|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
LỘ TRÌNH TU CHỨNG
-
TRONG A TỲ ĐẠT MA
-
Thích Hạnh Bình
-
--o0o--
-
-
I. DANH LUẬN:
-
Sau khi Thế Tôn nhập diệt, khoảng thế kỷ thứ III trước Tây lịch,
vào triều đại Khổng Tước, Phật giáo được vua A Dục (Asoka) tín
nhiệm và hoằng dương, Phật giáo đã trở thành quốc giáo. Từ đó
Phật giáo mở đầu cho sự chuyển biến về hình thức sinh hoạt lẫn
nội dung tư tưởng. Về mặt hình thức, Phật giáo trước thời A Dục
chỉ là một đoàn thể xuất gia, sống trong rừng sâu, chuyên tu
tập, thực nghiệm tâm linh, chưa có những sinh hoạt mang tính tôn
giáo, với đời sống vô gia cư, vô tài sản, lấy việc khất thực làm
phương tiện nuôi sinh mạng, đến thời A Dục Phật giáo đã chuyển
thành cuộc sống định cư, mở đầu cho việc hoạt động Tôn giáo,
mang màu sắc tín ngưỡng. Trong công tác hoằng dương Phật pháp
nhà vua đã xây dựng 84.000 ngôi Tháp, thờ cúng Xá Lợi Phật. Vì
có nhu cầu xây dựng, cho nên có nhu cầu tài chánh, người có kỷ
năng, người bảo quản... là điều tất yếu. Vì lòng hoài niệm và
kính phục của hàng đệ tử đối với đức Phật, cho nên Xá Lợi Phật
đã trở thành đối tượng tôn thờ cho mọi tín đồ Phật Giáo. Về mặt
tư tưởng, do nhu cầu sinh hoạt của Tăng già đổi thay, đã dẫn đến
ý kiến bất đồng về một số giới điều, đây là một trong những lý
do chính yếu cho việc phân hóa Phật giáo, và cuối cùng Phật giáo
tại Ấn Độ hình thành 18 hoặc 20 bộ phái. Điều đó cho chúng ta
thấy rằng, giáo lý Phật giáo là một thật thể sống, là một quá
trình phát triển tư tưởng từ khởi đầu cho đến ngày nay, tùy theo
mọi thời gian và mọi không gian yêu cầu khác nhau, những nhà
Phật học phân tích lý giải theo nhu cầu của từng xã hội ấy, tất
nhiên sự lý giải này phải được căn cứ từ những lời dạy của đức
Phật.
-
Hôm nay, chúng ta là những người của cuối thế kỷ 20 sắp bước
sang thế kỷ 21, là thời đại có nền giáo dục cả, khoa học kỷ
thuật tiên tiến, phương tiện thông tin hiện đại, không thể che
dấu gì dưới ánh sáng của khoa học, do vậy, những sinh hoạt mang
tính mê tín thần quyền trong tôn giáo, ngay cả Phật giáo, không
thể tồn tại hoặc khó có thể phát triển trong xã hội văn minh ấy.
Là những người truyền giáo, nhất là những người con Phật, chúng
ta cần trang bị lời dạy trong sáng, thật tế và khoa học mà đức
Phật đã huấn thị từ ngàn xưa, đồng thời phải có một phương pháp
giáo dục hữu hiệu và thích nghi cho con người ở xã hôi ngày mới.
Đối với vấn đề này người viết nghĩ rằng, muốn thực hiện công tác
đó, việc làm trọng tâm vẫn là công tác giáo dục, tức là thúc đẩy
phong trào nghiên cứu, đào tạo một thế hệ lãnh đạo trẻ, không
những chỉ có đạo hạnh mà còn có kiến thức Phật học uyên thâm để
đáp ứng những nhu cầu của xã hội mới.
-
Thông qua công tác giáo dục và nghiên cứu này, chúng ta mới có
thể gạt bỏ những tỵ hiềm nhỏ nhen, những hiểu biết nông cạn,
đồng thời nó cũng cho chúng ta một cái nhìn toàn diện, không mâu
thuẫn trong Phật pháp, giữa người với con người, giữa cá nhân
với tập thể.
-
Một số người cho rằng, A Tỳ Đạt Ma (Abhidharma) là bộ Luận chỉ
giải thích suông về vũ trụ và nhân sinh, mà không đề cập đến lộ
trình tu chứng. Theo người viết một nhận định như thế là sai
lầm, vì căn cứ "Pháp Uẩn Túc Luận" trong "A Tỳ Đạt Ma Luận", từ
phẩm thứ nhất là "Học Xứ" đến phẩm thứ mười lăm là "Giác Chi"
(1). Toàn bộ 15 phẩm này giới thiệu, giải thích lộ trình tu tập
của A Tỳ Đạt Ma. Đồng thời, nếu cho rằng, Kinh Tạng Pàli hay A
Hàm là hai Tạng kinh được kết tập thành văn sớm nhất trong Phật
giáo, với nội dung trình bày lộ trình tu tập, thì A Tỳ Đạt Ma
chỉ là bộ luận chuyên sớ giải, hệ thống hóa tư tưởng A Hàm, nhất
là hai bộ Tạp và Trung A Hàm. Do vậy, về mặt tu tập, A Tỳ Đạt Ma
thừa kế giải thích tư tưởng A Hàm, cho nên luận này lấy "Tứ Niệm
xứ, Thiền định" làm phương tiện cho hành giả tu tập dễ. Phương
pháp tu tập này được gọi là "Tiệm Ngộ", khác với Đại thừa-Bát
Nhã chủ trương "Đốn Ngộ". Đây chính là điểm dị biệt về phương
pháp tu tập giữa Thượng Tọa Bộ (Theravadha) và Đại Chúng Bộ
(Màhayana).
-
Để lý giải những vấn đề trên, người viết trước tiên làm cuộc so
sánh, đối chiếu giữa thánh điển "A Hàm" và "Pháp Uẩn Túc Luận"
trong A Tỳ Đạt Ma, thứ đến giới thiệu lộ trình tu chứng trong
luận này. Đây là hai điểm chính, người viết sẽ trình bày trong
bài viết này.
-
II. KHÁI LUẬN VỀ MỌI QUAN HỆ GIỮA A HÀM VÀ A TỲ ĐẠT MA
-
1. Kinh A Hàm trong thánh điển Phật giáo
-
Truyền thuyết cho rằng, sau khi Thế Tôn nhập diệt, vào mùa An cư
của năm thứ nhất, tại thành Vương xá (Ràjagrha). Các vị thánh đệ
tử tiến hành kết tập thánh điển lần thứ nhất. Lần kết tập này,
do ngài Đại Ca Diếp (Màhakassapa) chủ tọa, cùng 500 vị Tỳ Kheo
khác tham gia, đại hội đề cử ngài Ưu Ba Ly (Upàli) tụng Luật
tạng, và ngài A Nan (Aụnada) tụng Kinh tạng (2). Quan điểm này,
căn cứ hiện lưu truyền những Kinh Luật của mọi Bộ phái, không
những khác nhau về phương pháp kết cấu mà ngay cả nội dung cũng
có nhiều điểm bất đồng. Điều nan giải ở đây, mọi Bộ phái điều tự
cho rằng, những kinh và luật đang lưu hành của Tông phái mình là
những Kinh Luật được kết tập lần thứ nhất. Thế thì những kinh
luật gì của Bộ phái nào được kết tập lần thứ nhất? Nghiên cứu sự
biên tập thánh điển của Phật giáo nguyên thủy, người viết cho
rằng, đối với những thánh điển được xem là kết tập ở lần thứ
nhất này, cần làm một cuộc khảo sát về mặt lịch sử, từ đó chúng
ta mới có đủ yếu tố đoán định sự hình thành trước hay sau của
thánh điển.
-
Liên quan đến vấn đề này, trong tác phẩm " Nguyên thủy Phật giáo
thánh điển chi tập thành", Hòa thượng Ấn Thuận đã phát biểu như
sau:
-
"Sau khi Đức Phật nhập diệt, mãi cho đến thời gian mà Phật giáo
chưa có sự đối lập giữa các Bộ phái, gọi thời kỳ này là Phật
giáo nguyên thủy. Đối với việc nghiên cứu Phật pháp, "Phật giáo
nguyên thủy" là chủ đề trọng yếu nhất. Thánh điển được kết tập
trong thời kỳ Phật giáo nguyên thủy, đại khái được phân làm hai
bộ phận: 1. Kinh (Tu-đa-la) là 4 bộ A Hàm. 2. Luật (Tỳ nại da) ,
là những bộ phận trọng yếu trong Luật tạng. Những kinh và luật
mà các Bộ phái thừa nhận, là những Kinh Luật được kết tập trong
thời đại Phật giáo nguyên thủy, nó đại biểu cho "Phật giáo
nguyên thủy" (3).
-
Ngoài ra, cũng trong tác phẩm này, Hòa thượng Ấn Thuận còn trích
đoạn những thành quả nghiên cứu của những học giả Âu Mỹ và Nhật
Bản, tuy những học giả này có sự bất đồng về quan điểm và phương
pháp nghiên cứu, nhưng kết luận chung đều cho rằng 4 Bộ A Hàm
(Aụgamma) của Bắc truyền hoặc 5 Bộ Nikàya là những văn hiến kết
tập thành văn sớm nhất trong thánh điển Phật giáo.
-
2. Tư tưởng nguyên lưu của A Tỳ Đạt Ma
-
A Tỳ Đạt Ma (Skt. Abhidharma, Pàli. Abhidhamma), cưu dịch là A
tỳ đàm, hoặc gọi là Tỳ đàm, nghĩa là "đại pháp", "vô tỷ pháp",
"đối pháp" v.v.. Trong sự phát triển của Phật pháp, A Tỳ Đạt Ma
được gọi là Luận Tạng, một trong 3 tạng của Phật Giáo (4). Sở dĩ
được xếp vào Luận Tạng, vì nội dung của A Tỳ Đạt Ma là giải
thích, hệ thống hóa những lời đức Phật dạy được ghi chép trong A
Hàm.
-
Sau khi đức Phật nhập diệt, nhiệm vụ của tăng già, ngoài việc tự
thân tu tập, tìm cầu giải thoát, còn có nhiệm vụ hoằng dương
Phật pháp. Do vậy, sau khi kết tập thánh điển Pàli hoặc Kinh
tạng A Hàm xong, Tăng già tiếp tục công tác chỉnh lý, luận cứu,
hệ thống hóa những lời đức Phật dạy, đây là lý do hình thành A
Tỳ Đạt Ma Luận. Những nhân vật tiến hành công tác lý giải biên
soạn này, gọi là "Luận sư", như ngài Đại Mục Kiền Liên
(Mahàmaudglyàyana), Đại Câu Si La (Mahàkausthila), Đại Ca Chiên
Diên (Mahàkàtyàyana), Phú Lâu Na (Puonamaitra Yanìputra), A Nan
(Àụnanda)... (5).
-
Nội dung A Tỳ Đạt Ma Luận là giải thích những gì mà đức Phật
chứng ngộ được ghi chép trong A hàm, từ sự tự chứng ngộ này, sau
đó Ngài phát nguyện hóa độ chúng sinh. Trong 45 hoặc 49 năm Thế
Tôn thuyết Pháp độ sinh, những gì mà được Ngài tuyên thuyết, về
sau được gọi là nguồn gốc của tất cả Pháp. Điểm chủ yếu trong
lời dạy của Ngài là vấn đề "tu tập" và "giải thoát". Để đạt đến
mục đích này, đầu tiên đức Phật phân tích những vấn đề như: Ngũ
Uẩn, Thập Nhị Xứ, Thập Bát Giới nhằm giới thiệu cho mọi người
hiểu rằng, thật tướng của vũ trụ nhân sinh là khổ, không, vô
thường, và vô ngã. Để thoát ly những thống khổ phiền não này,
bằng con đường tu tập, tức là những phương pháp huấn luyện thân
và tâm như : Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ như ý túc, Ngũ căn,
ngũ lực, Thất giác chi, Bát chánh đạo những giáo lý này được ghi
chép trong "Tạp A Hàm" hay "Tương ưng" là bộ Kinh xuất hiện sớm
nhất trong văn hiến Phật giáo. Tạp A Hàm là những bài Kinh rất
ngắn gọn, dễ ghi nhớ, đầy đủ ý nghĩa, giống như đề cương của một
bài luận văn, nó là những bài kinh ngắn gọn, dễ ghi nhớ, phù hợp
cho thời đại mà đức Phật cũng như những hàng đệ tử của Ngài chưa
dùng chữ viết để lưu truyền, phải dùng đến bộ nhớ con người, do
vậy, chúng ta có thể đoán định Tạp A Hàm hay kinh Tương Ưng là
bộ kinh có khả năng kết tập thứ nhất, tuy rằng kết tập lần thứ
nhất này, chỉ là hình thức tụng đọc chưa biên chép thành văn tư,
nhưng nội dung kiết tập đã được xác định những cương yếu mà Thế
Tôn đã giảng dạy lúc còn tại thế. Những bài kinh mang tính cương
yêu này, tiếng Phạn gọi là Màtrka, Trung Văn dịch là Bổn mẫu. Về
sau, các Luận Sư của A Tỳ Đạt Ma đã vận dụng Tạp A Hàm tiếp tục
biên tập, giải thích và hệ thống hóa thành A Tỳ Đạt Ma
(Abhidharma).
-
Liên quan đến vấn đề này, trong tác phẩm Ấn Độ Phật học tư tưởng
"khái luận", học giả Lữ Trưng người Trung Quốc phát biểu:
-
"Trong Luận Du Già Sư Địa, quyển thứ 14, còn lưu giữ Bổn mẫu
(Màtrka) trong kinh Tạp A Hàm. Chúng ta có thể lấy nó cùng với
Tạp A Hàm Kinh tiến hành biên soạn, đoán định bản Hán dịch "Tạp
A Hàm" tức là "Tương Ưng A Hàm" của căn bản Thuyết nhứt thiết
hữu bộ" (6).
-
Trong lời phát biểu trên, có hai điểm cần chú ý. Thứ nhất là từ
"Bổn mẫu" trong A Hàm Kinh. Từ Bổn mẫu mà Lữ Trưng dùng, được
dịch nghĩa chữ Màtrka (phạn văn), dịch âm là Ma Lặc Ca, Ma Ly
Ca, Mục Đắc Ca v.v? Chữ Bổn mẫu, từ này dịch nghĩa từ Màt, có
nghĩa là Căn bản từ đây mà phát sinh". Căn cứ ngài Ấn Thuận giải
thích, ý nghĩa cổ xưa của từ Màtrka có hai loại: 1. Thuộc về
Luật, như Tỳ Ni Mẫu kinh, Tỳ Ni Tụng trong Thập tụng luật. Những
bộ luật này, trong đó liệt kê một số quy chế của Tăng già mang
tính cương yếu như vấn đề Thọ giới, Tự tứ, Bồ tát, An cư v.v..
2. Thuộc về Pháp (Dharma), xuất phát từ Thuyết Nhất Thiết Hữu
Bộ, trong đó liệt kê cương yếu của Kinh (Sutra), như Tứ niệm xứ,
Tứ chánh cần, Tứ thần túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần,
Bát chánh đạo v.v (7). Thứ hai, Tạp A Hàm là bản Kinh căn bản
của Thuyết Nhứt Thiết Hữu Bộ. Để minh chứng điểm này, người viết
đem hai văn bản "A Tỳ Đạt Ma" và "Tạp A Hàm" so sánh đối chiếu,
phát hiện chúng có nội dung giống nhau. Thông thường phương pháp
luận giải của các luận sư A Tỳ Đạt Ma, đem mỗi một PHẨM trong A
Tỳ Đạt Ma được phân tối thiểu 2 phần trở lên. Phần thứ nhất là
"Khế Kinh" (Sùtra), phần này được Lữ Trưng gọi là "Bổn mẫu"
(Màtrka) tức là trích dẫn một đoạn kinh trong Tạp A Hàm, làm
điểm tựa, đề mục chính cho việc sớ giải. Phần thứ 2 là "Kinh
phân biệt" (Vibhanga) là phần sớ giải, bình luận của các luận
sư, lẽ dĩ nhiên các luận sư căn cứ vào Khế kinh (Sùtra) giải
thích theo kiến giải của từng luận sư. Phần 3 và 4 là những phần
phân biệt của phân biệt, tức là phần tiếp tục giải thích của
phần chú giải chưa được rõ ràng.
-
Để thuận tiện cho việc tra cứu, người viết xin trích dẫn "Phẩm
Niệm Trú" trong "Pháp Uẩn Túc Luận" để người đọc thấy rõ phương
pháp luận giải của Abhidharma, đồng thời, qua đó nó cho chúng ta
thấy rằng, A Tỳ Đạt Ma vốn là một bộ luận chuyên luận giải kinh
Tạp A Hàm.
-
" Một thời, đức Bạt Già Phạm ở thành Thất La Phiệt, rừng Thệ Đa,
vườn ông Cấp cô Độc. Lúc bấy giờ, Thế Tôn dạy các vị Tỳ Kheo
rằng: "Nay ta vì các ông lược nói về pháp tu tập Tứ Niệm Trú,
nghĩa là Tỷ Kheo đối với nội thân cần có chánh cần, chánh tri và
chánh niệm quan sát thân này, nhờ quán như vậy, vị ấy từ bỏ tham
lam và ưu phiền của thế gian. Đối với ngoài thân (thân thể của
người khác), cũng cần có chánh cần, chánh tri, chánh niệm quán
chiếu thân thể của người, nhờ quán như vậy mà vị ấy đoạn trừ
được những than lam và ưu phiền ở đời. Đối với nội thân, ngoài
thân, và nội ngoại thân cũng cần có chánh cần, chánh tri, chánh
niệm quán chiếu nội thân, ngoại thân và nội ngoại thân, nhờ quán
chiến như vậy mà vị ấy trừ được tham lam ưu phiền ở đời. Đối với
Thọ, Tâm, Pháp cũng quán như vậy (Đây là phần Khế Kinh, tức là
đoạn này được trích từ kinh Tạp A Hàm). Đối với quá khứ, vị lai
Tỷ Kheo cũng nên tu tập pháp môn Tứ Niệm Trụ như vậy. Thế nào
gọi là Tỷ Kheo đối với nội thân quan sát một cách chân chánh ?
(từ đoạn này trở về sau được gọi là kinh Phân biệt -Vibhanga)".
-
Đoạn Kinh vừa nêu trên từ "Một thời Thọ, Tâm, Pháp cũng lại như
vậy" là phần Khế kinh (Sùtra) còn từ "Thế nào gọi là Tỷ Kheo đối
với nội thân hết" là phần Kinh phân biệt (Vibhanga), tức là phần
luận giải. Chúng ta có thể đem đoạn Kinh này so sánh với bài
Kinh thứ 6 của phần "Niệm Xứ Tương Ưng" trong Tạp A Hàm Kinh
Luận hội biên (8). (đoạn kinh này sẽ được trích dẫn sau).
-
Qua cuộc so sánh, chúng ta thấy rằng, nội dung của hai đoạn Kinh
văn trên hoàn toàn giống nhau, nhưng có một vài điểm khác biệt
nho nhỏ. Thứ nhất, địa điểm mà đức Phật nói Kinh giữa hai bản
không giống nhau; Thứ hai, "phẩm Niệm Trú" trong A Tỳ Đạt Ma
Pháp Uẩn Túc Luận lại thêm 2 thời "quá khứ" và "vị lai" của pháp
tu tập Tứ Niệm Trú. Từ hai điểm dị biệt này, người viết suy đoán
:Thứ nhất, phải chăng địa điểm mà bộ phái Thuyết Nhứt Thiết Hữu
hoạt động là thành Thất La Phiệt, khác với địa điểm mà đức Phật
nói Kinh Tạp A Hàm là nước Xá Vệ. Điểm thứ hai là hình thành 2
thời "quá khứ" và "vị lai" trong Luận A Tỳ Đạt Ma là để hình
thành, luận chứng cho quan điểm "Tam thế thật hữu, pháp thể hằng
tồn" của các luận sư thuộc bộ phái Thuyết Nhứt Thiết Hữu. Qua
hai đoạn Kinh vừa so sánh được nêu trên, minh chứng Tạp A Hàm là
nguồn gốc, là điểm tựa của Luận A Tỳ Đạt Ma (Abhidharma).
-
Tóm lại, đoạn kinh mà các nhà luận giải của A Tỳ Đạt Ma vận
dụng, đem so sánh đối chiếu với kinh Tạp A Hàm có thể nói nội
dung hoàn toàn giống nhau, chỉ có một vài điểm dị biệt giữa hai
bản Kinh, như đã được nêu trên, Qua đó, minh chứng rằng, quan
điểm của từng bộ phái không đồng nhất, đồng thời có thể là mỗi
Bộ phái hoạt động mỗi khu vực khác nhau, cho nên trong Kinh văn
địa điểm đức Phật nói Kinh không đồng nhất, tuy là nội dung của
bài pháp hoàn toàn giống nhau.
-
Ngoài ra, người viết còn phát hiện nội dung của "Phẩm Đa Giới"
trong Pháp uẩn túc luận rất giống với "Kinh Đa Giới" trong Kinh
Trung A Hàm (9). Sự giống nhau này, phải chăng phẩm "Đa Giới"
trong Pháp Uẩn Túc Luận là luận giải, chú thích Kinh "Đa Giới"
trong Trung A Hàm? Từ sự trùng hơp này, người viết cho rằng,
Kinh Trung A Hàm cũng là một bộ Kinh thuộc Phái Thuyết Nhứt
Thiết Hữu. Đồng thời, chúng ta lấy "Chúng tập Kinh" của Trường A
Hàm đem so với Tập Dị Môn Luận, chúng ta thấy hai bản này có nội
dung không phù hợp, điều đó chứng minh rằng, Kinh Trường A Hàm
không thuộc Bộ phái Thuyết Nhứt Thiết Hữu .
-
III. PHƯƠNG PHÁP TU TẬP TRONG A TỲ ĐẠT MA
-
Trong Kinh Tạng Pàli, Trung Bộ I, Kinh Tất Cả Lậu Hoặc
(Sabbasavasuttam) số 2, đức Phật xác định quan điểm và mục đích
giáo dục của Ngài như sau:
-
" Này các Tỳ Kheo, ta giảng sự diệt tận các lậu hoặc cho người
thấy, người biết, không phải cho người không thấy không biết".
-
Và một bài Kinh khác trong Trung Bộ đức Phật dạy:
-
" Này Xá Lợi Phất (Sariputta), những ai nói chân chính về ta
phải nói như sau: Một vị hữu tình không bị sự chi phối, sinh ra
ở đời, vì hạnh phúc cho số đông, vì sự an lạc cho số đông, vì
lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc
cho chư thiên và loài người."
-
Trong Kinh Tạng Bắc Truyền, Kinh Pháp Hoa cũng xác định mục đích
ra đời của đức Phật : " Khai thị ngộ nhập Phật tri kiến - Nghĩa
là hiển thị chỉ dạy cho chúng sinh thấy và chứng được tri kiến
của Phật."
-
Qua những lời dạy trên, chúng ta thấy rằng, mục đích giáo dục
của Phật giáo là "GIẢI THOÁT", đối tượng mà Phật giáo giáo dục
là "CON NGƯỜI", nếu như rời khỏi đối tượng và mục đích này, thì
dù cho nhân danh là ai đi nữa, những gì được nói ra đó, chắc
chắn không phải giáo dục chân chính của Phật giáo. Nhìn chung,
những hoạt động của Phật giáo hiện nay, thiên về mặt hoạt động
tín ngươong, mang ý nghĩa thần bí, có thể nói nó không còn phù
họp với xã hội ngày nay, nhất là những xã hội phương Tây, những
loại hoạt động này, nó không giải đoạn trừ tận gốc rễ những ưu
phiền và thống khổ của con người, nếu có đi chăng nữa, chỉ là sự
xoa dịu, trấn an nỗi bất an của con người mà thôi, vì theo Phật
giáo quan niệm, nguồn gốc của nỗi khổ đau của con người là "vô
minh", chính do vô minh mà con người không nhìn thấy thật tướng
của các pháp là giả danh không thật có, cho nên con người sanh
lòng khát ái, do có khát ái, nên toàn thể khổ não xuất hiện. Như
vậy, khi nào vô minh còn hiện hữu, thì khi ấy vaan còn thống
khổ. Do đó, những sinh hoạt thuộc loại mê tín, không những không
giúp ích cho con người mà còn đi ngược lại những nguyên tắc cơ
bản giáo dục trong Phật Giáo. Chính vì điểm này, trong lộ trình
tu tập đức Phật khuyên mọi người cần có "chánh kiến " là chi
quan trọng, được xếp hàng đầu trong " Bát chánh đạo". Chánh kiến
là cái thấy đúng, nhờ nó mà con người mới quan sát, lựa chọn
những vấn đề đúng sai, phải quấy thường xảy ra hàng ngày, và
chung quanh chúng ta.
-
Thái độ lựa chọn này, trong Phật giáo gọi là "Trạch pháp" là một
trong 7 Giác chi, nếu như người ta sống mà không có sự hiểu biết
đúng, và thiếu thái độ lựa chọn đúng đắng này, người ấy chắc
chắn và luôn luôn gặp phải những bất hạnh trong cuộc sống. Ví
như, có người mời chúng ta thử vận đỏ đen, hay dùng ma túy.
Trong trường hợp này, nếu chúng ta không có "chánh kiến" là cái
thấy như thật về sự nguy hiểm của việc cờ bạc và hút chích ma
túy, và"Trạch pháp" là thái độ lựa chọn, tránh xa sự nguy hiểm
này, thì chúng ta chắc chắn không tránh khỏi cái khổ của việc cờ
bạc và hút chích. Từ quan điểm này, chúng ta cũng có thể phân
tích giải thích một số vấn đề hoài nghi của một số người cho
rằng, tại sao có một số người làm thiện, tu nhân tích đức mà
người ấy luôn luôn gặp phải những điều bất hạnh? Người viết cho
rằng, luật "nhân quả của Phật giáo rất bình đẳng, không thiên vị
bất cứ ai. Tuy nhiên vấn đề nêu trên, chúng ta không thể đơn
điệu giải thích một cách máy móc, mà cần xem xét hành động ấy có
liên quan đến "trí tuệ" là cái quyết định khổ đau hay hạnh phúc.
Vì theo Phật giáo chủ trương rằng, khi nào con người còn bóng
dáng vô minh, khi ấy con người vẫn còn khổ đau. Do đó, cái
thiện, cái tốt trong Phật giáo, cái đó phải gắng liền với trí
tuệ, nếu tách rời trí tuệ, việc ấy không thể xem là thiện. Như
vậy, theo lập trường Phật giáo, những hành động nào liên hệ với
vô minh thì hành động ấy không thể xem là thiện. Ví như, có một
em bé, xin tiền bố mẹ để mua vũ khí giết người. Trong trường hợp
này, nếu như bố mẹ của em không chịu suy xét, gạn hỏi em xin
tiền để làm gì, vì lòng thương con, bố mẹ của em đã đáp lời yêu
cầu của em. Thử hỏi hành đông này có phù hợp chăng? bố mẹ của em
có nhận được kết quả tốt đẹp nào từ lòng thương ấy không? hay
chỉ mang hậu quả khổ đau? Cũng vậy, trong cuộc sống hằng ngày,
chúng ta có biết bao việc làm cuong tương tợ như thế mà ta cứ
tưởng là thiện, là tốt, nhưng đâu ngờ cái nhân sâu xa bên trong
là bất thiện, không dính dáng gì đến việc tu tập giải thoát mà
chúng ta mong muốn, thế thì làm thế nà chúng ta gặt được quả
lành ? Vì chính lẽ ấy, đạo Phật khuyên chúng ta cần phải có
chánh kiến trong cuộc sống, cần có thái độ lựa chọn giữa thiện
và ác, giữa hạnh phúc và khổ đau, để hướng cuộc sống vương tới
giải thoát. Như vậy, những hành động mà chúng ta cho là thiện là
tốt ấy, lẽ ra phải được hưởng quả lành, thế nhưng kết quả không
như ý muốn, vì những hành động ấy vắng bóng của chánh kiến, hay
nói cách khác là thiếu trí tuệ, cho nên sự lựa chọn rơi vào sai
lầm, dẫn đến kết quả khổ đau.
-
Đứng về phương diện tu tập cũng thế, chánh kiến là cái phân định
giữa chánh pháp và tà pháp, giữa cái ngụy trang và sự chân thật.
Trạch pháp là cái giúp cho hành giả lựa chọn những pháp môn tu
tập, thích hợp hoàn cảnh cho chính họ, đồng thời Pháp môn ấy có
khả năng dẫn đến giải thoát an lạc.
-
Cho đến ngày nay, trong Phật Giáo có nhiều phương pháp tu tập
cho mọi căn cơ và trình độ, nhưng trên cơ bản, Pháp môn cũng lấy
tiến trình GIỚI, ĐỊNH, TUỆ làm cơ bản cho việc tu tập. GIỚI là
những điều kiện cần thiết cho việc tu tập, bao gồm nhưong điều
kiện phát triển tâm linh, bảo vệ sự hòa hợp của Tăng đoàn, bảo
vệ sức khỏe, và môi sinh v.v.. ĐỊNH là những phương pháp giúp
cho tâm của hành giả không còn lăng xăng, tán loạn, làm nền tảng
cho trí tuệ sanh trưởng. TUỆ là sự thấy và biết đúng, như thật,
không phải là sự tưởng tượng của trí óc, tuệ chính là bảo kiếm
chặt đứt vô minh, là chủ nhân tạo ra mọi khổ đau.
-
Liên quan đến lộ trình tu tập này, dưới đây người viết giới
thiệu lộ trình tu chứng trong Abhidharma, để minh chứng
Abhidharma là một bộ luận rất chú trọng phương diện tu tập,
không phải chỉ luận bàn những vấn đề không liên quan đến giải
thoát. Abhidharma không những chỉ giới thiệu lộ trình tu chứng,
mà còn thêm phần chú thích, phân tích của các luận sư
Abhidharma. Do đó, các nhà luận sư của Abhidharma cho rằng,
Abhidharma là Giải thoát tri kiến trong Ngũ Phần Pháp Thân
(10).
-
1. NHẬN THỨC LUẬN
-
Vấn đề tu tập trong Phật giáo không thể tách rời 3 giai đoạn là
Văn, Tư và Tu. Văn là giai đoạn học tập, thâu thập kinh nghiệm;
Tư là đem những gì mà hành giả đã học tập được tiếp tục suy tư
phân định đúng sai. Tu là thực nghiệm những gì mà hành giả đã
học tập được từ Phật pháp, sửa đổi lỗi lầm, tăng trưởng trí tuệ.
Do vậy, ý nghĩa của việc tu tập là học tập Phật Pháp, dùng Phật
Pháp sửa đổi những tập quán xấu xa của mình, để mọi ngày moai
tăng trưởng trí tuệ, nhờ ánh sáng của trí tuệ mà diệt trừ tham,
sân và si. Đó là ý nghĩa chữ tu một cách chân chánh trong Phật
giáo, không phải tu chỉ có cạo tóc, mặc áo cà sa, hoặc chỉ đến
chùa lễ bái, miệng tụng kinh niệm Phật, tay lần chuỗi mà trong
tâm những tập quán xấu xa vẫn còn không sửa đổi.
-
A. Ý nghĩa của việc xuất gia:
-
Trong phẩm "Tịnh Lự" trong "Pháp Uẩn Túc Luận" (11) đề cập đến
bốn hạng người xuất gia như sau:
-
a. Thân xuất gia mà tâm không xuất gia
-
"Có một loại người đối với những dục cảnh, thân người ấy tuy đã
xa lìa những dục cảnh, nhưng tâm vẫn còn đắm trước. Như có người
cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa, chánh tín xuất gia, người ấy tuy
thân tướng là xuất gia, nhưng tâm vị ấy vẫn còn tham luyến nhớ
nghĩ về những dục cảnh mà người ấy đã được cảm thọ trước đây.
Những người này, gọi là thân xuất gia mà tâm chưa xuất gia".
-
Hạng người thứ nhất này, thân thể tuy là hình tướng của người
xuất gia, cạo bỏ râu tóc, mặc áo cà sa, nhưng tâm tánh của người
ấy chưa xuất gia vì tham ái ngũ dục lục, tìm cầu lợi dưỡng. Đứng
trên phương diện tu tập trong Phật giáo, người này không phải là
hạng người chân chánh xuất gia.
-
b. Tâm xuất gia mà thân chưa xuất gia
-
" Có một hạng người, đối các những dục cảnh, tâm tuy đã xa lìa
mà thân vẫn chưa xa lìa. Như có người, tuy có vợ con, ruộng
vườn, nhà cửa, trang sức châu báu, xoa ướp hương thơm, ăn uống
những thứ thượng diệu, có người hầu hạ v.v.. nhưng người ấy đối
với các dục cảnh, tâm không sanh nhiễm trước, tham ái. Người ấy,
thân tuy là tại gia mà tâm đã xuất gia, người này gọi là tâm
xuất gia mà thân chưa xuất gia".
-
Hạng người thứ 2 này, thân thể người ấy khi còn hình tướng là
người tại gia, nhưng tâm đã xuất gia, không còn tham luyến ngũ
dục của thế gian. Đối với hạng người này hình tướng tuy chưa
xuất gia nhưng tâm đã dược an lạc, giải thoát như Ngài Duy Ma
Cật.
-
c. Thân và tâm đều xuất gia
-
"Có hạng người đối với những dục cảnh. Như có người, cạo bỏ râu
tóc, mặc áo cà sa, chánh tín xuất gia. Người ấy đối với những
dục cảnh tâm không tưởng nhớ luyến ái những dục cảnh trước đây
đã thọ dụng, tâm vị ấy thường ăn năn sám hối những lỗi lầm, sống
trong chánh niệm. Người ấy được gọi là thân và tâm điều xuất
gia".
-
d. Thân và tâm không xuất gia
-
"Có một hạng người, đối với các dục cảnh. Như người có vợ con,
ruộng vườn, nhà cửa, châu báu, trang sức vàng ngọc, xoa ướp
hương thơm, ăn uống thượng diệu, có người hầu hạ v.v đối với các
dục cảnh, người ấy sanh tâm tham luyến. Người này được gọi là
thân và tâm không xuất gia".
-
Hạng người thứ 4 này, đức Phật muốn ám chỉ người thế tục, không
hiểu và tu theo Phật Pháp.
-
Theo quan điểm Phật giáo, đức Phật chỉ đề cao khen ngợi hạng
người thứ 3 là "Thân xuất gia và tâm xuất gia" và hạng người thứ
2 là "Tâm xuất gia mà thân chưa xuất gia". Vì hai hạng người
này, tâm của họ đã thật sự xa rời không còn tham ái đối với ngũ
dục lạc, do vì không còn tham luyến đối với ngũ dục, cho nên tất
cả những sầu, bi, khổ, não không còn nữa, tâm vị ấy đã thật sự
giải thoát. Hai hạng người này là đệ tử chân chính của đức Phật,
một đại diện cho người xuất gia và một đại diện cho người tại
gia, là hai hạng người đến với đức Phật với mục đích mong cầu
giải thoát, không phải vì lợi dưỡng hay địa vị. Hai hạng người
còn lại là hạng người thứ nhất và thứ tư bị Phật chê trách, vì
cuộc sống của họ không hướng đến mục đích tối thượng là sự giải
thoát. Hạng người thứ nhất tuy thân đã xuất gia nhưng tâm vẫn
còn tham đắm 5 thứ dục lạc là: 1. tiền tài, 2. sắc đẹp, 3. địa
vị, 4. ăn uống, 5. ngủ nghỉ. Vì theo Phật giáo 5 thứ này là
những thứ làm chướng ngại con đường tiến tu đạo nghiệp, do đó
Phật khuyên mọi người nhất là hạng người xuất gia tránh xa ngũ
dục. Do vậy, đối với nhưong người tuy đã cạo bỏ râu tóc, mặc áo
của người xuất gia, nhưng tâm vẫn chưa rời ngũ dục, người ấy
chắc chắn không gặt hái kết quả tốt nào mà đạo Phật mang đến,
như người vào rừng trầm hương để nhặt trầm hương, nhưng khi
người ấy vào rừng, chỉ mang về một số cỏ gai, chùm gởi mà thôi.
Sự thật, hạng người thứ nhất này, xưa cũng như hiện nay không
phải là không có trong Tăng già. Là người Phật tử chân chính
chúng ta cần có thái độ thận trọng, đến với đạo Phật là đến với
mục đích mong cầu giải thoát, và phục vụ chung, không phục vụ
cho tư lợi, bất cứ cá nhân nào và riêng ai.
-
B. Nguyên tắc thọ dụng phẩm vật cúng dường
-
Căn cứ phẩm "Thánh chủng" trong "Pháp Uẩn Túc Luận" (12) đức
Phật dạy rằng:
-
"Những vị Đa văn Thánh đệ tử của ta, khi thọ nhận y phục, tâm
sanh khởi niềm hoan hỷ trong sự biết đủ, tán thán hạnh biết đủ,
không khởi tâm tham cầu, khiến thế gian chê cười. Tỷ kheo nào
không nhận được sự cúng dường, tâm vị ấy cũng không sanh khởi sự
than van và sầu muộn, không chất chứa sự hoảng hốt mong cầu. Khi
thọ dụng, Tỷ kheo chơn chánh thấy rõ sự nguy hiểm của sự hưởng
thọ vật chất, nhờ vậy tỷ kheo khởi tâm xa lánh. Đối với Tỷ Kheo,
do vì tâm hoan hỷ với sự biết đủ khi thọ dụng y phục, cho nên
không sanh khởi phiền muộn, ngược lại tự sách tấn, an trú trong
chánh niệm. Những vị Tỷ Kheo thọ dụng y phục như thế được gọi là
"Tỷ kheo an trú trong thành chủng". Đối với việc thọ dụng ẩm
thực, ngọa cụ v.v cũng giống như đã tường thuật trên đây".
-
Những nhu cầu vật chất cho vị Tỷ kheo, vào thời đại Phật giáo
nguyên thủy (530-370 TCN) rất đơn giản. Y áo, ẩm thực, dụng cụ
ngủ nghỉ và dược phẩm là những nhu cầu cần thiết cho những Tỳ
kheo, là những người xuất gia sống độc thân, không gia đình,
không tài sản, chỉ mang trong lòng lý tưởng hướng đến giải
thoát, những nhu cầu cần thiết để duy trì mạng sống đều nương
nhờ vào tín. Những người xuất gia sống trong thời đại nầy, đều
lấy việc khất thực làm phương tiện duy trì thân mạng, để tu tập
đạt mục đích tối thượng là giải thoát. Hình thức khất thực này,
hiện lưu hành ở những nước Phật giáo Nam tông như: Thái lan,
Miến điện, Lào.v.v. Tuy là y phục, ẩm thực, dụng cụ, ngủ nghỉ và
dược liệu là những nhu cầu cần thiết cho vị Tỷ kheo, nhưng cũng
không phải vì thế mà thọ dụng bừa bãi thái quá, thọ dụng chúng
không với tâm biết đủ, biết hổ thẹn, đồng thời thấy sự nguy hiểm
của nó khi thọ dụng quá đáng. Mô tả về ý nghĩa này, Kinh Cầu
Pháp trong Trung A Hàm(13), đức Phật khuyên các vị Tỷ kheo
rằng:
-
"Này các Tỷ kheo! Các Tỷ kheo nên thật hành hạnh cầu Pháp, chớ
nên thật hành hạnh mong cầu tài vật".
-
Mục đích của người xuất gia là giải thoát, con đường dẫn đến sự
giải thoát, không thể nào tách rời nguyên tắc cơ bản HỌC và TU.
Cái học như là người đi đường có bản đồ trong tay, việc tu như
người đi đường, nương vào sự chỉ đang trong bản đồ để đi đến mục
đích mà người ấy đã chọn. Cũng vậy, việc tu tập của chúng ta
cũng thế, tu và học như bóng với hình, không thể phân đôi, thiếu
học thì lấy cái gì mà tu, thiếu tu thì học thành vô dụng. Có một
số người quan niệm rằng, tu không liên quan gì đến học, càng học
càng loạn tâm, không có ích gì cho việc tu. Theo người viết, một
quan niệm như thế là sai lầm, vì khái niệm "tu" là sửa đổi , có
nghĩa là đem những tập quán không tốt đẹp, sửa thành tốt đẹp.
Thử hỏi người sửa đổi này, lấy gì để phân biệt cái này là không
tốt, cái kia là tốt, cái này là thiện cái kia là bất thiện, việc
này dẫn đến hạnh phúc, việc kia dẫn đến khổ đau? nếu như người
ấy không từ sự học tập thu thập kinh nghiệm qua lời dạy đức
Phật, chư Tổ, những bậc thiện tri thức, và qua những kinh nghiệm
hằng ngày của chúng ta, thì người ấy không có cơ sở để phân biệt
sự đúng sai này. Do vậy, người viết cho rằng, nhiệm vụ chính của
người xuất gia là "Thượng cầu Phật đạo, hạ hóa quần sanh". Muốn
hoàn thiện nhiệm vụ này, việc làm trước tiên vẫn là học tập Phật
pháp, sau đó mới đủ khả năng hóa độ chúng sanh. Chính vì ý nghĩa
này mà đức Phật khuyên những vị Tỷ kheo lấy Tam Vô Lậu học làm
vũ khí để chặt đứt vô minh phiền não, lấy từ bi và trí tuệ này
làm phương tiện độ sanh. Không thể nói lái xe mà chỉ có người
lái mà không có xe, không thể nói ăn cơm mà chỉ có người ăn mà
không có cơm, cũng vậy không thể nói độ sinh mà không có lòng từ
bi và sự hiểu biết. Thiếu hai yếu tố này như người lái xe mà
không bằng lái, sự nguy hiểm của nó ắt hẳn không lường. Do vậy,
đức Phật khuyên chúng ta "hãy là những người thừa tự pháp, chớ
nên là người thừa tự tài vật".
-
2. TU TẬP
-
A. Tứ Niệm Trụ (Satipatthanasutta)
-
Theo HT. Ấn Thuận, bản kinh "Tứ niệm trụ được xuất hiện sớm nhất
ở "Tạp A Hàm"(14). Sau đó các luận sư của A Tỳ Đạt Ma lấy đó làm
điểm căn cứ để giải thích thành ra phẩm "Niệm trú trong Pháp Uẩn
Túc Luận" (15). Vì để thuận tiện cho đọc giả tham khảo, người
viết trích dẫn như dưới đây:
-
Niệm trú phẩm trong Pháp Uẩn Túc Luận ghi:
-
"Một thời, đức Bạt Già Phạm trú tại thành Thất La Phiệt, rừng
Thệ Đa, vườn ông Cấp Cô Độc. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các Tỷ kheo
rằng. Nay ta vì chư Tỷ kheo, lược nói Pháp môn tu tập Tứ niệm
trú. Nghĩa là Tỷ kheo, đối với nội thân, an trú nơi thân và quan
sát một cách cần mẫn với chánh tri và chánh niệm. Nhờ quán sát
như vậy, Tỷ kheo đoạn trừ được những tham ưu ở thế gian. Đối với
ngoài thân, an trú nơi thân và quan sát một cách cần mẫn với
chánh trí và chánh niệm, nhờ quán sát như vậy, Tỷ kheo đoạn trừ
những tham ưu ở đời. Đối với nội thân, ngoài thân , nội ngoại
thân, vị ấy an trú và quán sát một cách cần mẫn, với chánh trí
và chánh niệm, nhờ quán sát như vậy, Tỷ kheo đoạn trừ được những
tham ưu ở đời. Đối với Thọ, Tâm và Pháp cũng được quan sát như
vậy" (16).
-
Nội dung kinh Tứ Niệm Xứ trong kinh Tạp A Hàm như sau:
-
"Như vậy tôi nghe: một thời, đức Phật ở tại nước Xá Vệ, vườn ông
Cấp Cô Độc. Bấy giờ, Thế Tôn bảo các vị Tỷ Kheo rằng: Ta nay vì
các ông, nói pháp môn Tứ Niệm Xứ, hãy lắng nghe và suy nghĩ kỹ.
Cái gì gọi là Tứ Niệm Xứ? Nghĩa là đối với nội thân an trú trong
chánh niệm và quán sát một cách cần mẫn với chánh tri và chánh
niệm, nhờ quán như vậy, Tỷ kheo đoạn trừ những tham ưu ở đời;
Đối với ngoài thân, trong và ngoài thân quan sát một cách cần
mẫn với chánh tri và chánh niệm, nhờ quán sát như vậy, Tỷ kheo
đoạn trừ được những tham ưu ở đời. Đối với Thọ, Tâm và Pháp cũng
quán sát như vậy. Đây gọi là Tỷ kheo tu tập Tứ Niệm Xứ. Sau khi
nghe Thế Tôn thuyết giảng xong, các vị Tỷ Kheo hoan hỷ phụng
hành" (17).
-
Hai đoạn Kinh văn vừa nêu trên, có xuất xứ khác nhau là từ A Hàm
và A Tỳ Đạt Ma, thế nhưng, chúng ta đem nội dung của hai đoạn
Kinh này so sánh, có kết quả là nội dung của hai kinh giống
nhau, chỉ có địa điểm mà đức Phật nói Kinh là khác. Sự khác biệt
này như người viết đã trình bày ở trên.
-
Dưới đây, người viết căn cứ Phẩm Niệm Trú trong Pháp Uẩn Túc
Luận (18), để chứng minh và giới thiệu Abhidharma rất chú trọng
phương diện tu tập, luận này lấy pháp môn Tứ niệm xứ và Tứ thiền
làm lộ trình tu chứng theo quan điểm của A Tỳ Đạt Ma.
-
Tứ niệm trú được phân thành 4 đề tài là: Quán thân, Quán các cảm
thọ, Quán tâm và Quán Pháp.
-
B. Quán Thân
-
Quán thân bất tịnh:
-
"Tỷ Kheo đối với nội thân quan sát tư duy từ đầu đến chân, tất
cả đều là bất tịnh, ô uế. Nghĩa là tự thân và tha thân chỉ là
những loại tóc, lông, móng, răng, da, thịt, xương, cốt đại tiện,
tiểu tiện. Tỷ kheo, khi quán sát thân là bất tịnh như vậy, tâm
vị ấy khởi lên những suy nghĩ gì về thân, vị ấy phân tích chi
ly, thấy biết rõ ràng. Tỷ kheo nhờ tu tập pháp môn này mà đoạn
trừ 2 Pháp tham lam và ưu phiền. Đối với ngoài thân, trong và
ngoài thân cũng được quán chiếu như vừa tường thuật ở trên.
-
Quán thân do sáu đại hợp thành:
-
"Có những Tỷ Kheo đối với nội thân (tự thân) quán chiếu tư duy
phân biệt các giới. Đối với nội thân, ngoại thân, nội ngoại thân
đều do các loại đất, nước, gió, lửa, không và thức tập hợp tạo
thành. Tỷ Kheo khi tư duy như vậy, tâm vị ấy khởi lên tâm niệm
gì đối với các giới này đều thấy biết một cách rõ ràng. Tỷ kheo
khi tu tập pháp quán này, trừ diệt được hai pháp tham lam và ưu
phiền ở đời. Đối với ngoại thân, nội ngoại thân cuong được quán
chiếu như trên".
-
"Quán thân" vừa được giới thiệu trên được căn cứ từ phẩm Niệm
Trú Phẩm trong A Tỳ Đạt Ma, chúng ta đem so sánh với kinh Niệm
Xứ trong Trung Bộ Kinh (Majihima Nikàya) thì có sự sai khác về
nội dung. "Quán thân" trong phẩm Niệm Trú, không có "Quán tứ oai
nghi" và "Quán hơi thở, nhưng trong "Quán thân" trong Trung Bộ
Kinh lại thêm hai phần này. Ngoài ra, điểm khác biệt đáng được
chú ý, Kinh Niệm Xứ của Trung Bộ chỉ có quán 4 đại là đất, nước,
gió và lửa, nhưng Niệm Trú Phẩm trong Abhidharma lại thêm 2 đại
là "Không" và "Thức" thành 6 đại. Phải chăng đây là điểm dị biệt
tư tưởng của các Bộ phái.
-
Quán thọ:
-
"Tỷ Kheo đối với những cảm thọ của tự thân, khi cảm thọ những
lạc thọ, vị ấy như thật tuệ tri: tôi đang cảm thọ những lạc thọ
ấy; khi cảm thọ những khổ thọ nào, vị ấy cũng như thật tuệ tri:
tôi đang cảm thọ những khổ thọ ấy; khi cảm thọ những cảm thọ
không khổ không vui, vị ấy cũng như thật tuệ tri: tôi đang cảm
thọ những cảm thọ không khổ không vui ấy. Khi các cảm thọ được
quán sát tư duy như vậy, khi tâm khởi lên những suy tư gì về
những cảm thọ này, vị ấy tuệ tri một cách rất rõ ràng và có chọn
lựa. Khi Tỷ Kheo tu tập pháp quán thọ này, đoạn trừ được hai
pháp tham lam và ưu phiền. Đối với ngoại thọ, nội ngoại thọ cũng
được quan sát như trên."
-
Quán tâm:
-
"Tỷ Kheo đối với nội tâm quan sát tư duy các tướng trạng của nội
tâm. Khi tâm có tham, vị ấy như thật tuệ tri: nội tâm có tham,
tâm xa lìa tham lam, cũng như thật tuệ tri: nội tâm xa lìa tham
lam. Nội tâm có sân hận, vị ấy như thật tuệ tri: nội tâm có sân
hận. Nội tâm không sân hận, cũng như thật tuệ tri: nội tâm không
có sân hận. Nội tâm có ngu si, như thật tuệ tri: nội tâm có ngu
si, nội tâm không có ngu si, cũng như thật tuệ tri: nội tâm
không có ngu si Tâm của Tỷ kheo được tư duy quan sát như vậy,
khi khởi lên những gì đối với tâm này. Vị ấy quan sát một cách
rõ ràng và có chọn lựa. Khi Tỷ kheo tu tập pháp quán tâm này,
đoạn trừ được 2 pháp tham lam và ưu phiền. Đối với ngoại tâm,
nội ngoại tâm cũng được quán sát như trên".
-
C. QUÁN PHÁP
-
Quán năm triền cái:
-
"Tỷ kheo đối với Năm triền cái quan sát tư duy các tướng trạng
của nó. Nếu như nội tâm có tham dục triều cái, vị ấy như thật
tuệ tri: trong tôi có tham dục triền cái, trong tôi không có
tham dục triều cái, vị ấy cũng như thật tuệ tri: trong tôi không
có tham dục triền cái. Đồng thời, vị ấy cũng như thật tuệ tri
những tham dục triền cái chưa sanh khiến nó sanh (?), đã sanh
khiến nó được đoạn trừ, đã đoạn khiến cho nó không tái sinh. Tỷ
Kheo tư duy quán sát như vậy, những gì khởi lên đối với tham dục
cái này, tâm vị ấy biết rất roo ràng. Tỷ kheo tu tập pháp quán
này, đoạn trừ 2 pháp tham lam và ưu phiền. Đối với sân hận, hôn
trầm thụy miên, trạo cử và nghi ngờ, Tỷ kheo cũng được quán sát
như vậy".
-
Quán Bảy giác chi:
-
"Tỷ Kheo đối với nội thân có Niệm giác chi, vị ấy như thật tuệ
tri: nội thân có niệm giác chi, nội thân không có niệm giác chi,
Tỷ kheo cũng như thật tuệ tri: nội thân không có niệm giác chi,
đồng thời, Tỷ kheo cũng như thật tuệ tri những niệm giác chi nào
chưa sanh khiến cho nó sanh, đã sanh thì an trú vướng chắc,
không xao lãng, khiến cho nó mọi ngày một kiên cố tăng tiến. Tỷ
kheo tư duy như vậy, nhưong gì khởi lên đối với niệm giác chi
này, đều được vị ấy hiểu biết rõ ràng. Tỷ kheo tu tập pháp quán
này, vị ấy đoạn trừ được 2 pháp tham dục và ưu phiền. Đối với 6
giác chi còn lại cũng được quan sát như vậy".
-
Tóm lại, nội dung tu tập Tứ Niệm Trú được phân làm 4 loại: 1.
Quán thân, 2. Quán thọ, 3. Quán tâm, 4. Quán pháp. Trong pháp
"Quán thân" lại chia hai đề mục nhỏ, "Quán thân bất tịnh" và
"Quán thân do 6 đại hòa hợp tạo thành"; Quán thọ tức là quán sát
những cảm thọ của chúng ta, hoặc khổ hoặc vui hoặc không khổ
không vui; Quán tâm là quán sát về những trạng thái diễn biến
của tâm; Quán Pháp bao gồm quán Năm triền cái, Sáu căn, Bảy giác
chi v.v? Nói cách khác, quán Tứ niệm trụ là quán Ngũ Uẩn, quán
"Thân" tức là quán sắc uẩn, quán "Thọ, Tâm, Pháp" là quán thọ
tưởng, hành và thức. Thực hành phương pháp Tứ niệm trú này, có
những kết quả như sau: Thứ nhất, thấy được thực tướng của con
người vốn là sự giả tạo, không thật có, nhờ sự thấy biết như
thật này mà hành giả mới có thể thoát ly những điên đảo mộng
tưởng, là những nguyên nhân gây khổ đau. Thứ hai, huấn luyện
thân và tâm an trú trong chánh niệm, Kinh A Di Đà gọi là "nhứt
tâm bất loạn", chánh niệm này là cái bệ phóng cho trí tuệ phát
sanh. Khi tuệ đã thắp sáng thì hành giả đối mặt với cuộc đời
không có sợ hại, vì mọi sự mọi vật đều được chánh niệm và trí
tuệ giúp cho hành giả thấy biết rõ ràng, không có nhầm lẫn,
chính cái thấy như thật này, hành giả mới đủ khả năng chặt đứt
tất cả vô minh phiền não. Do vậy, trong Kinh Bát Nhã nói rằng: "
Bồ Tát Quán Tự Tại dùng trí tuệ quán chiếu, thấy thân ngũ uẩn
này là không thật tướng, do vậy Bồ Tát chặt đứt tất cả các khổ
não".
-
IV. KẾT LUẬN:
-
Nguồn gốc giáo lý Phật giáo là những gì được đức Phật chứng ngộ,
từ nơi chứng ngộ mà Ngài phát nguyện hóa độ chúng sinh. Khi đức
Phật còn tại thế, 45 năm giáo hóa độ sinh là nguồn gốc của Phật
pháp. Nhưng có một điều đáng lưu ý là, đương thời đức Phật và
những đệ tử của Ngài không có ghi chép bằng văn tự mà chỉ dùng
hình thức truyền khẩu. Mãi cho đến thời đại vua A Dục, Phật pháp
mới được ghi chép bằng văn tự. Đại đa số người ta cho rằng, A
Hàm Kinh (Aụganima) và kinh tạng Pàli là hai loại văn hiếm có
sớm nhất trong thánh điển Phật giáo. Từ 2 loại văn hiếm cơ bản
này mà các vị Thánh đệ phát huy thành những tư tưởng khác nhau
của từng Bộ phái. Trong đó sự hình thành Abhidharma thuộc Bộ
phái Thuyết Nhứt Thiết Hữu cũng không ngoài ý nghĩa này.
-
Qua những văn bản, vừa giới thiệu trên, chứng minh rằng, nội
dung A Tỳ Đạt Ma là giải thích hệ thống hóa tư tưởng của Tạp A
Hàm và Trung A Hàm.
-
Đồng thời, xuyên qua "Niệm Trú Phẩm, Tịnh Lự Phẩm v.v..". Trong
Pháp Uẩn Túc Luận chứng minh quan điểm của A Tỳ Đạt Ma rất chú
trọng đến việc tu tập. Chẳng qua, phương pháp tu tập trong A Tỳ
Đạt Ma lấy "Tứ Niệm Xứ, Tứ thiền" làm phương tiện để đưa chúng
sanh từ phàm phu đến giải thoát, bằng phương pháp quan sát thật
tướng của thân này là giả tạo, không thật có. Nhờ quán sát trong
chánh niệm như vậy mà hành giả thấy được thật tướng của thân ngũ
uẩn vốn là: Thân là bất tịnh, các cảm thọ là khổ, tâm là vô
thường, các Pháp là vô ngã, cũng như tất cả những vật chất. Do
vậy, hành giả không luyến ái tự thân, thân người và vật chất, do
không có tham ái, cho nên không có ý niệm chiếm đoạn (thủ), do
không có chiếm đoạt, cho nên không có sầu, bi, khổ, ưu não.
-
-
GHI CHÚ:
-
1. Đại tạng 26, A Tỳ Đạt Ma Pháp Uẩn Túc Luận, trang 453-491.
-
2. Tham khảo, Thăng Gia Khẩu Thaiv.v.. biên soạn. Dương hội văn
dịch, Ấn Độ Phật giáo Sử Khái Luận, NXB Hạ Đán đại học, 1993,
trang 25.
-
3. HT.Ấn Thuận, "Nguyên thủy Phật giáo thánh Điển chi tập thành"
NXB chánh, Trung Hoa dân quốc năm 83, trang 1-2.
-
4. HT.Ấn Thuận, Thuyết nhứt thiết hưou bộ vi chủ luận thư dưo
luận sư chi nghiên cứu, NXB Chánh văn, dân quốc năm 81, trang
33.
-
5. Như trên, trang 56.
-
6. Lữ Trưng, Ấn Độ Phật Học Tư Tưởng Khái Luận, NXB Thiên Hoa,
tr 57.
-
7. HT.Ấn Thuận, thuyết nhất thiết hưou bộ vi chủ đích luận thư
dưo kỳ luận sư chi nghiên cứu, NXB chánh văn, trang 25.
-
8. HT. Ấn Thuận biên soạn, Tạp A Hàm Kinh Luận hội biên, NXB
Chánh văn trang 239.
-
9. Đại Tạng 1, Trung A Hàm, trang 723-724.
-
10. Giới, Định, Tuệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến.
-
11. Đại Tạng 26, phẩm Tịnh Lự, trang 482.
-
12. Đại Tạng 26, phẩm Thánh Chủng, trang 466b.
-
13. Đại Tạng 1, Cầu Pháp Kinh, trang 570a
-
|
|