|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Ý
NGHĨA
- CHỮ
KHÔNG TRONG TRUNG QUÁN
-
Pháp sư Ấn Thuận
- Thích
Hạnh Bình (dịch)
-
--o0o--
-
1.
KHÔNG
-
Không là điểm cộng
thông giữa các bộ phái, nhưng quan niệm của các nhà Trung quán
không giống với các học phái khác. Như ?Đại Trí Độ Luận? quyển
thứ 12 giải thích chữ không có 3 ý nghĩa:
-
1.
Phân phá không 2. Quán không 3. Thập bát không
-
PHÂN PHÁ KHÔNG: Thiên
Thai tông gọi là Chiết pháp không. Ví dụ như chúng ta lấy sợi
lông chia chẻ thành cực vi, rồi tiếp tục chia chẻ, cho đến khi
nào không còn hình thể tướng trạng, biểu hiện không tướng, cái
cực vi nầy được gọi là ?lâng hư?. Đây là đứng trên phương diện
vật chất trong không gian mà nói, còn về mặt thời gian, đem thời
gian phân chiết thành từng sát na, là thời gian ngắn nhất, phân
chia cho đến khi nào không còn tướng trước sau, không còn thời
gian tính, liền xuất hiện không tướng. Do vậy phương pháp phân
phá, là phân chiết sự tồn tại của thời gian và không gian trở
thành không. Quán không là từ tác dụng của quán tâm. Như quán
sợi lông là màu xanh liền thành lông xanh, quán lông là màu
vàng, thành lông vàng v.v... Trong Thập biến xứ quán, ở đây chỉ
thuyết minh cụ thể phương pháp Quán không. Vì dùng phương pháp
quán không mà biết được ngoại cảnh là cái sở quán là không, ở
đây mượn nguời nữ làm ví dụ, để hình dung cụ thể về cảnh tướng
không này: nếu là kẻ thù khi nhìn thấy cô ta thì sanh lòng oán
hận, là người yêu thì sanh lòng luyến ái, là con cháu thì sanh
lòng cung kính, là chim thú thì hoảng sợ xa bay. Do đó sự oán
thù thân yêu, tốt xấu, thô tế đều do tâm năng quán không giống
nhau mà biểu hiện, cảnh vốn không có thật thể cho nên gọi là
quán không. Thập bát không, kinh Bát Nhã chú trọng ở tự tánh
không. Tự tánh không là bản thể của tất cả pháp, đều là cái bất
khả đắc, đương thể là không. Đại Trí Độ luận tuy đề cập 3 loại
không quán, nhưng chưa phân biệt cái triệt để và cái không triệt
để của nó. Dựa vào sự giải thích của Ngài Long Thọ, 3 loại không
quán này, đều có thể khiến người khác hiểu được ý nghĩa của chữ
không, tuy chỗ hiểu cạn sâu của mọi người không giống nhau,
nhưng nó không làm mất đi tính chất phương tiện, làm rõ nghĩa
chữ không, do đó Luận Trí Độ đề cập đến tam không. Nếu nghiên
cứu một cách nghiêm túc về quan điểm Đại Tiểu thừa các bộ phái,
Phân phá không là phương pháp thường được các nhà luận sư A Tỳ
Đạt Ma sử dụng. Như Hữu bộ dùng quán tuệ, phân tích các sắc
thành lâng hư, vượt qua cái lâng hư này là không. Nhưng Hữu Bộ
không thừa nhận tất cả pháp là không, ngược lại cho các pháp có
tự tánh. Bởi vì, căn cứ trên sự phân tích mà biết được các pháp,
do giả hợp mà có, những cái giả có này, lấy nguyên tố làm chỗ sở
y, cực vi là đơn vị nhỏ nhất. Đối với tâm pháp cũng dùng phương
pháp này, phân tích cho đến trong một niệm sát na là thời gian
ngắn nhất. Phương pháp phân tích này, không thể dẫn đến kết
luận, tất cả pháp là không, ngược lại dẫn đến kết luận tất cả
pháp là thật có tự tánh. Như đem cực vi phân chiết cho đến tận
cùng, có thuyết cho rằng có hình tướng là có thể phân chiết, có
thuyết cho rằng, có hình tướng nhưng không thể phân chiết, nhưng
bất luận như thế nào, các thuyết đều chứa nhận các pháp thật có
tự tánh là cực vi. Như cổ nhân nói rằng, nhứt xích chi mộc, nhựt
thủ kỳ bán, chung cổ bất tận. Loại phân tích pháp không này vốn
được Kinh A Hàm đề cập ?Tán không?; tuy ý nghĩa không triệt để,
nhưng có thể lấy đó làm điểm căn cứ, do đó Ngài Long Thọ đã vận
dụng nó. Không quán, là Duy Thức tông v.v...sử dụng. Phương pháp
này càng được các nhà Kinh Bộ sử dụng một cách triệt để. Các nhà
Kinh Bộ cho rằng, 12 xứ là căn và cảnh chẳng thật có, do đó
thành lập cảnh sở quán không thật có. Về sau các nhà Đại Thừa
Duy Thức Học sử dụng phương pháp quán không này một cách cực
đoan, như cho rằng: ?Quỷ, bàng sanh, nhơn, thiên, mỗi loại tùy
theo nghiệp duyên của mỗi loài mà ứng hiện có sai khác, những
sai khác này do sự dị biệt của tâm, nhưng khong có nghĩa chân
thật?. Như cá cho nước là nhà, Trời cho là lưu ly, quỷ cho là
máu huyết, người cho là nước, từ ví dụ này cho ta thấy rằng nhà,
thủy tinh lưu ly v.v... đều không thật có, tất cả đều do nghiệp
báo khong đồng của mỗi người mà hiện thành. A Tỳ Đạt Ma Đại Thừ
a Kinh, các nhà Du già đều y nơi pháp này mà minh chứng ngoại
cảnh là không thật có, thành lập trí vô phân biệt, ly ngôn thể
chứng tự tánh. Để rõ ràng hơn về phương pháp này xin tham khảo
Nhiếp Đại Thừa Luận v.v... Sự không giống nhau phương pháp Không
quán và Phân phá không là: Phân phá không, nhơn phân chiết sự
giả thật mà thành lập cái giả danh là không; Quán không, là đứng
trên quan điểm nhận thức luận, để thấy rõ cảnh sở quán là không
thật có. Cũng giống như thế, quán không không thể đạt đến tất cả
pháp rốt ráo là không, bởi vì, quán không hạn chế ở chỗ là dùng
tâm năng quán, để quán sát ngoại cảnh là bất khả đắc, bản thân
của tâm năng quán, không thể dùng phương pháp quán không này, để
quán sát tâm năng quán cũng là không, do đó sử dụng kết qủa của
quán không một cách tất nhiên, muốn đạt đến tư tưởng ?Hữu tâm vô
tướng?. Cảnh không tâm có, cô nhiên cũng có thể cho là vì muốn
thấu rõ Không nghĩa. Như trên đã tường thuật, mỗi loại ý nghĩa
của chữ không, không những cái gọi là Không không triệt để, mà
còn đem khái niệm Không biến thành rỗng không. Như các học giả
Phân phá không thừa nhận cực vi, tâm và tâm sở thật có tự tánh,
là những hiện tượng do cực vi hình thành, hay là do năm uẩn tạo
thành cái gọi là Ngã, do vậy, cho là tất cả đều là pháp không
thật có. Các học giả này không chú ý tính duyên khởi của các
pháp là giả có, ý cho rằng họ không thừa nhận các pháp là duyên
khởi. Do vậy, một mặt họ không thể thấu triệt chữ không, càng
thêm chấp trước; mặt khác, pháp duyên khởi mà không nên phá hoại
cũng là không, thành ra chấp tổn giảm. Các nhà Duy thức học, đem
pháp duyên khởi đặt vào tâm và tâm sở pháp - là y tha khởi tánh,
không thể thấu rõ tâm vô tự tánh; đối với sáu trần - tánh duyên
khởi của cảnh không có chú ý của tâm, do vậy không thể phù hợp
với nghĩa trung đạo. Nghĩa của chữ không mà Bồ Tát Long Thọ phát
huy là tự tánh không, không phải chỉ mỗi một bộ phận nào đó là
không, cũng không phải là bất không, lại càng không thể cảnh
không mà tâm có.
-
Trí Độ Luận (quyển
74) đề cập đến 3 loại không:
-
1.
Tam muội (tâm) không, 2. Sở duyên (cảnh) không, 3. Tự
tánh không.
-
Tam muội không cùng
với Quán không trong tam không vừa trình bày ở trên không giống
nhau. Đây là quán không lúc tu tam muội, tâm năng quán hiện ra
không tướng. Như Thập biến xứ quán, lúc quán màu xanh tất cả
pháp đều xanh, quán màu vàng thì tất cả pháp đều biến thành màu
vàng, xanh và vàng là cảnh quán của tâm quán. Thế thì, không là
vì quán tưởng không quán mà thành không. Trong kinh nói, tất cả
pháp là không, nhưng dựa vào quán tuệ của tâm năng quán mà quán
là không, đối với ngoại cảnh không khởi chấp trước, lìa hý luận,
do đó gọi là không, nhưng thật ra những pháp nầy không phải là
không. Điều này giống như nói: Không là do tâm tưởng tượng mà
thành, không phải thật tướng của các pháp là không. Thế thì rơi
vào chấp ?bất không?, cũng không thừa nhận học thuyết các pháp
là không. ?Sở duyên không? là tương phản với học thuyết vừa nêu
trên, cảnh giới sở duyên vốn là không, tâm năng quán y cứ cảnh
sở duyên này mà quán là không. Cái sở duyên là không, thì tất
nhiên tâm năng quán là bất không, quan điểm này giống với quán
không trong tam không vừa nêu. Chẳng qua, quán không là cảnh tùy
theo tâm quán mà dời đổi, còn sở duyên không là cảnh sở duyên
vốn không thật. Ngài Long Thọ bình luận: ?có người nói, Tam tam
muội vô tướng vô tác tâm số pháp gọi là không, không cho nên có
thể quán các pháp là không. Có ngươi nói rằng: Cảnh sở duyên bên
ngoài là sắc ... tất cả các pháp này là không, do ngoại cảnh là
không, cho nên gọi là không tam muội. Phật nói: không lấy cái
không tam muội cho là không , cũng không lấy cảnh sở duyên cho
là không. Rời xa hai kiến chấp này gọi là Trung đạo, do đó gọi
các pháp do nhân duyên hòa hợp mà sanh. là pháp hòa hợp, không
có pháp nhất định, cho nên gọi là không?.
-
Long Thọ Minh chứng
điểm này, là căn cứ kinh Bát Nhã nói: không có pháp nhất định
cho nên gọi là không, có nghĩa là tất cả pháp do duyên hòa hợp
mà thành, do duyên hòa hợp, tức là không có tánh nhất định,
không có tánh nhất định đồng nghĩa không, chữ không này, chỉ cho
không có tự tánh, tức không thuyết. Do đó rõ biết, chữ không của
Trung quán là thuyết nhân qủa của pháp duyên khởi, từ duyên khởi
mà biết được các pháp không có tự tán, do không có tự tánh mà
biết được các pháp vốn không. Nếu thiên về Tam muội không hoặc
sở duyên không, là pháp chuyên y vào nhận thức luận, không thể
rời duyên khởi mà biết không, cũng không thể đạt đến kết luận
tất cả pháp là không.
-
Tự không và tha
không, là hai loại không quán không giống nhau. Thí như quán đóa
hoa là không, đối với tự không mà nói, đương thể của hoa là
không. Đối tha không, trong hoa không có những yếu tố này, do đó
nói là không, nhưng không có nghĩa là bản thân của hoa là không.
Như trong Luận Du Già phẩm chơn thật nghĩa nói rằng: ?Do bỉ cố
không, bỉ thật thị vô; ư thử nhi không, thỉ thật thị hữu, do thử
đạo lý, khả thuyết vi không?. Có nghĩa là, pháp này do vì hủy
diệt pháp kia, vì không có pháp kia, cho nên gọi là không, nhưng
đôi pháp này là có. Các nhà học giả Duy thức cho là không, cho
dù sự lý giải xảo diệu như thế nào cũng không tránh khỏi phạm vi
tha không. Tha không luận này, cũng không phải là cái độc đặc
sáng tạo của các nhà Duy thức, nguồn gốc sáng tạo của nó là phát
xuất từ bộ phái Tát Bà Đa. Vị luận sư nổi tiếng Thế Hữu cho
rằng: Không và vô ngã không giống nhau, vô ngã là cứu cánh liễu
nghĩa, không, không phải là cứu cánh liễu nghĩa. Như nói ngũ uẩn
là vô ngã, là triệt để, chính là vô ngã; nếu nói ngũ uẩn là
không, thì không triệt để. Do vì ngũ uẩn là vô ngã, cho nên Phật
nói không nhưng đố với sắc, thọv.v...không phải là không. Như
giải kinh nói: Chư hành không, cũng nói trong các hành không có
ngã và ngã sở, do đó gọi là không, không phải là không hành của
các hành. Các nhà học giả Duy thức kế thừa tư tưởng này, do đó
cho rằng: Do y tha khởi mà xa lìa tướng biến kế sở chấp, cho nên
gọi là không; nhưng tự tướng của y tha khởi là có, không thể nói
là không. Nói xa một tí, tư tưởng tha không sớm đã xuất hiện
trong Trung A Hàm kinh, như Kinh Tiểu Không trong Trung A Hàm,
chuyên thảo luân về tha không. Tư tưởng này cùng với Phật Giáo
tây Bắc Ấn Độ có sự quan hệ mật thiết. Tha không trong Tiểu
Không Kinh tức là bỏ những pháp nào, bảo tồn những pháp nào, vốn
là pháp thứ đệ của thiền định, gọi cái này là không nhưng không
thể gọi tất cả pháp không. Bài kinh này lấy Lộc tử mẫu giảng
đường làm ví dụ, như nói Lộc tử mẫu giảng đường là không, ý nói
trong giảng đường này không có trâu, dêv.v...cho nên nói là
không, chẳng phải giảng đường là không, cũng chẳng phải trong
giảng đường không có các vị Tỳ kheo, lại không phải là nơi khác
không có trâu dê, cho nên gọi là không. Đây là không quán còn
nông cạn, kinh Lăng Già gọi đó là bỉ bỉ không. Loại khong quán
này (Do bỉ cố không, bỉ thật thị vô; ư thử nhi không, thử thật
thị hữu), có rất nhiều loại, nhưng puhơng pháp cơ bản vẫn không
thay đổi. Do đó, nghĩa của chữ không theo các nhà Duy thức học,
lấy tha không luận của vùng Tây Bắc Ấn làm căn bản, tuy có ảnh
hưởng thuyết, nhứt thiết pháp giai không của đại thừa, nhưng vẫn
không đồng nhất. Tư tưởng Tự không, nguồn gốc của tư tưởng này
cũng phát xuất từ A Hàm. Như Tạp A Hàm Kinh nói: thường không
.... ngã ngã sở không, tánh tự nhĩ cố. Đây có nghĩa là: Đương
thể của thường, ngã, ngã sở là không; không phải là ngoài không
riêng có cái gọi là thường, ngã, ngã sở là bất không. Thường,
ngã, ngã sở v.v...là không, bởi vì thường, ngã, ngã sở là như
vậy. Lại như Thắng Nghĩa Kinh trong Tạp A Hàm nói rằng: không có
ngã và ngã sở chỉ có sự lưu chuyển của nhơn quả nghiệp báo,
nhưng không phải là trong thắng nghĩa đế có sự lưu chuyển nhơn
quả nghiệp báo này, do đó nói rằng: Thế tục cho rằng, do đây có
cho nên kia có, do đây sanh cho nên kia sanh, nghĩa là vô minh
duyên hành....Sự tương tục của nhơn quả duyên khởi là thế tục,
trong thắng nghĩa đế là vô ngã, ngã sở tức không. Cái có của thế
tục, cùng cái không của thắng nghĩa là xuất hiện từ kinh này.
Tóm lại tự không là dựa vào đương thể của pháp mà hiểu rõ không,
tha không là trong pháp này hủy bỏ pháp kia nhờ vậy mà rõ được
không. Do đó, Trung quán cho là thế tục do giả danh mà có, thắng
nghĩa rốt ráo không, các nhà tha không luận thì không chấp nhận
quan điểm này. Họ căn cứ ý kiến của mình mà sửa đổi là: Tất cả
pháp giai không là pháp không liễu nghĩa, quan điểm này cùng với
các nhà có lập trường, tự tánh không thì không đồng nhất. Về sau
các học giả không luận duy thức, bèn bỏ đi thuyết biến kế sở
chấp; không nhưng không thể nói duên khởi là do không biểu hiện,
cũng không thể xác nhận các pháp là không, do đó tự không và tha
không căn bản không giống nhau. Thành Duy thức luận cho là nếu
chấp duy thức là thật có, đây cũng là pháp chấp, cho là duy thức
cũng đề cập duyên khởi tâm tâm sở pháp đều không, ắt hẳn điều
này không sao tránh khỏi sự thêm thắt.
-
Tôi cho rằng tất cả
pháp giai không của Trung quán, chủ yếu tư tưởng này xuất phát
từ nhơn quả duyên khởi, nhưng Duy thức tông thì xuất phát từ
nhận thức. Những nhà Duy thức học cho rằng, dựa trên nhơn quả
duyên khởi mà rõ không, tư tưởng nầy cùng với tiểu thừa đều
không triệt để, đại thừa từ nhận thức mà nói như Nhiếp Đại thừa
luận: ?Tự nhiên tự thể vô, tự tánh bất kiên trụ, như chấp thủ
bất hữu, cố hứa vô tự tánh? Vô tự tánh không có nghĩa là tự tánh
hoàn toàn không có. Như pháp vị lai, sanh ở vị lai, chắc chắn
phải có nhơn duyên không thể tự nhiên mà sanh, do vậy gọi đó là
vô tự nhiên tánh. Quá khứ đã diệt không thật thể đồng nghĩa
trong bài tụng gọi là tự nhiên vô. Hiện tại sanh diệt không
ngừng, đồng trong tụng gọi là tự tánh bất kiên trụ. Đây đại khái
là sự lưu động của tam thế nhơn quả, là thuyết vô tự tánh. Trong
A Hàm kinh cũng có tư tưởng này, do đó nhiếp luận cho tư tưởng
này là tiểu thừa. ?Như chấp thủ bất hữu cố hứa vô tự tánh?. Đây
là đại khái đối với biến kế vô tự tánh mà nói, đối với tất cả
pháp chấp là tự tướng, công tướng, pháp tướng, ngã tướng
v.v...đều dựa vào danh mà sanh nghĩa, y vào nghĩa mà sanh danh,
hiển lộ giả danh
-
Không phải là có từ
tự tánh, rời khỏi biến kế này không có tự tướng, là thuyết không
có tự tánh của Đại thừa, đây là điểm các nhà học giả Duy thức
không đồng quan điểm với Tiểu thừa. Nhưng nghiên cứu một cách
nghiêm túc, cái gọi là ?chấp thủ tướng bất hữu? này, trong Kinh
A Hàm cũng đã có nihều nơi đề cập ?Bất khả thủ bất khả đắc?.
?Như chấp thủ bất hữu?, các bậc Thinh văn cũng không đạt đến,
Tạp A Hàm nói: Ngài Ca Chiên Diên khi vào chơn thật thiền định
thắng nghĩa, đây có nghĩa là không lấy nhứt thiết tướng mà nhập
thiền định. Một bản dịch khác nói rằng: ?Chỉ là giả nhơn duyên
hòa hợp ma có tất cả mọi thứ danh tướng, quán tất cả tướng này
là không tịch, không còn thấy hữu pháp và phi pháp?. Phẩm Chơn
thật nghĩa đã trích dẫn ở đây mà cho là giáo chứng của ly ngôn
pháp tánh, thế thì có theể nói Thinh Văn không có pháp này sao?
Do đây mà biết, trên nhận thức không chấp lấy không của các
tương cũng là Tiểu thừa. Dựa vào pháp nhơn quả duyên khởi mà rõ
được vô tự tánh không, cùng với tam thuyết của Nhiếp luận không
giống nhau. Duyên sanh là không tự tánh, tự tánh mà bất khả đắc
tức là không; bởi vì vô tự tánh không, do đó chấp có tự tánh là
điên đảo hý luận, như thật chánh quán là không chấp trước các
tướng. Khi và thắng nghĩa thiền định, không chấp tất cả tướng,
đương nhiên đây không phải tách rời nah6n quả duyên khởimà thành
lập. Kinh Bát Nhã nói: Nếu có một pháp nào khả đắc, chư Phật Bồ
Tát có lỗi lầm, nghĩa là tạp nhiễm không phải là pháp thanh
tịnh, đây là điểm mà kinh A Hàm đã đề cập đến. Dựa vào pháp
duyên khởi nhân quả mà hiểu rõ tất cả pháp đều không, là vô
không môn; không chấp lấy tất cả tướng, là vô tướng môn. Không
môn, vô tướng môn, vô tác môn, là phương tiện không tổn hại
không giống nhau, chính là nhứt ngộ, nhứt thiết ngộ, tam giải
thoát môn đồng duyên một thật tướng. Trung quán lấy không môn vô
khởi duyên tánh làm nền tảng, chưa từng đề cập vô tướng môn.
Nhưng Duy thức lại từ quán không để rõ ?Bất như sở hữu thủ?,
không thể từ nhơn quả mà rõ không, đây là sự bất đồng quan điểm
giữa hai Tông. Vừa trình bày trên là minh chứng duyên khởi vô tự
tánh, mục đích làm rõ nghĩa chữ không. Long Thọ đề cập đến điểm
này rất nhiều, nhưng trên căn bản không đồng quan điểm với các
học phái khác. Do đó, không nên có thái độ vọng văn sanh nghĩa,
thấy từ duyên khởi, tự tánh, không bèn vội vàng cho là giống
nhau.
-
2.
DUYÊN KHỞI TỰ TÁNH KHÔNG
-
Bây giờ đem thuyết
duyên khởi, tự tánh, không vừa thảo luận trên, tiếp tục tổng hợp
thảo luận: Duyên khởi va tự tánh là tuyệt đối tương phản, duyên
khởi là vô tự tánh, tự tánh là phi duyên khởi. Chúng sanh, ngoại
đạo thậm chí cho đến một số học phái khác đều cho tự tánh là căn
nguyên, là khởi điểm. Đối với điểm này Phật Đà cùng ngoại đạo
không giống nhau, Phật cho là duyên khởi, luận nhơn nói nhơn. Do
đó dựa vào học thuyết của Trung quán có thể gọi trung quán là
Duyên khởi tông, các học phái khác có thể gọi là Tự tánh không,
cũng có nghĩa là không có sự phân biệt giữa hai tông. Nếu lấy
duyên khởi cùng không hợp lại mà nói, duyên khởi tức là không,
không cũng tức là duyên khởi, hai khái niệm này, chẳng quaa l2
hai quan điểm khác nhau của cùng một nội dung, trong kinh gọi là
Sắc tức thị không, không tức thị sắc. Duyên khởi va không là
đồng nhất, vì duyên khởi là duyên khởi của vô tự tánh, duyên
khởi là cái để đạt đến rốt ráo không; nếu có tự tánh, thì không
những là bất không, cũng không thành duyên khởi. Ngoại đạo cho
rằng, không là không có, là không trơn, nay luận duyên khởi là
không, lầm tưởng cái gì cũng không có. Bởi vì họ cho rằng, duyên
khởi có thể có tự tánh, duyên khởi cùng không không tương thuận.
Nhưng các nhà Trung quán cho rằng, vì tất cả pháp rốt ráo không,
do đó có pháp duyên khởi, không chướng ngại sanh tử lưu chuyển.
Trung quán nói không, không phải là không có, chỉ là vô tự tánh
mà thôi. Như ánh trăng trong lòng nước, tuy tánh của trăng vốn
không, nhưng ánh trăng chúng ta có thể trông thấy. Do vậy không
và duyên khởi tương thuận, nếu như rời duyên khởi mà nói không,
nói duyên khởi là bất không, đây gọ là ác không. Nói đến không
và tự tánh, một mặt tự tánh vốn là không. Nhưng không thể gọi
không là tự tánh, không là bản tánh của tất cả pháp, là chân
tướng rốt ráo của tất cả pháp, nhưng chẳng qua tự tánh bị điên
đảo vọng chấp. Nhưng điểm rốt ráo của thuyết tự tánh, không là
chân thật, là cứu cánh, cũng có thể gọi không là tự tánh. Như
kinh Bát Nhã nói: ?Tự tánh của tất cả pháp đều không thể được,
tự tánh không thể được tức là tự tánh của tất cả pháp?. Đại khái
thuyết cứu cánh không cũng có thể gọi là thật tướng, thật tánh,
chân thật. Vì tánh của chư pháp là cứu cánh không, bây giờ trả
về bản lai của nó là không, không tăng, không giảm, nhưng không
phải là hư ngụy điên đảo, cho nên có thể gọi nó là chơn là thật.
Tổng kết như bản đồ dưới đây:
-
* Tự tánh và duyên
khởi
-
- Tương phản tương
đoạt
-
- Tự tánh phi duyên
khởi, duyên khởi phi tự tánh.
-
* Duyên khởi và không
tịch
-
- Tương phản tương
thành
-
- Vì duyên khởi dẫn
đến không tịch, vì không tịch cho nên duyên khởi.
-
* Không tịch và không
tánh
-
- Tương thuận tương
phản
-
- Tự tánh là không
tịch, không tịch là tự tánh.
-
- Tương phản tương
thành
-
- Không có tự tánh
cho nên gọi là không, không tức là tự tánh.
-
Đài
Bắc ngày 15 tháng 8 năm 1999
-
Trích
dịch từ Trung Quán Kim Luận của Pháp sư Ấn Thuận
-
|
|