|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Vô Ngã &
Pháp Hành Thiền
- Đại
đức Bodhesakho
-
Bình Anson lược dịch
-
--o0o--
-
-
Giới thiệu: Sau đây
là một bài phỏng vấn Đại đức Bodhesakho, một tu sĩ Mỹ, cộng tác
viên Hội Xuất Bản Phật Giáo Tích Lan (Buddhist Publication
Society), do đài phát thanh Tích Lan thực hiện năm 1986.
- -oOo-
-
Hỏi: Chúng tôi rất
hân hạnh được Đại đức Bodhesakho, một vị tăng sĩ người Mỹ, tham
dự vào cuộc phỏng vấn hôm nay. Kính thưa Đại đức, Thầy đã xuất
gia, tu học trong hơn 5 năm qua, và Thầy đã có nhiều quan tâm
trong các lĩnh vực học tập, hành trì, và truyền giảng các lời
dạy của Đức Phật. Một trong những chủ đề quan trọng và sâu sắc
nhất của Đạo Phật là giáo thuyết Vô Ngã, mà người phương Tây
thường cảm thấy rất khó thông hiểu cho tường tận. Thưa Đại đức,
tại sao như thế?
-
Đáp: Trước hết, tôi
nghĩ rằng bất cứ người nào tìm kiếm một lời giải thích cho Vô
Ngã cũng đều tìm cách áp đặt giáo thuyết nầy vào những nhu cầu
và tham muốn của họ, cho dù lời giải thích đó có đúng với Phật
Pháp hay không. Con người luôn luôn tìm kiếm lời giải đáp cho
các câu hỏi, luôn luôn tìm kiếm phương cách giải quyết cho mọi
tình huống. Sự kiện nầy không phải chỉ xảy ra trong thời đại bây
giờ mà cũng không phải chỉ riêng cho người Âu Mỹ, nó xảy ra
trong mọi thời và cho mọi người. Con người lúc nào cũng tìm kiếm
câu trả lời cho mọi câu hỏi.
-
Bây giờ, nếu có người
nào đến với Đạo Phật, họ được cho biết Đức Phật dạy rằng dù họ
có hoài công tìm kiếm, họ sẽ không bao giờ tìm thấy bản ngã hoặc
những gì đưa đến tự ngã. Và họ sẽ tìm một lời giải thích nào đó
mà họ có thể hiểu được trong khung kiến thức của họ. Từ đó, vì
lời dạy của Đức Phật hoàn toàn khác hẳn những gì mà các người
phương Tây đã từng quen thuộc, họ sẽ tìm cách biến cải Phật Pháp
để lồng vào trong khung kiến thức của họ.
-
Thật ra, điều họ cần
phải học tập là không biến cải Phật Pháp để thích nghi với quan
kiến của họ, mà ngược lại, họ phải biến cải quan kiến của họ để
thích nghi với Phật Pháp. Đây là Tín hạnh, Saddha - lòng tin, có
nghĩa là đưa mình vào Phật Pháp mặc dù Phật Pháp có thể trái
ngược lại những định kiến của mình về bản thể của sự vật. Điều
này có nghĩa là chúng ta, thay vì tìm lời giải đáp, chúng ta cần
phải tự hỏi là tại sao chúng ta lại có nhu cầu để đặt các câu
hỏi đó. Đây là những gì Đức Phật đã dạy, là chúng ta phải cần
phải khám nghiệm tự thân.
-
Khi chúng ta thấy
được nhu cầu để đặt câu hỏi, chúng ta phải tìm cho ra cội rể của
nhu cầu đó và những động lực nào để khởi sinh nhu cầu đó. Khi
chúng ta chú tâm vào câu hỏi thay vì vào câu giải đáp, chúng ta
thật sự hành trì lời Phật dạy.
-
Hỏi: Về thuyết Vô
Ngã, thuyết nầy hầu như đã được nhiều triết gia và khoa học gia
chấp nhận, ở phương Đông lẫn phương Tây, rằng không có một cái
gì có thể trường tồn vĩnh viễn, không thay đổi trong cõi đời
nầy. Tất cả đều là những con xoáy của năng lượng. Các nhà vật lý
học cho rằng nguyên tử được cấu tạo bởi những proton, electron,
neutron, positron, rồi tối hậu, họ cho rằng đó chỉ là tập hợp
các lượn sóng. Một cách triết lý, những nhà khoa học nổi danh
như các ông Newton hoặc Einstein đều công nhận rằng tất cả mọi
sự vật đều đang thay đổi. Thế nhưng, khi trở về bình diện luân
lý và đạo đức của Đạo Phật, đây là một vấn đề rất quan trọng
trong những lời dạy của Đức Phật, tại sao con người lúc nào cũng
khư khư bám thủ vào sự vật? Những người Phật tử thông thường đều
biết vạn vật là vô thường, nhưng họ lại không áp dụng được điều
đó vào trong đời sống gia đình và trong xã hội. Xin Đại đức cho
biết nguyên do tại sao như thế?
-
Đáp: Dĩ nhiên là họ
tưởng rằng các sự vật đó sẽ tồn tại mãi mãi! Nếu ông nhìn vào
lối sống của họ, ông sẽ thấy tư tưởng đó nằm sâu trong đời sống
của họ. Thế nhưng, khi bảo họ rằng mọi sự vật không thể tồn tại
mãi mãi, chắc chắn là họ không thể phủ nhận được. Họ chỉ cần
nhìn chung quanh thì họ sẽ thấy ngay sự đổi thay của vạn vật. Có
những sự vật thay đổi nhanh chóng, có những sự vật thay đổi từ
từ chậm chạp, nhưng không chóng thì chày, mọi vật đều thay đổi.
Con người sinh ra, lớn lên, trưởng thành, rồi già yếu. Ngay cả
mặt đất này cũng đang thay đổi. Những người bị tai nạn về động
đất, bão lụt, đất lỡ, v.v. đều thấy được điều đó. Cho nên, chúng
ta không nên đặt niềm tin vào sự tồn tại trường cửu của bất cứ
một sự vật nào.
-
Ngày nay nhiều nhà
khoa học cố gắng tìm hiểu giáo thuyết nầy, học thuyết nọ, và họ
cho rằng thuyết nầy hay thuyết kia có những điểm tương đồng với
Đạo Phật. Họ nói rằng: "Vâng, chúng tôi không thể tìm được một
cái gì có thể gọi là linh hồn, bằng cách này hay cách khác." Thế
nhưng, họ không chịu quan sát ngay chính họ. Họ đang tìm kiếm
các câu trả lời, nhưng họ không chịu nhìn thẳng vào câu hỏi! Lý
do họ không tìm ra được một cái gì để gọi là "bản ngã", không
phải là vì họ không nghiên cứu tường tận, nhưng là vì họ không
chịu thực hành thiền quán, họ không chịu quay nhìn vào bên
trong. Bây giờ, nếu họ cố gắng nhìn vào bên trong, họ cũng sẽ
không tìm ra được một cái gì có thể gọi là "bản ngã", nhưng sự
thông hiểu nầy đòi hỏi một thái độ hoàn toàn khác hẳn, một quan
kiến khác hẳn, để thực hiện công tác nghiên cứu, khảo sát đó.
-
Để làm được điều
trên, chúng ta cần phải biết rõ nhu cầu tại sao chúng phải tìm
kiếm một cái "ngã". Đó không phải chỉ là một câu hỏi lý luận,
"Có hoặc không có một cái gì gọi là 'ngã'?", nhưng thật ra,
chúng ta phải tự hỏi rằng tại sao người ta thấy có nhu cầu để
đặt ra câu hỏi đó, để đặt ra một danh xưng, dù cho đó là Thượng
đế, là linh hồn, là bản ngã, là một tên gọi nào đó, để rồi nếu
họ không tìm ra được cái đó, chẳng những họ không thỏa mãn với
câu trả lời phủ định, mà rồi trong thâm tâm họ cũng cảm thấy bất
an! Họ có thể che dấu nỗi bất an đó bằng nhiều phương cách giải
trí, chẳng hạn như xem hát, nghe nhạc, xem ti-vi, hoặc đi ngủ,
hoặc một cách nào khác. Nhưng rồi, họ vẫn cảm thấy chán nản,
căng thẳng, và lo sợ. Đây là một trong những vấn nạn nghiêm
trọng trong xã hội tân tiến ngày nay, và cũng đã từng đem ra
thảo luận rất thường xuyên trong các xã hội cỗ xưa. Con người
lúc nào cũng cảm thấy căng thẳng, lo âu, thiếu thốn, bởi vì họ
lúc nào cũng hoài công tìm kiếm một cách vô vọng.
-
Hỏi: Thưa Đại đức,
Thầy vừa nói là có nhiều căng thẳng và lo âu trong xã hội ngày
nay. Con người sống bận rộn, vội vàng, vì đời sống bây giờ đang
biến chuyển với một tốc độ cực nhanh. Nhìn quanh, chúng ta thấy
các xáo trộn, thay đổi nghiêm trọng đang xảy ra từng giờ phút,
và con người không có đủ nghị lực và sức mạnh tâm linh để đương
đầu với các sự thay đổi nầy. Có người cho rằng trong thời Đức
Phật còn tại thế, đời sống bình an và định tĩnh hơn. Thầy nghĩ
như thế nào?
-
Đáp: Không hẳn như
thế đâu! Theo tôi, chúng ta không thể kết án thời đại của chúng
ta hiện nay là xấu tệ hơn những thời đại ngày xưa. Đọc lại các
tài liệu lịch sử thì chúng ta sẽ thấy được điều nầy. Ngày xưa,
triết gia Plato của phương Tây đã từng than thở là thời đại của
ông không còn biết kính trọng người già và nhiều tệ đoan hơn các
thế hệ trước. Nếu chúng ta đọc lại những sự kiện ghi trong tạng
Luật của hệ Pali, chúng ta thấy ngay trong thời Đức Phật cũng có
các thầy Tỳ kheo và cư sĩ có những hành động rất đáng chê, đáng
trách. Cho nên, con người trong thời nào cũng như vậy cả, vấn đề
thiếu nghị lực và đạo đức tinh thần không phải chỉ đặc biệt có
riêng trong thời đại của chúng ta.
-
Thời đại nào cũng
thế, bây giờ cũng như ngày xưa, xã hội có nhiều cám dỗ và con
người thường tìm kiếm những gì có thể thụ hưởng ngay tức khắc mà
không chịu làm những gì để tạo ra một hậu quả vững bền. Họ chọn
lối sống để làm thỏa mãn các giác quan, các cảm tính nhất thời,
và họ không thích làm những điều khó để tạo an định trong tâm
thức, để thanh lọc tâm ý, để thoát ra mọi ràng buộc của tham
dục. Bởi vì cần phải có một nỗ lực lớn để làm được như thế, còn
chạy theo nhục dục ngũ trần và làm thỏa mãn chúng thì dễ dàng và
nhanh chóng hơn. Họ lúc nào cũng muốn có một đời sống dể dải,
lười biếng, hưởng thụ.
-
Hỏi: Tuy nhiên, sự
thật hiển nhiên là khác với thời của Đức Phật, đời sống ngày nay
đang chuyển biến một cách nhanh chóng, thay đổi rất nhanh. Các
thay đổi về công nghệ và kỹ thuật đang có một tác động rất mạnh
vào đời sống của con người, và do đó, họ cảm thấy rất khó giử
được một sự an bình trong tâm thức. Thầy có nghĩ rằng hành thiền
có thể sẽ giúp những người nầy gìn giữ sự thăng bằng và bình
thản trong tâm được không?
-
Đáp: Trong Tương Ưng
Bộ Kinh, Đức Phật dạy rằng: "tâm ý nầy sinh trong một dạng và
diệt trong một dạng khác". Có nghĩa là ngay trong thời đó, Ngài
đã tuyên bố rằng tâm ý chúng ta thay đổi cực nhanh, ngày xưa
cũng như ngày nay. Cảnh vật ngoại vi không thay đổi nhanh như
thế! Tuy nhiên đó không phải là vấn đề, bởi vì thật ra, con
người không quan tâm đến sự thay đổi. Đôi khi, chúng ta còn muốn
có thay đổi xảy ra cho nhanh, nhất là khi ta phải đối đầu với
những cảnh khó chịu, bực dọc, ta lại muốn nó biến mất đi, càng
nhanh càng tốt.
-
Điều làm ta lo ngại,
bực dọc là sự bất định của đổi thay, rằng sự vật có thể thay đổi
bất lợi cho ta trong bất cứ lúc nào. Điều đó làm cho ta lo sợ và
căng thẳng! Cho dù sự vật thay đổi nhanh hoặc chậm, chúng ta đều
lo sợ rằng nó sẽ thay đổi thành mức độ xấu tệ hơn, bất lợi cho
ta hơn. Đó là vì lòng tham thủ, và từ đó sinh ra sự sợ hãi, bất
an. Đối với vị A-la-hán, các vị đã nhập dòng Thánh giải thoát,
các vị đó cũng phải đối đầu với những thay đổi trong cuộc đời.
Tuy nhiên, vì các vị ấy không còn lòng tham thủ, các vị không
còn lo âu, sợ sệt nừa, và từ đó không còn hoạn khổ.
-
Hỏi: Trở lại vấn đề
hành Thiền. Ngày nay, pháp hành Thiền của Đạo Phật đã được nhiều
người biết đến và có nhiều chú tâm, nhất là trong các nước Âu
Mỹ. Có lẽ đó là vì con người đang có nhiều căng thẳng trong đời
sống hiện đại và bị nhiều ảnh hưởng của các phương tiện truyền
thông đại chúng. Chúng ta thường xuyên bị cám dỗ bởi các quảng
cáo thương mại, kích động ngũ dục qua truyền hình, truyền thanh,
sách báo, hình ảnh, vv. Những điều nầy không xảy ra trong thời
Đức Phật, 2.500 năm trước. Vì bị kích động như thế, tâm thức con
người ngày nay bị xáo trộn quá nhiều, rất khó mà tập trung, lắng
đọng, và an dịu. Hành Thiền có giúp được gì không?
-
Đáp: Ngày nay con
người có rất nhiều phương tiện để giúp chạy trốn thực tại hơn
ngày xưa, và vì thế, họ đã quen lối chạy trốn những sự kiện thực
tế hiện hữu trong chính họ. Khi họ thử quay về nhìn lại thực
tại, họ cảm thấy không được nhiều lợi lạc như thời xưa. Con
người thời xưa không có nhiều phương tiện giải trí để giúp họ
chạy trốn sự thật, cho nên họ không còn chọn lựa nào khác ngoài
cách phải duy trì một sự tỉnh giác để nhìn vào sự hiện hữu của
chính họ.
-
Tương tự như vậy, nếu
như họ tìm đến pháp hành Thiền, họ có thể sẽ cảm thấy thấy thất
vọng vì nó không có vẻ gì hấp dẫn hay kích thích. Hành Thiền có
một ý nghĩa đơn giản là tập nỗ lực trực diện với sự hiện hữu của
chính mình, sống trong hiện tại, không để mình bị cám dỗ bởi
ngoại cảnh, và giúp mình nhìn sự vật như thật, thay vì nhìn qua
các ánh đèn màu rực rỡ giả tạo. Một người nếu đã quen với những
gì hấp dẫn rực rỡ thì ắt hẳn sẽ không chấp nhận điều đó! Cũng
như khi chúng ta đi xuống phố, nhìn qua khung kính cửa hàng
chưng bày hàng hóa. Chúng ta thấy người bán hàng thường trang
trí thêm các loại giấy bóng, giấy màu óng ánh để tạo sự chú ý
của người xem. Tuy nhiên, đối với một người đã có chủ tâm, đã bị
lôi cuốn vào một món hàng nào đó, người bán không cần phải trang
trí thêm các giấy màu rực rỡ, bởi vì sự rực rỡ đó đã có sẵn
trong mắt của anh ta, anh ta nhìn cái gì cũng thấy rực rỡ cả!
Hành Thiền và phát triển Chánh Niệm là để giúp ta thoát khỏi
ràng buộc của cái rực rỡ đó, để giúp ta buông xả, không dính
mắc. Phải hiểu như thế thì pháp hành Thiền của Đạo Phật mới mang
lại lợi lạc và hạnh phúc thật sự cho chúng ta.
-
Phóng viên: Chúng tôi
xin cám ơm Đại đức đã có thiện tâm đến đây để tham dự buổi nói
chuyện ngày hôm nay. Chúng tôi xin cầu chúc Đại đức đạt nhiều
kết quả tốt đẹp trong sự tu học và trong công tác hoằng dương
Phật Pháp.
-
Binh
Anson lược dịch
-
Perth,
Tây Úc
-
tháng
11-1999
- --o0o--
|
|