|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
- A
Nan,
- Vị Thị
Giả Của Đức Phật
- Thích
Tâm Hải (1998)
- --o0o--
-
Tôn giả A
Nan (Ananda) là một trong mười vị đệ tử lớn của đức Phật, người
được mệnh danh là rất uyên thâm trong nhiều lĩnh vực và có trí
nhớ siêu phàm (đa văn đệ nhất). Với những đức tính đặc biệt, tôn
giả A Nan được đại chúng thời bấy giờ đề cử làm thị giả cho đức
Phật và được đức Phật hoan hỷ chấp thuận. Tôn giả A Nan đã luôn
theo sát đức Thế Tôn trong suốt hơn 25 năm cuối, luôn tận tụy
trong việc chăm sóc đức Phật; ghi nhớ tất cả những gì mà đức
Phật dạy bảo; luôn đem đến niềm an lạc cho mọi người, như chính
ý nghĩa của tên Ngài -- Ananda: an lành và hạnh phúc.
-
A Nan sinh
trưởng trong một gia đình truyền thống Kshatriya (chiến sĩ giai
cấp nắm quyền hành thống trị đất nước Ấn Độ thời bấy giờ), con
của vua Amitodana. Vua Amitodana là em ruột của vua Suddhodana
(Tịnh Phạn Vương - phụ thân của đức Phật). Trong quan hệ dòng
họ, A Nan là em chú bác ruột với đức Phật. Ngày đức Phật trở về
Ca Tỳ La Vệ (Kapilavastu) để thăm vua cha và thân quyến lần đầu
tiên sau khi thành đạo, trong số vương tôn công tử ra nghinh đón
Ngài có chàng trai trẻ thuộc dòng họ vua chúa -- Ananda, lập tức
A Nan bị thu hút bởi cốt cách uy nghi và thanh cao của đức Phật.
Sau đó, A Nan cùng với sáu vương tử khác đã đến xin đức Phật cho
phép được gia nhập Tăng đoàn, đi theo con đường mà đức Thế Tôn
đang đi.
-
Với trí thông minh có
sẵn, sau khi trở thành một tu sĩ, Tôn giả A Nan đã tiếp thu giáo
lý của đức Phật trọn vẹn như nước thấm vào cát. Nhân một hôm
nghe Trưởng lão Punna thuyết pháp, Ngài chứng đắc được quả thánh
Dự Lưu (Sotàpatti - Tu đà hoàn) -- cấp độ đầu tiên trong 4 cấp
độ giải thoát (Dự lưu, Nhất lai, Bất lai, A-la-hán).
-
Khi được đề
cử làm thị giả của đức Phật, để tránh những dư luận không tốt có
thể xảy ra, Tôn giả A Nan đã đệ trình lên tám điều kiện và được
đức Thế Tôn chấp nhận: 1. Không mặc áo mà đức Phật cho, dù mới
hay cũ; 2. Không dùng thực phẩm mà thiện tín dâng cúng đến đức
Phật, dù đó là thức ăn thừa; 3. Không ở chung tịnh thất với đức
Phật; 4. Không đi theo Phật đến bất luận nơi nào mà thiện tín
chỉ cung thỉnh Phật; 5. Đức Phật hoan hỷ cùng đi với Tôn giả đến
nơi mà Tôn giả được mời; 6. Được quyền sắp xếp, tiến cử những vị
khách đến muốn gặp đức Phật; 7. Được phép hỏi đức Phật mỗi khi
có hoài nghi phát sinh; 8. Đức Phật hoan hỷ nói lại những bài
pháp mà Ngài đã giảng khi không có mặt Tôn giả.Và kể từ khi trở
thành một thị giả trong suốt hơn hai mươi lăm năm, Tôn giả A Nan
đã tận tụy, trung tín, cần mẫn với lòng kính mộ không hề suy
suyển việc chăm sóc đức Thế Tôn, đặc biệt là trong những lúc
thân thể đức Phật có bệnh và những năm đức Phật cao tuổi mà bước
chân không ngừng du hóa bốn phương.
-
Là một thị
giả của đức Phật và là một người uyên bác, có trí nhớ siêu phàm,
ngoại hình khôi ngô tuấn tú, được rất nhiều người, đặc biệt là
phái nữ ái mộ, song Tôn giả A Nam đã không lấy điều đó làm kiêu
hãnh, Ngài luôn khiêm cung, sống phạm hạnh và tận tụy với đức
Phật trong vai trò của một thị giả. Câu chuyện cô gái Pakati của
dòng họ Matànga (Ma Đăng Già) và nhiều chi tiết sinh động được
ghi lại trong kinh điển đã nói lên điều đó.
-
Tuy là một
người rất mực thông minh, nhạy cảm và có một trí nhớ chính xác,
mạnh lạc như thế, nhưng tôn giả A Nan chưa phải là một vị A la
hán -- bậc đã hoàn toàn giải thoát, nên khi nghe đức Phật cho
biết chẳng bao lâu nữa Ngài sẽ nhập diệt, Tôn giả buồn đau vô
cùng. Ký ức về những ngày tháng theo sát bên đức Phật, những
hành động, cử chỉ đầy tình thương yêu vô biên và những lời dạy
đầy trí tuệ của Ngài cứ tuôn chảy về trong Tôn giả. Nghĩ về một
mai đây sẽ không còn Phật nữa, Tôn giả A Nan đã ra ngoài và bật
khóc thành tiếng. Đức Phật nhận biết điều này, Ngài gọi A Nan
lại và ân cần, bảo: "Không nên than khóc, này Ananda, không nên
phiền muộn; Như Lai đã từng dạy rằng mọi kết hợp đều phải chấm
dứt bằng sự biệt ly. Hiện hữu là vô thường, luôn biến dịch. Đã
từ lâu, con đã tận tình hầu cận Như Lai với tâm quý mến kỉnh mộ,
con hãy nỗ lực tu tập để thành tựu quả vị A la hán - quả Thánh
tối thượng" (Anguttara Nikàya - Tăng Chi). Ba tháng sau khi đức
Phật nhập diệt, vào đêm trước Đại hội kết tập kinh điển lần thứ
I gồm 500 vị A la hán do Tôn giả trưởng lão Đại Ca Diếp (Maha
Kasyapa) chủ tọa, với nỗ lực thiền quán vượt bực, Tôn giả đã
chứng đắc A la hán và được tham dự Đại hội, phụ trách trùng
tuyên kinh tạng. Mở đầu của mỗi kinh, Tôn giả A Nan đã lặp lại
lời "Như vậy tôi nghe..." (Như thị ngã văn), mà mỗi khi tiếp xúc
với kinh điển, chúng ta đều gặp.
-
Theo truyền
thuyết, Tôn giả A Nan sống đến một trăm hai mươi tuổi. Tôn giả A
Nan là một vị để tử lớn đồng thời là một thị giả rất tận tụy với
đức Phật. Ngài được đức Phật ngợi khen là người có học thức uyên
thâm; có trí nhớ trung thực và bền lâu; tác phong cao quý và trí
tuện nhạy bén; ý chí kiên định và là người luôn chuyên chú, cần
mẫn đối với công việc cũng như đời sống tu tập (Anguttara Nikàya
- Tăng Chi). Hình ảnh Tôn giả A Nan là một hình ảnh thật đẹp và
là một tấm gương sáng để cho mỗi người con Phật noi theo.
-
- --o0o--
|
|