuyên lại lời dạy của Phật gọi
là Kinh Tạng, Ưu Ba Ly đọc lại giới luật gọi là Tạng Luật và sau
nầy bàn luận thêm những điều liên quan đến lời dạy của Phật gọi
là Luận tạng. Có thể nói đây là lần kết tập đâu tiên nhằm hệ
thống hóa nền giáo lý của Đức Phật, khỏang 200 năm từ ngày Phật
nhập diệt, có nhiều lần tuyên đọc lại lời Phật mà chúng ta gọi
là "kết tập kinh điển" nhưng mãi đến khoảng năm 83 trước
Tây lịch mới ghi thành văn bản và sự trùng tuyên nầy là nguyên
nhân đầu tiên đọc hoặc tụng lời Phật dạy cho đến ngày nay.Việc
tụng kinh không phải để Phật gia hộ phù trì, làm ăn phát đạt "
ăn nên làm ra " mà đọc kinh nhằm để nhận ra nghĩa lý mầu
nhiệm của kinh, để áp dụng tu tập trong đời sống.
-
b) Vì
sao phải lễ Phật?
-
Lúc đức
Phật còn tại thế với phong tục Ấn Độ lúc bấy giờ, lạy là bày tỏ
lòng thành đối với các bậc đạo sư mỗi khi đến nghe Đức Phật
thuyết pháp. Vì thế cho nên Chư tăng cũng như Phật tử đều qùy
ngay ngắn, chắp tay lạy ba lạy, đầu cuối lên hai chân Đức Phật
và đặt trán mình lên bàn chân Ngài, sau đó đi quanh Phật ba vòng
gọi là " nhiểu Phật ", rồi mới ngồi xuống. Điều nầy được
Đức Phật mặc nhiên chấp nhận như một người đệ tử đối với bậc
thầy khả kính, chứ không phải là một giáo điều có tính cách bắt
buộc. Sau khi Phật nhập diệt người đệ tử vẫn xem Ngài như còn
tại thế những hình thức lễ nghi và cung kính ấy vẫn được duy trì
trong hàng môn đệ của Ngài cho đến ngày nay.
-
Lễ Phật
3 lạy trước khi đọc lời Ngài nhằm nhớ lại xưa kia mỗi khi nghe
thuyết Pháp đều lạy như vậy. Ba lạy là tượng trưng cho Tam Bảo
tại thế gian, khi lạy phải qùy xuống, ngữa hai bàn tay ra như
đang nâng hai chân Phật và cúi lưng đạt trán mình trên hai lòng
bàn tay. Lạy như vậy trong kinh gọi là " thân tâm cung kính
lễ ". Trong Phật giáo lạy Phật cũng thể hiện, thấu rõ sự lý
vô ngại, đây là quan niệm của người Phật tử khi thờ Phật lễ
Phật, thọ trì đọc tụng kinh và tọa thiền. Nếu không nhận ra điều
nầy người Phật tử dễ bị thiên chấp: làm sự bác lý, hiểu lý thì
quên sự, đây là bệnh cần phải biết để sửa đổi khi bước chân vào
ngôi nhà Phật Pháp.
-
Về sự có
2 cách lạy:
-
a.
Ngã mạn lễ: Lạy Phật mà tâm không thành, ngoài lạy nhưng
trong tâm không kính, lạy cho lấy có, đầu không sát đất, đứng
lên cúi xuống một cách cẩu thả.
-
b.
Cầu danh lễ: Lạy để người khác thấy mình là biết lạy, nhằm
cho người khác khen mình nhưng khi không có ai thì biếng nhác,
giải đải không muốn lễ bái.
-
Về lý có
4 phép lạy:
-
a.
Phát trí thanh tịnh lễ: Người lạy Phật thấu được cảnh giới
chư Phật,lạy một vị phật là lạy tất cả Phật, lạy một lạy là lạy
cả pháp giới vì hiểu được Pháp thân Phật đều dung thông .
-
b.
Biến nhập Pháp giới lễ: Khi người lạy Phật nhận biết quán
thân tâm của mình cùng pháp giới không rời nhau.
-
c.
Chánh quán lễ: Lạy Phật là lạy tự tâm của chính mình, vì tất
cả chúng sanh đều có tánh giác bình đẳng như nhau: " ở thánh
không tăng ở phàm không giảm " là ý nầy. Cho nên không bị
ngoài duyên Phật bên ngoài chi phối, quên Đức Phật thật ở bên
trong, người xưa thường nói: "dĩ huyển độ chơn" (nương
nơi cái giả để tìm ra cái chân thật)
-
d.
Thật tướng bình đẳng lễ: Lạy Phật với tâm" năng lễ sở lễ
tánh không tịch " ( người lễ và người được lễ đều vắng lặng)
hay còn gọi là phàm thánh là một không hay không khác.
-
Bốn
cách lạy trên thuộc lý cho nên nó cao thâm, nếu không suy tư tột
cùng lý tánh thì khó có thể hiểu một cách xác đáng được.
-
c/ Vì
sao phải niệm Phật?
-
Niệm
Phật là niệm hay nhớ nghĩ đến tánh giác của chính mình,phương
pháp nầy giúp cho hành giả đạt đến trạng thái định tâm, không bị
phiền não dấy khởi. Phương pháp nầy còn là hạt giống gieo vào
cõi nước Cực Lạc, sau khi thân hoại mạng chung sẽ được sanh về.
-
Niệm
Phật được phát xuất từ một câu chuyện : "A Xà Thế là con vua
Tần Bà Sa La và Hoàng Hậu Vi Đề Hy, vì nghe lời xúi dục của Đề
Bà Đạt Đa, đoạt ngôi vua cha bắt nhốt vào ngục, không cho ăn
uống để phải chết đói. Hoàng Hậu Di Đề Hy biết vậy cho nên xin
vào thăm, bà lén đắp thức ăn vào người, để đem vào ngục cho vua
ăn. A Xà thế biết được liền hạ lệnh giam Hoàng Hậu,trong lúc cực
kỳ đau khổ đó, Hoàng hậu tưởng nhớ đến Đức Phật. Đức Phật cũng
cảm nhận được tâm niệm của Hoàng Hậu nên hiện đến thuyết Pháp
nói về pháp môn niệm Phật cỏi Phật A Di Đà ở Tây phương và dạy
bà phương pháp quán Vô lượng thọ. Chính nhờ tu tập pháp môn nầy
sau khi chết Hoàng hậu được vãng sanh ".
-
Niệm
Phật theo tinh thần của Tịnh độ tông có nhiều loại, ở đây đề cập
đến một số phương pháp:
-
-Trì
danh niệm Phật: Hành giả chuyên tâm niệm Phật A Di Đà mỗi ngày
từ khi thức dậy trong 4 oai nghi ( đi,đứng, nằm, ngồi) cho đến
lúc ngủ không cho các tạp niệm xen vào.
-
-Tham
cứu niệm Phật: Đây có thể nói là một câu tham thoại đầu cuả
Thiền tông,vì người niệm Phật luôn luôn quán sát, đặt câu hỏi:
Niệm Phật là ai?, niệm phật từ đâu đến?, đến rồi đi về đâu?...
-
-Quán
tượng niệm Phật: Hành giả ngồi trước tượng Phật quán sát các
tướng tốt của Phật, nhờ chú tâm quán sát nầy mà tâm hành giả
thấm nhuần lâu ngày thành nhất tâm bất loạn.
-
-Quán
tưởng niệm Phật: Hành giả quán tưởng đến hình ảnh đức Phật A Di
Đà, đi đứng không bị gián đoạn, lúc nào cũng đều thấy hình Phật
hiện trước mắt hành giả.
-
-Thật
tướng niệm Phật: Hành giả niệm Phật đạt đến bản thể chơn tâm
không sanh diệt, như như bất động, không còn năng và sở (người
niệm và câu niệm) đây là phương pháp niệm Phật thuộc về "lý"
còn 4 phương pháp trên thuộc "sự " "niệm đến vô niệm mới là
chơn niệm".
-
Trong
năm phương pháp nêu trên thì hành giả niệm Phật thì người niệm
Phật chọn "trì danh niệm Phật" vì dễ thực hiện. Ngoài
niệm Đức Phật A Di Đà ra người Phật tử còn niệm Phật Thích Ca
Mâu Ni, Quán thế Âm...
-
d) Ý
nghĩa lợi ích của tụng kinh, lễ Phật & niệm Phật:
-
Ý nghĩa:
-
- Đọc
tụng kinh để cảm nhận lời Phật dạy và thấy mình không có phước
duyên nghe chính từ kim khẩu Phật nói Pháp và cũng thông qua đọc
kinh chúng ta mới tư duy quán chiếu những lới dạy của Ngài để từ
đó thực hành tu tập. Mục đích của việc tụng kinh là để thấu hiểu
những nghĩa lý thâm sâu trong lời kinh, cho nên kinh nào cũng có
thể thọ trì miễn kinh đó là của Phật dạy và phù hợp với trình độ
nhận thức của chính ta. Điểm quan trọng là việc tụng đọc kinh là
hiểu được lý kinh để cố gắng thực hiện, sống với điều kinh nói,
chứ không phải chỉ tụng cho nhiều hay ít hoặc kinh này cao hay
kinh khác thấp, kinh nầy tiêu nghiệp có phước, kinh kia đổ
nghiệp.
-
- Lễ
Phật là lễ những đức tánh cao cả của Chư Phật, lạy cũng giúp cho
chúng ta giảm bớt đi lòng kiêu căng ngã mạn, cống cao. Lạy Ngài
là mong muốn được noi theo những đức tính từ bi hỷ xả của Phật
và Bồ tát, ngoài ra không phải vì mục đích mong Phật, Bồ Tát ban
ơn gia hộ. Lễ Phật còn là một biểu hiện tinh thần hướng thượng
của người Phật tử đối với đấng giác ngộ mà chúng ta đang hướng
về để tu tập học hạnh giải thoát.
-
Lợi ích
:
-
- Về
Cá nhân : Lúc tụng kinh, lễ Phật tâm hành giả đặt vào văn
kinh và tượngPhậ mà mình đảnh lễ nên sáu căn (mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân và ý) nhiếp niệm một chỗ nên thân, miệng, ý không
buông lung tạo ác nghiệp.
-
- Về
gia đình:
Trong gia đình nếu có người biết tụng kinh,lễ Phật thì gia đình
đó có một nếp sống thuần lương đạo đức do ảnh hưởng qua lời
kinh, tiếng mõ và biết lễ những bậc giác ngộ. Nếu trong gia đình
khi nghe tiếng tụng kinh,thấy người khác lễ Phật tuy không thích
cũng giảm đi sự ồn ào náo nhiệt, có một cảm mến, gia đình đó nhờ
vậy mà hoà thuận êm ấm.
-
- Về
những người chung quanh:
Trong những giờ phút tụng kinh lễ Phật hương trầm hoa ?#7879;n
vào với tiếng mõ nhịp đều pha lẫn tiếng chuông ngân có thể làm
cho những người xung quanh thức tỉnh giấc mê quay về với thực
tại, khi nhìn thấy một người biết lễ bái và tiếng kinh đi vào
tai người nghe, gợi cho tâm thức người ấy một cử chỉ hướng
thượng.
-
Để kết
luận phần nầy chúng ta hãy đọc lại lời bạc trong Khoá Hư Lục
của Trần Thái Tông nhằm thấy rõ ý nghĩa đích thực của
việc tụng kinh, ngồi thiền, niệm Phật và lễ Phật :
-
Lễ
Phật giả kính Phật chi đức,
-
Niệm
Phật giả cảm Phật chi ân,
-
Trì
giới giả hành Phật chi hành,
-
Khán
kinh giả minh Phật chi lý,
-
Tọa
thiền giả đạt Phật chi cảnh,
-
Tham
thiền giả hiệp Phật chi tâm,
-
Thuyết
Pháp giả mãn Phật chi ý.
-
Dịch
nghĩa:
-
Lễ Phật
là kính đức của Phật,
-
Niệm
Phật là cảm ân đức cuả Phật,
-
Giữ
giới là hành hạnh của Phật,
-
Xem
kinh là để rõ lý của Phật ,
-
Tọa
thiền là để đạt cảnh của Phật,
-
Tham
thiền là để hợp cái tâm của Phật,
-
Thuyết
pháp là để đầy đủ nguyện của Phật.
-
III. VẤN ĐỀ ĂN CHAY:
-
Vấn đề
ăn uống trong đời sống con người là một trong những nhu cầu
không thể thiếu, chính vì thế mà dân gian thường nói: "miếng
ăn là miếng tồi tàn, mất đi một miếng lộn gan lên đầu". Thật
vậy con người sống trong xã hội tranh đấu giành với nhau cũng
chỉ vì ăn mà ra. Đạo Phật không phủ định sự ăn cho nên trong
kinh đức Phật cũng khẳng định:" cơ thể do ăn mà tồn tại, do
ăn mà phát triển ", chính vì lẽ đó mà con người tạo biết bao
là sát nghiệp cũng chỉ vì phục vụ cho thân mình, lúc còn là một
Thái tử có lần Ngài than:" sự sống, sống bằng sự chết ".
Qua đó chúng ta thấy rằng người Phật tử không phải ăn chay vì "ăn
kiên",hay ăn đểđổi món ăn cho ngon miệng mà là một phương
pháp tu tập quan trọng mà người thực hiện sẽ có lợi ích cho bản
thân cho gia đình và cho cộng đồng xã hội.
-
1) Một
số quan điểm & lợi ích củaviệc ăn chay:
-
Trong
Phật giáo truyền thống ăn chay được phát xuất vào lúc nào? Thời
kỳ Đức Phật còn tại thế ăn chay hay ăn mặn (? ) đó là những thắc
mắc của nhiều Phật tử tại gia khi nghe hoặc thấy trong Phật giáo
tại sao có nhiều quan điểm và biểu hiện về ăn uống không đồng
nhau?. Ở nội dung của bài nầy chúng tôi chỉ đề cập đến quan điểm
lập trường ăn chay như là một phương pháp tu tập không thể thiếu
được đối với người Phật tử tại gia. Về mặt quan điểm chúng ta
không phê phán mà chỉ dẫn chứ?hững kinh điển của hai hệ tư tưỡng
Phật giáo, nhằm giúp cho người Phật tử nhìn đúng đắn hơn về ăn
chay hầu khẳng định lập trường tu tập của mình va xem đây là dịp
cho người con Phật nuôi dưỡng lòng từ và tránh được nhân quả
nghiệp báo trong hiện tại cũng như tương lai, dựa trên nền tảng
của lời Phật dạy qua hai bộ phái chính là Nguyên Thủy và Đại
thưà Phật giáo làm cứ liệu về thuyết ăn chay của Đạo Phật.
-
a/ Quan
điểm của Phật giáo Nguyên thủy:
-
Phật
giáo Nguyên thủy cho rằng chính đức Phật cũng không đặt thành
vấn đều ăn chay là tiêu chí hàng đầu vì sự giải thoát không phải
do ăn chay mà được; ăn là để có sức khoẻ để hành đạo là chính vì
thế quan niệm ăn chay không có mặt trong thời kỳ đầu của Phật
giáo.
-
Tất cả
chư Tăng Phật giáo Nam tông ở nhiều quốc gia như: Tích Lan, Thái
Lan, Miến Điện, Campuchia, Lào ... một số nước tu theo Phật giáo
Nam
tông và một số tu sĩ tu theo PG
Nam
tông Việt Nam vẫn giữ truyền thống nầy. Quan niệm của Phật giáo
Nguyên thủy cho rằng, bản thân họ không sát sanh, không khích lệ
người khác sát sanh, không tùy hỷ sự sát sanh và vì thế không
phạm giới sát sanh. Có lần Đề Bà Đạt Đa đến thỉnh cầu Đức Phật
ban hành cấm các vị Tỳ Kheo không được ăn thịt cá, Đức Phật
không chấp nhận Ngài nói: "Sự ăn thịt cá có thể coi như trong
sạch với ba trường hợp ( tam tịnh nhục): người ăn không
thấy, không nghe, không có lòng hoài nghi rằng con vật bị giết
riêng cho mình"; trong một đoạn kinh Amagandha Đức Phật nói
với Jivaka:" phẩm hạnh xấu xa của người làm tội bằng nhiều
cách khác nhau, còn tệ hại hơn là ăn thịt cá nhiều ".
-
Trong
Tiểu thừa Phật giáo tư tưởng luận của Kimura Taiken có dẫn một
đoạn kinh A Hàm: " Tôi muốn sống, không muốn chết, muốn được
sung sướng không muốn đau khổ. Nếu có kẻ nào cướp đi sự sống của
tôi, tôi có vui vẻ không?. Nếu tôi không vui vẻ, thì kẻ khác
cũng không vui vẻ khi tôi cướp đi của họ sự sống và sự sung
sướng ấy. Không những thế phàm cái gì mình không ưa thích thì kẻ
khác cũng không thích..."
-
Qua
những trích dẫn nêu trên chúng ta thấy rằng Phật giáo Nguyên
Thủy cho rằng sự bất tịnh của con người không phải do ăn, mà nó
chính là lòng tham lam, sân hận, si mê, gian xảo, kiêu căng, tật
đố....tạo thành ác nghiệp. Chính vì quan niệm như vậy cho nên
việc ăn chay hay ăm mặn là không bắt buộc, vì Đức Phật và đệ tử
của Ngài theo truyền thống sống vào sự khất thực "ăn
để mà sống chứ không phải sống để ăn".
-
b/ Quan
điểm của Phật giáo Đại thừa:
-
Trái
với những quan niệm trên Phật giáo Bắc tông cho rằng người Phật
tử là người nuôi dưỡng lòng từ thì không vì một lý do gì mà
không thực hiện tinh thần từ bi của Phật trong đời sống.
-
Về lịch sử:
-
- Việc
ăn chay sau khi Phật nhập Niết đạo Phật phát triển về phương Bắc
và phát triển mạnh vào thời điểm 274 - 232 ( khoảng thế kỷ 13
trước Tây lịch) vào thời đại Asoka (A Dục Vương ), một vị Hoàng
đế Phật tử ăn chay trường và khuyến khích mọi người ăn chay, nhà
Vua còn ra lệnh cấm mọi hành động giết thú vật để tế lễ thần
linh, việc săn bắn trong rừng, dưới sông đều bị cấm. Ngài xây
dựng nhiều bia đá ghi khắc giới luật và lời Phật dạy, trong một
bia đá có ghi "Không nên lấy sự sống nuôi sự sống. Cho đến
rơm rạ, nếu còn côn trùng trong ấy, cũng không nên đốt ".
-
- Khi
Phật giáo du nhập vào đất nước Trung Hoa dưới triều đại nhà
Lương (502-594 trước Tây lịch), triều đình đã ban hành lệnh cấm
tất cả các thức ăn thịt cá tổ chức tại các buổi tiệc trong hoàng
cung và yêu cầu dân chúng ăn chay, Nhà vua cũng cấm việc giết
thú vật tế lễ thần linh trong Đạo giáo( Lão giáo), cấm không
được dùng những con vật như tắc kè, rắn, hổ ...làm thuốc. Đến
triều đại nhà Đường việc ăn chay càng được triều đình cổ vũ ,
mãi đến triều Minh có Hoà Thượng Vân Thê - Châu Hoằng
(1565-1615) là vị xiển dương việc ăn chay một cách mạnh mẽ,
không những khuyên ăn chay mà còn khuyến khích mọi người nên
phóng sanh.
-
Về Kinh Đại thừa:
-
Trong
Kinh điển của Phật giáo Đại thừa rải rác nhiều đoạn Đức Phật nói
đến việc cấm ăn thịt :
-
- Kinh
Lăng già (Lankavatara) "Có thể có một số tín đồ của Ta còn mê
muội sau khi Ta nhập diệt, không biết lời dạy và sự dạy của ta
vá có thể kết luận sai lầm rằng; Ta cho phép họ ăn thịt và chính
Ta cũng ăn thịt . Điều nầy hẳn là sai lầm. làm sao những người
đang an trú trong tâm từ bi, tu tập khổ hạnh và cố gắng theo con
đường Đại thưà, lại có thể bảo những người khác ăn thịt thú
vật?. Qủa thực Ta đã từng đưa ra những qui định về sự ăn, chứ
không qui định về sự ăn thịt...".
-
- Kinh
Lăng Nghiêm : "Người tu chánh định cốt ra khỏi trần lao, nếu
tâm sát hại chẳng trừ, thì chẳng thể ra khỏi, dẫu có nhiều trí
hiện tiền, mà chẳng dứt sát hại ắt phải lạt vào đạo qủy thần
...Các loài qủy thần kia cũng có đồ chúng, mỗi mỗi đều xưng đã
thành đạo vô thượng,sau khi ta diệt độ,trong đời mạt pháp, loại
qủy thần nầy sôi nổi trên thế gian, tự nói ăn thịt cũng đạt được
đạo Bồ Đề....".
-
- Kinh Niết Bàn: "Này Ca Diếp, bắt đầu từ ngày nay
trở đi , Như Lai không cho phép hàng Thanh văn ăn thịt, nếu đàn
việt đem đến dâng cúng phải xem thịt ấy như con thịt mình.Như
Lai cấm tất cả các đệ tử không được ăn bất cứ thịt gì".
-
- Trong
đoạn kinh khác, một hôm Ngài A Nan bạch Phật:
-
- "Bạch
đức Thế tôn, tại sao trước kia Phật cho các đệ tử ăn "tam
tịnh nhục" mà nay Ngài lại cấm không được ăn thịt?”.
-
- Đức
Phật nói:
"Vì trình độ các ông trong buổi sơ cơ còn thấp kém, chưa có
thể lãnh thọ ...đến nay trình độ các ông đã cao nên ta cấm tuyệt
đối ăn thịt cá ".
-
c/
Quan
điểm ăn chay của người Tây Phương:
-
Hiện
nay trên thế giới có hai chế độ ăn uống: một chế độ ăn thực phẩm
với rau đậu, ngũ cốc mà người Đông phương cho rằng đó là ăn
chay, còn một chế độ khác là ăn cá thịt và các thức ăn biến chế
từ cá thịt, các động vật. Khoa học đã có những công trình nghiên
cứu cho rằng các loại bệnh như: nhồi máu cơ tim, tai biến mạch
máu não, một số bệnh ung thư là do ăn nhiều thịt động vật, các
chất bơ, sửa. So sánh hai chế độ ăn uống nêu trên thì chế độ ăn
thực phẩm rau, đậu có nhiều sức khoẻ, ít bệnh tật hơn ăn thịt
cá. Điều nầy đã chứng minh cho chúng ta thấy nạn thịt bò điên
tại Anh năm 1998 và thịt gà tại Hồng Kông năm 1999, tạo nên sự
khủng hoảng kéo dài cho đến ngày nay vẫn còn là một sự ám ảnh
cho nhiều quốc gia trên thế giới, nhập khẩu các loại thịt nầy.
Bà Linda Gilbert Chủ tịch Tổng giám đốc công ty Heath Focus( Tư
vấn và tiếp thị ) ở Mỹ phát biểu: " Hình như chủ nghĩa ăn
chay đang tràn ngập các quầy hàng heath food và đang trên đường
đi vào các dòng sinh hoạt chính của đời sống người dân Mỹ "
và bà kết luận : " Chiều hướng giảm thiểu hoặc chấm dứt ăn
thịt sẽ tiếp tục ". Trên thế giới ngày nay vấn đề môi trường
sinh thái và các Hội bảo vệ động vật hoang dã có khuynh hướng
càng ngày càng nhiều, chứng tỏ tinh thần tôn trọng sự sống của
người Tây phương có chiều hướng phát triển; Bác sĩ Albert
Schweitzer, người đoạt giải Nobel về hoà bình đã nói: " không
giết sinh vật kể cả côn trùng, không ăn bất cứ cái gì mà trước
kia đã từng có sự sống"
-
2) Lợi
ích của sự ăn chay:
-
Ăn chay
ngoài ý nghĩa là một phương pháp tu tập nó còn ảnh hưởng về mặt
đời sống, dưới đây là bản so sánh của Bác sĩ Lê văn Cầm
- Tâm Chánh ( Pháp) chúng tôi trích từ quyển "Quan điểm về
ăn chay của đạo Phật" do Tâm Diệu biên soạn nhằm giúp qúi
Phật tử so sánh trên cơ sở khoa học :
-
BẢNG SO SÁNH TÍNH THEO 100 GRAM MÓN ĂN
-
|
-
Chất đạm
|
-
Chất béo
|
-
Chất ngọt
|
-
Chất vôi
|
-
Chất sắt
|
-
Trứng gà trứng vịt
-
Thịt bò
-
Cá chiên hay nướng
-
Thịt gà nướng
-
Sữa tươi
-
Gạo lức
-
Gạo trắng
-
Trái chanh
-
Trái xoài
-
Trái cam
-
Đậu phụng rang
-
Đường trắng
-
Củ cải đỏ
-
Cải bắp
-
Rau dền tươi
-
Đậu trắng lớn hột
-
Đậu nành
-
Khoai lang tây
-
Khoai lang ta nướng
-
Cà chua tươi
|
-
12,8
-
18,6
-
24,0
-
-
22,1
-
3,2
-
7,7
-
7,7
-
0,7
-
26,7
-
1,2
-
1,4
-
2,3
-
21,8
-
43,0
-
2
-
1,9
-
1
|
-
11,6
-
-
16,0
-
12,5
-
-
3,9
-
3,6
-
1,7
-
0,3
-
0,2
-
44,2
-
0,3
-
0,2
-
0,3
-
1,7
-
2
-
0,1
-
0,7
-
0,3
|
-
0,8
-
-
-
-
4,7
-
77,7
-
79,4
-
13,3
-
17,2
-
10,1
-
23,4
-
99,5
-
9,3
-
5,3
-
3,2
-
62,0
-
19
-
19,1
-
27,9
-
4
|
-
0,062
-
0,007
-
0,026
-
0,013
-
0,110
-
0,066
-
0,010
-
0,022
-
0,005
-
0,019
-
0,067
-
0,045
-
0,046
-
0,147
-
0,102
-
0,013
-
0,020
-
0,010
|
-
2,90
-
8,70
-
1,32
-
3,32
-
0,20
-
2
-
0,90
-
0,60
-
0,30
-
0,20
-
2
-
0,62
-
0,43
-
2,55
-
10
-
8,51
-
1,02
-
0,80
-
0,44
|
-
Trên
bảng này số trong 4 cột đầu chỉ về Gram. Số trong cột "sắt" chỉ
về Miligram. Số trong cột sinh tố chỉ về đơn vị quốc tế
-
- Chất
đạm thường có nhiều trong đậu nành, đậu phộng, thịt, cá...
-
- Chất
béo thường có nhiều trong dầu, mỡ, bơ (Le beurre)...
-
- Chất
ngọt thường có nhiều trong đường, mía, các thứ trái cây chín,
các loại bánh ngọt hay kẹo, mứt hoặc cà-rem...
-
Hơn
nữa, chúng ta còn thấy các chất vôi, chất sắt cũng như các sinh
tố A, B, C, D, E, F... và nước nữa.
-
Cho
nên, chúng ta ăn uống hằng ngày phải lựa chọn thế nào cho có đầy
đủ chất bổ để nuôi cơ thể, thông thường thân thể con người cân
nặng khoảng 55 đến 75 kg, thì phải có từ 2.000 đến 3.000 mới đủ
số nhiệt lượng (calories). Ví như một người cân nặng 60 kg, thì
phải cần dùng 60 grammes chất đạm, 360 grammes chất ngọt và 60
grammes chất béo. Bởi vì, các nhà khoa học đã chứng minh được là
1 gramme chất béo sanh được 9 đơn vị nhiệt lượng. Do vậy, chúng
ta dùng những thực phẩm kể trên, sẽ có được đơn vị nhiệt lượng
như sau :
-
60 gr.
chất đạm x 4 = 240
-
360 gr.
chất ngọt x 4 = 1.440
-
60 gr.
chất béo x 9 = 540
-
Cộng
chung = 2.220
-
Qua bản
so sánh nêu trên ăn chay sẽ có những lợi ích như sau:
-
-Tránh
được các bệnh tật do các động vật mang lại qua ăn mà phát sinh,
như cổ nhân thường nói:
-
"Họa
tùng khẩu xuất, bệnh tùng khẩu nhập" (họa do miệng mà ra,
bệnh do miệng mà vào) thân thể được khoẻ mạnh.
-
- Nuôi
dưỡng tinh thần từ bi trong mỗi con người, chính nhờ ăn chay mà
các ác pháp không phát sinh tinh thần được nhẹ nhàng trong sạch.
-
IV. SÁM HỐI Ý NGHĨA &
LỢI ÍCH:
-
1) Khái
niệm về sám hối:
-
Đức
Phật thường ca ngợi " Ở đời có hai hạng người đáng khen: hạng
người thứ nhất là người không có lỗi, hạng thứ hai là người có
lỗi mà biết ăn năn sám hối". Ngài khẳng định một cách qủa
quyết :" Phàm còn xuống lên trong ba cõi, lăn lộn trong sáu
đường, thì không một loài nào hoàn toàn trong sach, không một ai
mà chẳng có tội ". Tất cả mọi chúng sanh trong đời sống hằng
ngày không ai là không có lỗi lầm do vô tình hoặc cố ý tạo nên.
Người Phật tử là người dám mạnh dạn nhận ra những lỗi lầm mà
mình phạm phải. Trong Phật giáo sám hối không phải là"rửa tội"
hay xá tội như một số quan niệm của các tôn giáo khác, mà đây là
một hành động mạnh dạn nhận ra lỗi lầm để rồi sau đó tự mình sửa
đổi.
-
Phật
giáo không bao giờ tin có một vị thần thánh nào có thể xá tội
hay buộc tội mà Sám hối là một phương pháp phản tỉnh chính mình,
nhằm thăng hoa tự thân cho mỗi người con Phật trên bước đường tu
nhân học Phật. Có thể xem đây là con đường chuyển hóa tam nghiệp
trong qúa trình hoàn thiện nhân cách của một con người từ?73;ịa
vị phàm phu bước lên Phật qủa.
-
2) Sám
hối là gì ?.
-
a/ Định nghĩa:
Tiếng Phạn gọi là Samma, Trung
Hoa dịch âm là"hối qúa". Trong kinh nói : "Sám giả, sám kỳ
tiền khiên, Hối giả, hối kỳ hậu qúa" ( ăn năn lỗi trước,
chừa bỏ lỗi sau).
-
Như
vậy, Sám hối là tự mình ăn năn, hổ thẹn những lỗi lầm trước đây
đã tạo, nguyện sửa đổi không dám tái phạm những lỗi lầm đó nửa.
Nói cách khác Sám hối là "ăn năn chừa bỏ ", đây là trọng
tâm của sự sám hối. Nhưng nếu cứ thường xuyên phạm tội, rồi
thường xuyên sám hối, lại phạm tội lại sám hối, như vậy không
còn ý nghĩa và không phải là phương pháp sám hối của Phật dạy.
-
Sám hối
có thể xem như là sự mạnh dạn ăn năn nhận lỗi của người thế
gian, khi mình làm cho người nào đó buồn phiền tức giận, đến xin
lỗi. Trong Phật giáo cũng thế, do thân hành động sai, lời nói
không khéo, ý buông lung niệm ác, nay nhận ra bộc lộ lỗi lầm của
mình, tha thiết hối lỗi quyết không tái phạm.
-
b/ Các pháp sám hối :
Chúng biết lỗi lầm là do tâm tạo, cho
nên cũng phải do tâm ăn năn sám hối, chính vì lẽ đó mà các vị tổ
sư đã chọn lọc một số phương pháp sám hối trên cả hai phương
diện sự và lý. Bài văn sám hối mà người Phật tử thường đọc nhất
mỗi khi tác pháp sám hối:
-
Xưa nay
đã tạo bao ác nghiệp,
-
Đều bởi
vô thỉ tham sân si
-
Từ thân
miệng ý mà sanh ra
-
Tất
cả,nay con xin sám hối.
-
Về sự sám hối:
-
-Tác
pháp sám hối:Lập
đàn thỉnh chư Tăng chứng minh,người sám hối trình bày lỗi
lầm của mình thành khẩn ăn năn,sám hối không tái phạm nửa.
-
-Thủ
tướng sám hối:
Người sám hối đến trước bàn thờ Phật và Bồ Tát thành tâm lễ bái
từ 1 ngày, 7 ngày cho đến 49 ngày, khi nào thấy được tướng hảo
của Phật và Bồ tát hoặc hoa sen thì mới thôi.
-
-Hồng
danh sám hối:
Đây là pháp sám hối do Bất Động pháp sư đời Tống biên sọan lấy
từ 53 danh hiệu Phật trong Kinh Ngũ Thập Tam Phật và rút
35 danh hiệu trong kinh Quán Dược vương, Dược Thượng.Đây
là nghi thức sám hối phổ thông nhất được các Chùa Việt Nam
thường dùng trong những ngày Sám hối .
-
Về lý sám hối:
-
-Vô
sanh sám hối:
lý sám hối dành cho những người có căn cơ cao, cho nên ở đây
chúng ta chỉ biết qua một pháp nầy với hai cách qúan:
-
- Quán
tâm vô sanh: Đây là lý được rút từ Kinh Kim Cang: " Tâm qúa
khứ không thể được, tâm hiện tại không thể được và tâm vị lai
cũng không thể được". Dùng pháp quán để thấy rõ : " Tội
từ tâm sanh cũng từ tâm mà diệt ".
-
- Quán
pháp vô sanh: Quán sát thật tướng không sanh diệt "ở thánh không
tăng ở phàm không giảm"; đây chỉ cho chơn tâm, Phật tri kiến,
Pháp thân ...Vì khi nhận được chơn tâm rồi thì các tướng sanh
diệt không còn.
-
Tuy có
nhiều phương cách khác nhau về sám hối nhưng người Phật tử chúng
ta phải tự chọn cho mình một cách thích hợp với mình nhất để
nương nơi đó mà sám hối, miễn sao chúng ta đọc và hiểu được
nghĩa lý của việc làm thì thật sự mới có lợi ích. Trái lại,
miệng đọc mà không hiểu ý nghĩa thì chẳng được lợi lạc gì. Đây
là cái tệ trong Phật giáo hiện nay.
-
3/ Lợi
ích của sám hối:
-
Nếu
người Phật tử biết sám hối nghĩa là biết sửa đổi, tức nhiên là
một người đó có tiến bộ trên con đường tu tập sẽ được những lợi
ích thiết thực trong hiện tại cũng như tương lai. Đức Phật đã
dạy trong kinh Trường A Hàm: "Ai biết sửa đổi lỗi lầm thì
người đó có tiến bộ trong giáo pháp của Như Lai" và Ngài
cũng khẳng định: "Người có lỗi không biết sửa đổi, diệt trừ
nơi tự tâm, thì lỗi ấy sẽ đến thân, như nước chảy về biển, dần
dần thành sâu rộng " ( Kinh tứ thập nhị chương) . Qua đó
chúng ta rút ra được những lợi ích như sau:
-
-
Mọi
hành động trong đời sống không bị sa vào lầm lỡ vì chúng ta đã
có ý chí cương quyết biết nhận ra lỗi lầm.
-
-
Phẩm giá con người được nâng cao, các hạnh lành càng ngày càng
phát triển, vì không tạo nhân xấu trong hiện tại .
-
-
Thân
tâm luôn luôn nhẹ nhàng vì không lo âu sầu muộn.
-
B. BỒN
PHẬN & TRÁCH NHIỆM CỦA NGƯỜI PHẬT TỬ TẠI GIA:
-
I. KHÁI
QUÁT BỒN PHẬN & TRÁCH NHIỆM:
-
Bất cứ
người nào sống trong xã hội đều phải có trách nhiệm và bổn phận
tùy theo môi trường và hoàn cảnh của từng cá nhân mà bổn phận và
trách nhiệm được thể hiện một cách khác nhau.Người dân có bổn
phận đối với quốc gia,vợ có bổn phận trách nhiệm với chồng và
ngược lại, cha mẹ có bổn phận và trách nhiệm đối với con cái và
ngược lại. Một gia đình thực sự có hạnh phúc yên vui không thể
không có nghiã vụ trách nhiệm của những thành viên trong gia
đình. Một quốc gia có những công dân làm rạng danh cho tổ quốc
là nhờ vào sự đóng góp của công dân đó có lòng yêu đất nước thực
hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của mình một cách thiết thực. Một
nhà xã hội học đã nói: " Thân ta là một phần tử trong xã
hội,vậy mỗi việc của ta làm cũng phải giúp được sự sinh hoạt của
xã hội ". Đối với người con Phật là một phần tử trong gia
đình, quốc gia, xã hội thì trách nhiệm và bổn phận lại càng đặt
cho người Phật tử, nhằm thể hiện tinh thần của đạo Phật đi vào
cuộc đời, thực sự có ích cho cuộc đời.
-
1) Bổn phận người
Phật tử tại gia là gì?
-
a/ Bổn
phận & trách nhiệm đối với tự thân:
-
Người
Phật tử là người biết tu tập học hạnh giải thóat cho chính mình
vì thế cho nên người Phật tử chân chính là người biết tu sửa tự
thân không bị các thế lực hoàn cảnh sai sử lôi kéo và không thể
nào mặc cho dòng đời trôi chảy, như lục bình sáng trôi lên,
chiều trôi xuống, như người cưỡi ngựa không điều khiển được ngựa
để nó tự đi đâu thì đi. Chúng ta phải chiụ trách nhiệm những gì
mình đã làm: "Con người luôn luôn đối diện với chính mình và
đứng trước sự cố gắng tìm hiểu, thực hành để tiến tới chỗ hoàn
thiện, đem lại sự thăng bằng và giải thoát ". Đây là lý
tưởng nhằm xác định lập trường trong tinh thần tu tập của người
con Phật về đời sống của tự thân điều nầy trong Kinh Đại Niết
Bàn đức Phật đã dạy: "Các người hãy cương quyết chú định vào
chân lý. Các người hãy lấy chân lý làm ngọn đuốc là hòn đảo
nương thân cho chính mình".
-
Trong
hoàn cảnh xã hội ngày nay, khả năng kiểm soát mình của con người
trở nên mong manh vì bị kẹt trong hệ lụy kinh tế xã hội... và
các sự ràng buộc khác trong đời sống, muốn thoát ra khỏi vòng
đời cả một sự khó khăn vô vàn, mà người thiếu ý chí, khó có thể
làm được. Người Phật tử là người phải xây dựng cho mình một ý
chí và nghị lực mạnh mẽ, sống trong môi trường xã hội nhưng luôn
luôn tu dưỡng tự thân để hoàn thiện bản thân có an lạc, khác với
người không hiểu đạo: " Con người tự đổi mới hay đúng hơn con
người luôn luôn tự mình đổi mới lại mình trong tất cả thời
". Đó chính là nhiệm vụ trách nhiệm của người Phật tử xây dựng
bản thân và tạo cho một gia đình có hạnh phúc như trong kinh
Pháp Cú: " Hết ngày này qua ngày khác,hết giờ nọ sang giờ
kia, người thợ vàng phải công phu thế nào mới lọc được vàng ròng
thì người muốn cho thân tâm mình trở nên trở nên trong sạch cũng
phải cố gắng khó nhọc rèn luyện như theᠦquot;
-
b/ Bổn phận & trách
nhiệm đối với gia đình:
-
Người
Phật tử tại gia là người thực hiện tinh thần ứng dụng giáo lý
đạo Phật trong đời sống xã hội, cho nên phải tạo lập gia đình có
hạnh phúc. Chúng ta biết rằng gia đình là tế bào của xã hội, là
tổ ấm của con người, nó là môi trường tốt để xây dựng tình cảm
yêu thương và hiểu biết . Xây dựng một gia đình hạnh phúc tức là
chúng ta đã tạo cho con người có một trái tim biết yêu thương và
trách nhiệm. Có biết bao gia đình không còn là "tổ ấm" mà
trở thành địa ngục trần gian vì thiếu chất liệu bổn phận trách
nhiệm của tình yêu thương và hiểu biết. Ở đây chúng tôi dựa vào
Kinh Thiệ⮠-
Sanh .
-
c/ Bổn phận của cha
mẹ đối với con cái:
-
Trong
kinh Đại Bảo tích Đức Phật dạy: " Đã là cha mẹ, ai cũng muốn
đem lại sự lợi ích cho con cái,cho nên cha mẹ hay làm những việc
khó làm, hay nhẫn những điều khó nhẫn " .Vì vậy cha mẹ phải
có 5 nghĩa vụ đối với con cái:
-
a/ Phải
giáo dục con cái tránh dữ làm lành, để trở nên người có đức
hạnh.
-
b/ Phải
khuyên con cái gần ngưòi tốt xa người xấu, nên làm bạn với người
hiền có trí thức.
-
c/ Phải
thương yêu,hiểu biết con cái, giúp đỡ tạo điều kiện cho con ăn
học ,nên chia sẻ và an ủi với con những điều khó khăn trong cuộc
sống.
-
d/ Phải
dự hướng, việc hôn nhân cho con cái.
-
e/ Phải
cho con tham gia việc gia đình, góp phần xây dựﮧ hạnh phúc
-
d/ Bổn phận của con
cái đối với cha mẹ:
-
Trong
Kinh Tâm Địa Quán Đức Phật dạy:
-
Non Thái ơn cha mới sánh bằng
-
Biển
sâu là đức mẹ hiền nay
-
Dù
trong một kiếp ta lưu lại
-
Nói đến
công kia khó hết tầy.
-
Cho nên
làm con đối với cha mẹ phải có 5 điều :
-
a/ Làm
con phải hiếu thảo đối cha mẹ như tục ngữ ông cha ta thưòng dạy:
-
Nếu
mình hiếu với mẹ cha,
-
Thì con
cũng hiếu với ta khác gì,
-
Nếu
mình ăn ở vô nghì,
-
Dừng
mong con hiếu làm gì uổng công.
-
b/ Bổn
phận làm con khi làm việc gì cũng phải trao đổi ý kiến với cha
mẹ .
-
c/ Bổn
phận làm con phải gánh vác trách nhiệm gia đình ,không chống đối
với cha mẹ.
-
d/ Phải
biết chia xẻ những khó khăn của cha me,áo
đáp công ơn cha mẹ khi còn hiện tiền.
-
e/ Khi
cha mẹ đau ốm làm con phải biết săn sóc,lo lắng thuốc thang điều
trị.
-
e/ Bổn phận người
chồng đối với vợ:
-
Người
chồng là trụ cột trong gia đình, làm chồng là phải biết thương
yêu vợ, chính lòng yêu thương vợ là động lực gia đình có hạnh
phúc, trên thuận dưới hoà.Vì thế cho nên trong Kinh Trường A Hàm
Đức Phật dạy làm chồng đối với vợ phải có 5 điều:
-
a/
Khi vợ đi hay lúc trở về, người chồng phải biết đưa đón, lấy lễ
mà đối với nhau.
-
Một nhà
tâm lý học đã nói: " Một tình yêu đầm thắm trong một lễ độ,
tất nhiên sẽ là một gia đình hoà hợp, vui vẻ và vĩnh cửu. Một
tình yêu chỉ hướng về sự thỏa mãn nhục dục một cách sỗ sàng trên
bọc trong dâu tất nhiên không tránh khỏi nửa đường đứt gánh...".
-
b/
Phải sống có nề nếp, đừng vì mình làm khổ vợ con phải hầu hạ cơm
dâng nước rót.
-
c/ Phải
biết săn sóc vợ, mua sắm áo quần trang sức tùy theo hoàn cảnh
của gia đình.
-
d/ Phải
tin cậy giao công việc quản lý gia đình cho vợ.
-
e/
Không được
"
một dạ hai lòng " làm cho vợ buồn phiền sầu não.
-
f/ Bổn phận người vợ
đối với chồng:
-
Trong
Kinh Tịnh Hạnh Pháp Môn đức Phật dạy: " Cúng dường cha
mẹ, lo lắng cho chồng(vợ), chăm môn con cái cũng được gọi là
tịnh hạnh".Ở đây người vợ là người " nội tướng "
trong gia đình, giá trị của người vợ trong gia dình và xã hội
không phải là sự thấp kém như một số người quan niệm, mà nó có
vị trí quan trọng trong việc xây dựng một gia đình có hạnh phúc.
Chính vì vậy Đức Phật đề cập 5 việc mà bổn phận làm vợ phải thực
hiện:
-
a/
Người vợ phải biết kính yêu chồng, chăm lo cho chồng khi đi cũng
như khi về.
-
b/ Phải
biết tạo hạnh phúc gia đình bằng những bữa cơm đầm ấm khi chồng
về.
-
c/
Người vợ phải mềm mỏng, thủy chung giử gìn tiết hạnh, không có
tính lẳng lơ.
-
d/ Lúc
chồng nóng giận,không nên tạo thêm bất hoà mà phải biết :khi dùn
khi thẳng như Ca dao ta thường nói:
"chồng giận thì vợ bớt lời, cơm xôi bớt lữa, có đời nào khê".
-
g/ Bổn phận đối với
họ hàng, thân thuộc:
-
Kinh Vô
Lượng Thọ nói: "... Anh em, họ hàng trong ngoài của gia đình,
nên kính nhau đừng nên ganh ghét nhau... Lời nói và sắc mặc
thường hoà nhã không nên chống đối nhau..." Vì nhận thức
sinh mạng con người có mặt trên cuộc đời là do sự tiếp nối không
ngừng, trong nguồn gốc nhân chủng. Cùng nguồn gốc là cùng huyết
thống trong hệ thống gia đình nội ngoại mà chúng ta gọi là "gia
tộc", tức là anh chị em, chú bác, cô dì...Đối sử với nhau cho
phải đạo là chúng ta thể hiện đạo lý làm người. Trong Kinh Thiện
Sanh đề cập đến 5 điều đối với quyến thuộc:
-
a/ Khi
dòng họ có những điều bất trắc:máu chả?uột mền" chúng ta phải
biết thương xót. Phải biết giúp đỡ nhau khi hoạn nạn.
-
b/ Khi
thấy trong thân tộc có những người làm điều không hợp đạo lý
chúng ta phải dùng cách khuyên nhắc.
-
c/
Những điều bí mật riêng tư của người trong họ hàng chúng ta phải
biết bảo vệ. Đó là tinh thần vì danh dự chung :
"Xấu
lá xấu nem,xấu em xấu chị".
-
d/ Bà
con quyến thuộc phải tới lui thăm viếng, để tạo mối thân tình
cốt nhục.
-
e/ Phải
biết chia sẻ,giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn thiếu hụt.
-
h/ Bổn phận đối với
Chư Tăng Ni :
-
Tăng(Ni) Bảo là một trong ba ngôi báu đồng thời cũng là một
trong "bốn ân" của người con Phật tại gia lẫn xuất gia, vì thế
cho nên để trở thành người Phật tử chân chánh điều kiện trước
tiên thực hiện những điều kiện phải có nhằm giúp cho người Phật
tử hiểu đạo,khác với người không hiểu đạo.Điều nầy cácvị Tổ Sư
thường dạy khi bước chân vào chùa "Tiên bái trụ trì, hậu bái
Thích ca"( trước nhất phải lễ vị trụ trì sau mớ?#7841;y Đức
Phật Thích Ca).
-
a/ Khi
vào Chùa "kính Phật phải biết trọng Tăng", thân cận các bậc Minh
sư, những thiện hữu trí thức như lời cổ đức thường dạy: "bạn
lành nương cậy, thầy tà lánh xa".
-
b/ Phải
cung kính theo sự hướng dẫn của các vị minh sư, thiện hữu trí
thức.
-
c/ Phải
biết áp dụng pháp vào đời sống tu tập để có an lạc
-
d/ Đến
chùa là cầu học, cho nên chư Tăng là người có thể giúp cho chúng
ta hiểu thêm những điều chưa biết về giáo pháp .
-
e/ Phải
chọn cho mình một Pháp môn thích hợp với căn cơ trình độ của
chính mình.
-
Kết Luận:
Trong tổ chức của Phật giáo bao gồm
tứ chúng (bốn chúng): 2 chúng xuất gia(Tỳ kheo, Tỳ kheo Ni)
và 2 chúng tại gia ( Thiện nam và Tín nữ hay còn gọi là Ưu Bà
Tắc, Ưu Bà Di). Chúng xuất gia có bổn phận thực hành giáo
pháp truyền dạy hướng dẫn cho chúng tại gia. Chúng tại gia gần
gủi chúng xuất gia học tập giáo pháp ủng hộ tứ sự ( y phục,
ngọa cụ, thực phẩm, y dược) cho chúng xuất gia có điều kiện
tu hành. Tất cả bốn chúng đều là đệ tử Phật đi theo con đường
Phật dạy. Tuy nhiên do hoàn cảnh và điều kiện tu tập học hạnh
giải thoát của người tại gia còn mang nặng gánh gia đình và xã
hội. Nguyên tắc giáo dục của Đức Phật là tuỳ theo trình độ, căn
cơ và hoàn cảnh mà pháp dạy có khác nhau mà có sự sai biệt, điều
nầy có lần một vị cư sĩ Trưởng thôn Asibandhakaputta hỏi Phật: "
Bạch Đức Thế Tôn vì sao với một số người Phật thuyết pháp
trọn vẹn, còn đối với một số người, Phật thuyết Pháp không hòan
toàn trọn vẹn? ".
-
Đức
Phật trả lời: " Ví như ba thửa ruộng tốt, trung bình và một
thửa xấu .Với ba thửa ruộng ấy, người nông dân sẽ gieo trồng
thửa ruộng tốt trước tiên, sau đó đến thửa trung và sau hết mới
gieo thửa xấu. Cũng thế, Thế Tôn đối với hàng xuất gia xem như
thửa ruộng tốt,đối với tại gia là thửa ruộng trung bình v à cuối
cùng là với hàng ngoại đạo là thưả ruộng xấu. Tất cả ba hạng
người kể trên đều được Thế tôn thứ tự giáo hóa với đầy đủ thiện
Pháp,với đầy đủ giáo lý giải thoát,vì cả ba nương tựa Thế tôn
như ánh sáng,như là nơi ẩn trú ,nơi che chở " (TươngƯng bộ
kinh IV Tr.315) . Qua đó người Phật tử chân chánh là người biết
sống đúng, sống hợp, sống có ích cho mình cho mọi người.
-
-
Tài
liệu tham khảo:
-
-Nguyên
Thủy Phật giáo Tư tưởng luận của Kimura Taiken-Thích Quảng Độ
dịch, Khuông Việt ấn hành 1971.
-
-Phật
học Phổ Thông quyển nhất Thành Hội PG TP. HCM ấn hành 1997.
-
-Phật
học khái luận -Thích Chơn Thiện-Ban giáo dục Tăng Ni ấn hành
1993.
-
-Đạo
Phật với con người-Thích Tâm Châu -NXB Tâm Quang 1964.
-
-Khoá
Hư lục giảng giải-Thích Thanh Từ- TV Thường Chiếu ấn hành-1996.
-
-Quan
điểm về ăn chay của Đạo Phật -Tâm Diệu biên soạn.
-
-Người
Phật tử Chân chánh-Phúc Trung biên soạn.
-
|
|