|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
CHỨNG CỨ KHOA HỌC
- CỦA SỰ
TÁI SINH
- Minh
Chi
-
--o0o--
-
-
Theo một cuộc điều
tra thống kê của Viện Gallup trên toàn nước Mỹ năm 1982 về tỷ lệ
người Mỹ tin ở thuyết tái sanh, con số của Viện Gallup đưa ra có
thể nói rằng là một con số bất ngờ: 1/4 người Mỹ tin ở thuyết
tái sanh, 1/4 trên tổng số dân khoảng 250 triệu là bao nhiêu?
Người Mỹ vẫn nổi tiếng trên toàn thế giới là thế tục, thực dụng
và tôn trọng vật chất! Như vậy, là có trên 60 triệu người Mỹ tin
có thuyết tái sanh, không kém dân số cả nước ta bao nhiêu. Nhà
văn hào Pháp Voltaire (thế kỷ XVIII) nói là: "Nếu nói thuyết tái
sanh làm người ta kinh ngạc, thì thuyết nói con người chỉ sanh
ra con người một lần cũng làm kinh ngạc không kém"
-
Lý do chủ yếu khiến
người ta không tin tái sanh, có một đời sống trước là vì người
ta không nhớ những chuyện gì đã xảy ra trong đời sống trước đó.
Nhưng hãy hỏi, ngay đối với những chuyện xảy ra hồi nhỏ hay thậm
chí mới xảy ra ngày hôm qua, chúng ta còn quên kia mà! Bao nhiêu
điều chúng ta không trực tiếp biết hay là không nhớ, nhưng chúng
vẫn tồn tại.
-
* Túc mạng minh hay
là khả năng nhớ lại các đời sống trước.
-
Trong văn chương Phật
giáo, có từ và khái niệm Túc mạng minh, là khả năng cuả các bậc
thánh trong Phật giáo nhớ lại rõ ràng các kiếp sống trước của
mình. Phật Thích Ca trong canh đầu đêm ngày thành Phật, đã nói
như sau :
-
"Ta nhớ lại nhiều,
rất nhiều đời sống trước mà Ta đã trải qua. Một đời, hai đời, ba
đời, bốn, năm đời, năm mươi đời, trăm nghìn đời, trong các kiếp
vũ trụ khác nhau...
-
Các bậc A La Hán đều
nói chứng được ba minh, tức là Túc mạng minh, Thiên nhãn minh và
Lậu tận minh. Thiên nhãn minh là khả năng nhìn xa, nhìn qua vật
cản, nhìn tận những cõi sống khác không phải cõi người. Lậu tận
minh là sự sáng suốt đã xoá sạch mọi mê lầm và phiền não. Tất
nhiên, trình độ Túc mạng minh của A La Hán còn kém nhiều, so với
Phật.
-
Tính logic của thuyết
tái sanh đã khiến cho có nhiều trí thức phương Tây, kể cả những
tín đồ thiên chúa giáo, chấp nhận thuyết tái sanh. Trong cuốn
"Exploration of Reincarnation" (Nghiên cứu thuyết tái sanh), tác
giả Hans Tendam đã ghi nhận lời phát biểu của Henry Ford, nhà
công và là nhà từ thiện Mỹ nỗi tiếng, về thuyết tái sanh như
sau:
-
"Tôi chấp nhận thuyết
tái sanh từ năm tôi 16 tuổi. Tôn giáo không cung cấp được cái gì
thích hợp; ngay công việc cũng không làm được cho tôi đầy đủ.
Công việc làm sẽ là vô ích nếu chúng ta không lợi dụng được kinh
nghiệm của đời này để dùng cho đời sau. Khi tôi phát hiện được
thuyết tái sanh, thì thời gian không còn bị hạn chế nữa. Tôi
không còn là nô lệ của kim đồng hồ nữa. Tôi muốn truyền lại cho
những người khác sự bình thản mà một quan điểm lâu dài về cuộc
sống đã đem lại cho tôi".
-
(Hans Tendam.
"Exploration of reincarnation" - London Adams 1990, tr.877)
-
Trong lời phát biểu
của Henry Ford có câu "...Tôn giáo không cung cấp được cái gì
thích hợp". Câu này không phải chỉ cho tôn giáo nói chung mà là
cho Thiên Chúa giáo, một tôn giáo thần quyền chủ trương người ta
chỉ sống và chết một lần. Còn các tôn giáo phát từ Ấn Độ, dù là
Phật giáo hay Ấn giáo đều khẳng định có tái sanh.
-
Chúng ta thấy rõ bức
xúc tâm lý của những người như Henry Ford, cuộc sống con người
quá ngắn ngủi, không đủ để hoàn thành sự nghiệp lớn, do đó mà
thuyết tái sanh đã mở rộng cho Ford tầm cỡ thời gian cuả cuộc
sống, làm cho ông ta cảm thấy như không còn là nô lệ của kim
đồng hồ nữa.
-
* Vài câu chuyện tái
sanh có sức thuyết phục :
-
Trong cuốn "The
Tibetan book of living and dying"(Cuốn sách Tây Tạng của sống và
chết), tác giả, Thiền sư Tây Tạng Sogyal Rinpoche ghi câu chuyện
của một người Anh sinh trưởng ở Norfolk, tên là Arthur
Flowerdew. Từ 12 tuổi trở đi, anh ta thường xuyên thấy hiển hiện
rõ nét trong trí nhớ hình ảnh một thành phố lớn, bao quanh bởi
sa mạc; một hình ảnh đậm nét nữa là một ngôi đền tạc lõm sâu vào
sườn núi. Những hình ảnh đó trở đi trở lại luôn trong đầu óc cậu
bé, đặc biệt khi cậu chơi với hòn sỏi màu hồng và màu vàng dọc
bờ biển, gần nhà cậu ta. Càng lớn lên, Flowrdew càng thấy hiện
rõ những chi tiết của thành phố đó, với mô hình các đường phố,
các binh lính đi qua đi lại, và con đường hẻm hẹp từ ngoài dẫn
vào thành phố. Về sau, anh ta tình cờ xem được một cuốn phim
video về thành phố cổ Petra ở Jorda. Anh ta vô cùng ngạc nhiên
khi nhận thấy quảng trường trong thành phố cổ Petra này hoàn
toàn giống hệt quảng trường anh thường thấy hiển hiện trong trí
nhớ trước đây của anh. Qua trung gian đài BBC, Chính phủ Jordan
biết được tin này và sẵn sàng đài thọ một chuyến bay chở Arthu
Flowrdew và một đoàn làm phim của đài BBC đến Jordan. Trước
chuyến đi, Arthur Flowerdew được giới thiệu với một nhà khảo cổ
học rất ngạc nhiên về kiến thức của Arthur về Petra, và tuyên bố
kiến thức này chỉ có thể là của một chuyên gia khảo cổ học lâu
đời. Arthur nêu ra ba địa điểm đặc biệt của Petra: một tảng đá
lớn, có dạng núi lửa, một ngôi đền, nơi Arthur tin là mình đã bị
giết vào thế kỷ I sau công nguyên . Cuối cùng là một kiến trúc
có dạng kỳ lạ, các nhà khảo cổ đều biết tới cấu trúc này, nhưng
lại không rõ chức năng của nó là gì.
-
Nhà khảo cổ học tới
gặp Arthur, và nghi ngờ là cái tảng đá dạng núi lửa ở ngoại ô
Petra không tồn tại. Khi nhà khảo cổ đưa cho Arthur xem bức ảnh
thành phố Petra, nơi có ngôi đền thì Arthur chỉ rõ khá chính xác
vị trí của ngôi đền, và nơi trạm gác. Đó là cái trạm gác, mà hai
nghìn năm trước đây anh ta đã từng phục vụ.
-
Sau khi đoàn đến
Jordan, và đi thăm Petra, khi tiến đến gần thành, Arthur từ xa
chỉ rõ cái tảng đá dạng núi lửa ở ngoại ô, và khi vào thành,
Arthur đả không do dự, không cần tới bảng đồ, đã đi thẳng đến vị
trí trạm gác cũ, nơi anh ta từng phục vụ. Anh ta còn đi đến nơi,
mà anh ta nói đã bị kẻ thù đâm chết bằng một ngọn giáo.
-
Nhà khảo cổ đi theo
Arthur không thể nào hiểu nổi: làm sao một công dân Anh bình
thường lại có thể biết rõ thành phố cổ Petra đến như vậy...
-
Ngoài thuyết tái
sanh, thật không có lý lẽ gì có thể giải thích được kiến thức kỳ
lạ của Arthur Flowerdew về thành phố cổ Petra. Có thể nghi ngờ
là Arthur là một tay bịp hay không? Không thể, vì Arthur đã nói
ra nhiều đều mà các nhà khảo cổ học cũng không biết về Petra.
-
* Chuyện một cô bé
gái nhớ lại đời sống trước của mình
-
Bác sĩ Ian Stevenson,
thuộc trường Đại học Virginia(Mỹ) đã thu nhập nhiều truyện của
trẻ con, nhớ lại đời sống trước của chúng(xem Ian Steveson
Twenty cases suggestive of reincarnation Charlottesville.
University Press of Virginia. 1974) Stevenson kể chuyện một em
gái nhỏ tên là Kamalgit Kour, con một thầy giáo ở Pujab-Ấn Độ
thuộc bộ tộc người Sikh. Em dẫn cha mình đến một làng, và nói
với cha là em cùng với một người bạn đồng học đã bị xe chẹt chết
ở đây, người bạn bị chết ngay lập tức. Em dẫn người cha đến đúng
xóm nhà, nơi em từng ở trước đây với gia đình. Hỏi thăm hàng
xóm, người cha biết đúng là như vậy - Một gia đình có một người
con gái tên là Rishma, bị xe buýt đâm phải khi em 16 tuổi, và đã
chết trong khi xe chở đi nhà thương. Khi ông nội và hai người
bác của em trở về nhà gặp em thì em nhận ra đó là ông nội và
người chú của em. Vào nhà, em không do dự đi thẳng vào phòng,
xưa vốn là phòng của em.
-
Câu chuyện nói trên
được kể với Giáo chủ Tây Tạng Đạt Lai Lạt Ma và ông gửi một đặc
phái viên đến tận nơi để tìm hiểu rõ mọi đầu đuôi câu chuyện.
-
* Năm phương pháp
giúp tin tái sanh.
-
Có năm phương pháp
giúp chúng ta chấp nhận có tái sanh.
-
1. Thứ nhất là suy
nghĩ đúng đắn về sự khác biệt nhân cách và năng khiếu giữa những
người con cùng một gia đình. Tại sao, người cùng một gia đình,
được hưởng một sự giáo dục gần giống nhau lại có thể khác biệt
rất nhiều về nhân cách và năng khiếu. Có người con thì tánh tình
rất tốt, luôn luôn sẵn sàng giúp đỡ người khác, trái lại, có
người con thì tánh tình hung dữ, chỉ muốn hại người. Sự khác
biệt giữa các người lớn có thể thấy trong thái độ của họ đối với
tôn giáo. Có người rất ghét tôn giáo, nhưng cũng có người rất
thích nghe giảng kinh sách tôn giáo, dù đó là Thiên Chúa giáo
hay Phật giáo; ghét và yêu tôn giáo đối với họ như thành bản
năng. Phải chăng đó là do những người đó, trong một đời sống
trước cũng đã từng căm ghét và yêu thích tôn giáo như bây giờ.
Có người học một ngoại ngữ rất là dễ dàng, nhưng có người khác
thấy đó là vô cùng khó khăn.
-
Người đời này học
ngoại ngữ dễ dàng phải chăng trong một đời sống trước đã từng
học ngoại ngữ rồi, và đời này nói học ngoại ngữ chỉ là học lại
mà thôi. Còn người học ngoại ngữ rất khó khăn là vì anh ta ,
trong đời sống trước chưa từng học ngoại ngữ bao giờ.
-
2. Chứng cớ thứ hai
giúp chúng ta suy đoán là có tái sanh là tính liên tục của tâm
thức. Tâm thức chúng ta là một dòng liên tục của những niệm sanh
diệt không ngừng; niệm trước diệt là cái nhân trực tiếp giúp chi
niệm sau sanh khởi. Không có niệm trước diệt thì niệm sau không
thể sanh khởi. Niệm đầu tiên sanh khởi của thai nhi cũng phải do
niệm trước diệt thì mới sanh khởi được. Và niệm trước đó, chỉ có
thể là thuộc đời sống trưác, hay là thuộc thân trung ánh của một
đời sống trước, trong trường hợp có thân trung ánh.
-
3. Chứng cớ từ mộng:
có 3 loại mộng. Một loại mộng có liên quan đến những sự việc ở
đời này, thí dụ: nằm mơ thấy lại những sự việc thời thơ ấu. Một
loại mộng khác liên quan đến những sự việc sẽ xảy ra cũng trong
đời này. Loại mộng thứ ba có liên quan đến những cuộc sống quá
khứ, như các giấc mộng đã nói ở trên của Arthur FLowerdew.
-
Sự việc thuộc loại
mộng thứ ba không thể xảy ra ở đời này được; thí dụ, chúng ta
nằm mơ thấy mình đang bay. Nếu loại mộng này xảy ra thường xuyên
thì rất có thể trong một đời sống trước, chúng ta đã đạt tới một
trình độ thiền định khiến chúng ta bay được. Hiện tượng người
bay được nhờ thiền định là chuyện có thực, quan sát được. Hiện
tượng này tiếng Pháp hay tiếng Anh đều gọi là Levitaio.
-
Nội dung sự việc có
thể không thuộc một đời sống quá khứ mà thuộc một đời sống tương
lai. Thí dụ, kẻ sống ác có thể nằm mơ thấy mình bị thiêu cháy
trong lửa địa ngục, hay là cảm thấy lạnh giá như trong địa ngục
lạnh, đến nổi đắp lên bao nhiêu chăn trên người cũng không chịu
được. Trái lại, người sống thiện lành có thể có những giấc mơ
đẹp, như là sống trong cảnh bồng lai hay trong cung điện nhà
trời. Qua những loại mộng như vậy, có thể suy đoán là phải có
các cuộc sống khác với cuộc sống hiện tại, tức là có tái sanh.
-
4. Chứng cớ thứ tư:
là thế giới đã thu thập rất nhiều chuyện của những người hoặc là
trẻ con, hoặc là người lớn đã nhớ lại các kiếp sống trước của
mình. Ở đầu bài này, tôi đã nhắc lại các chuyện được ghi trong
cuốn "Exploration of reincarnation" (Nghiên cứu tái sanh) của
Tendam, hay là trong cuốn sách của giáo sư Stevenson (sách đã
dẫn).
-
5. Đối với những Phật
tử thuần thành, những lời Phật nói về các cuộc sống trước của
Ngài đã đủ để khẳng định có tái sanh. Tất nhiên, đối với những
người không phải là Phật tử thì câu chuyện về các kiếp sống
trước của Phật không đủ sức thuyết phục.
-
Để kết luận, có thể
nói, có những điều chúng ta tuy không thấy, nhưng có thể suy
đoán bằng lập luận lôgích, như tuy không thấ lửa, nhưng vẫn suy
đoán là có lửa vì thấy có khói bốc lên. Cũng như vậy, tuy không
chứng kiến sự tái sanh, nhưng vẫn có thể dựa vào 4 loại chứng cớ
nói trên mà suy đoán có sự tái sanh.
-
Source:
Trang
LotusNet
- --o0o--
|
|