|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
- TỨ ĐẾ
& QUAN ĐIỂM
-
--o0o--
-
-
Từ khi đức Phật xác
lập :" Mọi vật đều vô thường , mọi vật đều vô ngã ", thường được
diễn tả với danh từ Sarvam Sùnyam (mọi vật đều Không).Trong
những lời dạy của ngài , thì sau đó, giữa các nhà Tiểu thừa và
Đại thừa có sự tranh luận sôi nổi gay gắt về vấn đề này và ngày
càng thêm quyết liệt hơn trong cung cách chấp nhận và giải thích
theo quan điểm của mỗi bộ phái. Các nhà Tiểu thừa chỉ chấp nhận
và bằng lòng với lối giải thích giản dị là:" Vì thế giới không
có tự ngã và những sở hữu của ngã nên được gọi là Sùnya " (yasmà
ca sunnam attena va atteniyena va tasmà sunno loko ti vuccati )
. Từ quan điểm ấy, các nhà Tiểu thừa chỉ chấp nhận dành Sùnya
cho các pháp hữu vi và đặc biệt là Nhơn không (Pudgala sùnyatà )
mà thôi . Trong khi đó, các nhà Đại thừa , đặc biệt là các nhà
Madhyamikàs ( Trung quán ), không dừng lại nơi đây, ngược lại
còn tiến xa triệt để hơn trong cách giải thích của mình về
Sarvam sùnyam. Theo các nhà này, thì Sùnyatà không những chỉ
dành riêng áp dụng cho các pháp hữu vi, mà ngay đến các pháp vô
vi cũng được áp dụng một cách triệt để như quan niệm về Niết bàn
( Nirvana), Như Lai ( Tathàgata ) hay bất cứ một khái niệm nào
khác . Chính những quan niệm triệt để này đã làm lung lay tận
nền tảng tri thức của các nhà Tiểu thừa về những quan niệm mà họ
đã thủ đắc được từ những lời dạy của đức Phật về Tứ đế (
àryasatyas ), lý Duyên khởi ( Pratìtyasamutpàda ) cùng tất cả
những giáo lý khác . Từ những hụt hẫng này, các nhà Tiểu thừa đã
phản bác lại bằng những nạn vấn sắc bén . Mà theo đó, những nạn
vấn này, chúng vừa củng cố cho lập trường hữu lý của họ, vừa
đánh đổ những phi lý của các nhà Đại thừa và Trung quán đã phạm
phải , theo quan điểm và lập trường của họ. Ở đây, chúng tôi sẽ
trình bày những nạn vấn này, cùng những quan điểm của Bồ tát
Long Thọ (Nàgàrjuna) về Tứ Đế.
-
Theo quan
điểm và lập trường của các nhà Tiểu thừa thì : Nếu tất cả thế
gian đều không , không có sở hữu thì sẽ không có hiện tượng sanh
diệt . Khi đã không có hiện tượng sanh diệt hiện hữu , thì tất
cả mọi hiện tượng theo đó không hiện hữu và ngay đến cả nhân quả
Tứ đế :" Thấy khổ, đoạn tập , chứng diệt và tu đạo " cũng không
luôn . Do đó pháp bảo cũng không có. Từ không này dẫn đến Bốn
quả Sa môn , Bốn hướng , Bốn đắc cũng không . Từ đó Bát hiền
thánh cũng không hiện hữu . Khi Bát hiền thánh đã không hiện hữu
thì không có Tăng bảo. Tóm lại , nếu Pháp bảo đã không , Tăng
bảo đã không thì làm gì có Phật bảo ? Do đó ngài đã phá hoại Tam
bảo . Không những chỉ phá hoại Tam bảo thôi mà còn phá hoại luôn
cả nhân quả tội phước cùng tất cả các pháp đang hiện hữu trên
thế gian này. Từ những phân tích trên cho thấy các ngài đã quá
sai lầm trong nhận thức về các pháp . Ở đây, các pháp chỉ thực
hữu chứ không phải không thực hữu như các ngài đã quan niệm .
Để trả lời những nạn vấn này, ngài Long Thọ thấy rằng
đối phương đã không nắm được ý nghĩa Không ( Sùnyatà), tướng
Không cùng nhân duyên Không , nên có những tưởng tượng sai lầm
về chúng . Do đó, trước hết , ngài muốn vạch ra những sai lầm
của đối phương về Sùnyatà :
-
- Sùnyatà
không phải là Nàsstitva (Đoạn diệt) cũng không phải là Abhàva
(khiếm diện một cái gì) như họ tưởng , mà Sùnyatà cần phải nhận
thấy qua các đặc tướng trong việc giải thích nó .
-
- Sùnyatà
là Aparapratyaya ( không thể dạy cho người khác ) chỉ có tự mình
chứng ngộ nội tâm , không thể nghe người khác giảng dạy mà hiểu
được .
-
- Sùnyatà
là Sànta (an tịnh) , không bị sinh diệt chi phối .
-
- Sùnyatà
là Prapancairaprapancitam (không thể nghĩ bàn) .
-
- Sùnyatà
là Nivirkalpa (không thể giải ngộ) , vượt ngoài vọng tưởng .
-
- Sùnyatà
là Anànàrtha (không có nhiều nghĩa khác nhau) . Ngài tiếp tục
giải thích Sùnyatà là Prtìtyasamutpada (duyên khởi ).
-
Sẽ không có
bất cứ giá trị tương đối nào thực hữu tồn tại về một thế giới mà
ở đó, mọi vật được coi như là thật hiện hữu , mà chúng chỉ là
một giả định về mặt hiện tướng khi duyên hợp đủ , để nói lên cái
hiệu quả bất toàn cho cái duyên biến đủ theo sau chúng . Đó
chính là cái Tánh Không (sùnyatà) của các pháp được soi sáng bởi
cái nhìn sâu , thâm hiểu qua mọi sự kiện , mà qua đó, chúng
không có một sự kiện sai khác nào giữa sanh tử và Niết bàn . Thế
giới chỉ hiện hữu tương đối giả tạm , nhưng chúng sẽ trở thành
hình như thật có đối với một tâm hồn mê mờ . Do đó, cần phải đập
tan mọi quan niệm sai lầm về một thế gian chân thật ở bên ngoài
thế gian này, theo quan điểm của các nhà Tiểu thừa . Theo đó ,
họ sẽ loại bỏ Tục đế (sanh tử) để chứng Chân đế ( Đệ nhất nghĩa
hay Niết bàn). Nghĩa là các vị ấy đi từ trạng thái thế gian
(laukika) đến trạng thái xuất thế gian ( lokuttara).
-
Vì tất cả
những quan niệm sai lầm như trên , nên đã dẫn các nhà Tiểu thừa
đến một thứ cực đoan không thể chấp nhận được , trong việc cố
biến giáo lý Tứ đế và lý Duyên khởi thành mô? thứ chân lý thực
hữu thuộc về Đệ nhất nghĩa đế (Paramattha) chứ không phải Tục đế
(Samvrti) , và cứ ôm chặt vào đó, cho là một thứ cứu cánh thực
hữu cần phải đạt đến . Cho nên họ đã hiểu một cách sai lạc về
quan điểm Sarvam sùnyam chính đức Phật nói ra . Từ đó, họ đẻ ra
những nạn vấn mà chính họ sẽ tự hại họ trong cuộc thử thách này.
-
Tiếp đến,
ngài Long Thọ muốn làm sáng tỏ lập trường của mình về
Dharmasùnyatà qua nạn vấn này. Trước hết , ngài không phủ nhận
Nhị đế mặc dù ngài đã liệt nó vào hàng Tục đế trên phương diện
mê . Song không thể không chấp nhận giáo lý này trên cái nhìn
của bậc Thánh ,vì giữa sanh tử và Niết bàn không có sự sai khác
. Vì khi mê Nó là tục , khi ngộ Nó là chơn ; chỉ khác nhau ở chỗ
mê nó và ngộ nó, như bài kệ ngài viết :
-
Nếu chẳng y vào Tục
đế
-
Chẳng được Đệ nhất
nghĩa
-
Không được Đệ nhất
nghĩa
-
Thời không đạt được
Niết bàn .
-
Ở đây, có
sự sai biệt nhau trên bình diện mê , nên có Tục đế -Đệ nhất
nghĩa đế -Niết bàn. Nhưng khi ngộ thì chính ba cái sai biệt đó
không khác nhau . Vì những lý do đó cho nên ngài Long Thọ không
phủ nhận giáo lý Nhị đế trong quan điểm của mình , và chỉ coi nó
như là một phương tiện cần cho giai đoạn chuyển mê khai ngộ.
Theo ngài , nếu không nhờ những ngôn thuyết của Tục đế thời Đệ
nhất nghĩa không nói được , và nếu không đạt được Đệ nhất nghĩa
thì làm sao chúng ta có thể đạt được Niết bàn ? Vì vậy , nó được
coi như là một phương tiện chuyên chở cho sự thành công của một
cứu cánh . Nhưng khi cứu cánh đã đạt được , và nó nhìn lại chính
nó, thì chính nó là phương tiện chứ không gì khác . Từ những lập
luận này cho chúng ta thấy rằng : quan điểm Sùnyatà của ngài
Long Thọ không phủ nhận giáo lý Nhị đế.
-
Cũng đứng trên lập
trường này , ngài cảnh cáo các nhà Tiểu thừa rằng : Nếu hiểu
Sùnyatà sai lầm như những nạn vấn trên thì chính mình tự hại
mình . Bởi vì cái nghĩa Không này, nó quyết định sự thành tựu
của các pháp thế gian và xuất thế gian . Ngược lại , nếu không
có nó, thì các pháp thế gian bất thành . Theo pháp Thực-Hữu của
các nhà Tiểu thừa thì chúng đối lập với cái Không Thực Hữu của
các pháp . Nhưng Sùnyatà không phải là cái Không Thực Hữu như
các nhà Tiểu thừa quan niệm . Do đó, Sùnyatà này, nó vượt ra
khỏi quan niệm có-không của Tiểu thừa và nhờ vậy mà nó quyết
định được sự thành bại của các pháp . Ngược lại , chính các pháp
Hữu , theo quan niệm của các nhà Tiểu thừa , là pháp sai lầm ,
rơi vào thường kiến . Nó sẽ trở thành kẻ phá hoại Tam bảo qua sự
soi sáng của Sùnyatà . Ở đây, chúng ta sẽ thấy một cách rõ ràng
hơn , những phản bác mà ngài Long Thọ đã dùng phương pháp " Gậy
ông đập lưng ông", do chính các nhà Tiểu thừa đập lại chính họ,
sau khi ngài đã chỉ rõ những hiểu biết sai lầm về Sùnyatà mà cho
là cái đoạn diệt , cái không thực hữu , trong khi Sùnyatà không
can hệ gì tới chúng cả .
-
Ngài Long
Thọ bảo : nếu các nhà Tiểu thừa bảo rằng tất cả các pháp trong
đó kể cả Tứ thánh đế , tự chúng đã có thực hữu định tánh của nó
, thì các pháp này không nhân , không duyên . Chỉ vì tánh kiên
trì của nó cho nên chúng sẽ không sanh diệt . Như vậy , rõ ràng
sự thành tựu của các pháp đâu cần đến nhân duyên ? Nhưng trong
thực tế , các pháp từ duyên sanh và chúng diệt đi cũng từ duyên
diệt . Vậy, nếu bảo các pháp đã có sẵn định tánh nơi tự tánh của
chúng thì điều này hoàn toàn không đúng . Vì nếu đã có tánh
quyết định nơi tự tánh của chúng rồi , thì theo đó nhân quả cũng
sẽ bị phá luôn , vì không nhân thì làm gì có quả theo sau đó để
thể hiện cái tướng vô thường của các pháp . Đằng này, các pháp
như ngài Long Thọ nói :
-
Các nhân duyê? sanh
pháp
-
Ta nói tức là không
-
Đó cũng là giả danh
-
Cũng là nghĩa Trung
đạo
-
Chưa từng có một pháp
-
Chẳng từ nhân duyên
sanh
-
Cho nên tất cả pháp
-
Không phải chẳng là
không .
-
Ở đây,
chúng ta thấy mọi sự hiện hữu của mọi sự vật luôn luôn tùy thuộc
vào các duyên . Do đó, chúng không có tự tánh , chỉ vì muốn
hướng dẩn chúng sanh nên phải dùng giả danh để nói . Không ở đây
xa lìa , không lệ thuộc vào có-không như các nhà Tiểu thừa đã tự
hiểu , nên chúng được gọi là Trung đạo . Vì pháp này không có
tánh nên không được bảo là có, cũng không có không ,nên không
được bảo là không. Nếu pháp tự nó đã có tánh tướng thì dứt khoát
không cần lệ thuộc vào các duyên mà hiện hữu . Nhưng ở đây, nếu
muốn có pháp mà không nhờ các duyên thì điều đó sẽ không xảy ra
. Do đó, có-không của các vị không phải là pháp Không
(Dharmasùnyatà) của đức Phật .
-
Ngài Long
Thọ lập luận tiếp : Như trên , các vị bảo rằng quan điểm về
Dharmasùnyatà của chúng tôi có những lỗi như vậy. Nhưng rõ ràng
, cái lỗi sai lầm đó, chính các vị vấp phải chứ không phải chúng
tôi . Vì sao ? Vì nếu bảo rằng tất cả các pháp vốn tự chúng đã
có tánh , chẳng phải không tánh thì sẽ rơi vào không sanh diệt .
Nhưng nếu mà không sanh diệt thì sẽ không có Tứ thánh đế . Tại
sao vậy? Vì Dukkha (khổ) không từ duyên sanh nên sẽ không có khổ
. Nhưng theo kinh thì " Vô thường là khổ". Vậy khổ đã có định
tánh của riêng nó rồi thì làm gì có vô thường, vì chúng không bỏ
tự tánh riêng của chúng .
-
Lại nữa ,
nếu Dukkha đã có định tánh rồi thì không cần phải sanh trở lại,
vì trước đó đã có Dukkha rồi cần gì phải từ Tập sanh ra . Do đó
không có Samudaya (Tập đế). Mặc khác , nếu Dukkha đã có định
tánh của nó rồi thì cũng chẳng cần Nirodha (Diệt) , vì tánh
Dukkha đã định rồi nên không thể mất được .
-
Lại nữa ,
pháp nếu đã định có thì sẽ không có tu Đạo (magga), vì nếu là
thật pháp thì phải là thường hằng . Nhưng đã thường hằng rồi thì
không tăng không giảm , đã không tăng không giảm thì cần gì phải
tu đạo ? Đạo, nếu đã tu được thì không có định tánh . Do đó, khi
trước đó, các pháp đã quyết định có tánh của chúng rồi thì không
thể có Khổ đế -Tập đế -Diệt đế. Vậy thì con đường diệt khổ hiện
tại nên đi đến chỗ nào để diệt khổ ?
-
Lại nữa ,
nếu Dukkha đã là định tánh , mà trước khi chưa làm phàm phu chưa
thấy chúng, thì trong hiện tại vẫn không thể thấy được , và
trong cả tương lai nữa . Vấn đề đoạn Tập , chứng Diệt và tu Đạo
cũng như vậy. Nếu từ trước đến nay chẳng đoạn , chẳng chứng ,
chẳng tu thì trong hiện tại cũng chẳng đoạn , chẳng chứng ,
chẳng tu ; vì từ trước tới nay chưa từng đoạn, chưa từng chứng,
chưa từng tu . Cho nên bốn hành trong Tứ thánh đế , tất cả đều
không hiện hữu . Khi bốn hành đã không hiện hữu thì bốn đạo quả
cũng không luôn , vì định tánh của các pháp cho nên từ trước đến
nay chưa đạt được , và trong hiện tại cũng thế. Ngược lại ,điều
này có thể xảy ra , với điều kiện tánh của chúng không định thì
khả dĩ đạt được . Nhưng điều này sẽ không xảy ra với quan điểm
của các nhà Tiểu thừa đối với các pháp . Do đó, cái hậu quả tất
yếu sẽ xảy ra theo đó đối với vấn đề đạt Hướng , Bát hiền thánh
, Tăng bảo, Pháp bảo cho đến Phật bảo. Tất cả đều bị phá , đều
bị đẩy lùi vào trong đoạn diệt , không hiện hữu như chính quan
điểm của các nhà Tiểu thừa đã hiểu về Dharmasùnyam , mà các vị
đó đã gán cho các nhà Đại thừa và Trung quán chủ trương , để đối
nghịch lại cái Hữu của họ .
-
Ở đây, dù
là hữu hay là vô mà hiểu theo các nhà Tiểu thừa cũng rơi vào hai
bên , chấp thủ thiên kiến . Nếu hiểu theo cách mà quan điểm các
nhà Tiểu thừa về hữu và vô như vậy, thì cho dù chúng ta có nổ
lực siêng năng tu hành để đạt được quả vị Phật , sẽ không thể
nào thực hiện được. Bởi vì muốn đạt được quả vị Phật phải thực
hành Tứ thánh đế . Nhưng nếu thực hành theo đường lối của các
nhà Tiểu thừa , như những phân tích trên của ngài Long Thọ thì
làm sao đạt được ? Đó là những quan điểm mà ngài Long Thọ đưa ra
để phản bác lại những lập luận rơi vào tà kiến của các nhà Tiểu
thừa . Chính lối dùng " Gậy ông đập lưng ông" này đã đưa các nhà
Tiểu thừa vào tuyệt lộ .
-
Và sau đây
là những vấn nạn cuối cùng về Tứ đế của các nhà Tiểu thừa đưa ra
, sau khi họ đã được nghe giải thích về Dharmasùnyatà sai lầm
theo quan điểm chính họ :
-
Ngài tuy đã
phá các pháp, nhưng cứu cánh của con đường đi đến A-nâ? đa-la
tam-miệu tam-bồ-đề (Anuttarasamyuak-Sambodhi) buộc phải có .
Nhân vào con đường này để gọi là Phật ?
-
Ngài Long
Thọ cũng đứng trên lập trường Pháp-Hữu của chính họ để trả lời
câu hỏi này. Ngài bảo : Theo như các vị , thì các pháp đã có
định tánh rồi , cần gì phải nhân nơi Bồ đề để có Phật ; hay
ngược lại , nhân nơi Phật đạo để có Bồ đề, vì hai định tánh này
là hai định tánh của riêng chính nó . Cho dù chúng ta có nổ lực
tinh cần tu hành đến muôn kiếp đi nữa , mà trước kia chúng ta
không có tánh Phật, thì làm sao hiện tại có thể thành Phật được
? Cũng như thiếc không có tánh vàng , dù dùng đủ mọi cách để rèn
dũa nung đúc , cuối cùng cũng không thành vàng .
Lại nữa , nếu các pháp đã có định tánh mà không phải
không , thì rốt cùng cũng không có người tạo ra tội phước , vì
tánh tội phước đã quyết định trước rồi , kể cả hành động tạo tác
và người tạo tác cũng không . Do đó , dù chúng ta có ở trong
nhân duyên tội phước mà vẫn không có quả báo, và quả báo có thể
có được khi lìa xa nhân duyên tội phước đi nữa , thì quả báo vẫn
không cần đợi có nhân mới xuất hiện .
-
Lại nữa , lìa tội
phước có thể không có quả báo thiện ác , nhưng từ tội phước thì
có quả báo thiện ác ?
-
Để trả lời
nạn vấn này, ngài Long Thọ bảo dù có lìa tội phước hay không lìa
tội phước , có quả báo hay không có quả báo, thì tất cả đều rơi
vào lỗi có-không như đã nói ở trước .
-
Lại nữa ,
nếu các nhà Tiểu thừa vì không nắm bắt được nghĩa Không và nhân
duyên của nó nên có những quan điểm sai lầm như vậy, thì đã vô
tình phá Đệ nhất nghĩa Không . Đệ nhất nghĩa Không mà bị phá ,
tức là phá tất cả pháp thế tục .
Hơn nữa , nếu chúng ta quan niệm tất cả các pháp-hữu
đều có định tánh của chúng , thì theo đó, các hiện tướng có được
trên thế gian này đều không thể sanh ra và không thể diệt mất ,
mà chúng phải luôn luôn thường trụ ,vĩnh viễn không biến mất .
Vì chúng đã có thật tánh của chúng rồi , nên không thể biến khác
được. Nhưng muôn vật giữa thế gian này, hiện bày ra trước mắt
chúng ta , luôn luôn ở trong chiều hướng sanh diệt , biến dịch
trong từng sát na một , trong từng hơi thở. Những hiện tướng này
luôn tùy thuộc vào các duyên hợp-biến mà hiện khởi . Vì vậy,
chúng không có định tánh . Nếu chúng đã có định tánh thì như
chúng ta đã biết : một là thường, hai là đoạn diệt . Do vậy, nếu
không có cái KHÔNG ( Sùnyatà) thì những việc này có thể xảy ra
đối với chúng ta : chưa được không cần được - phiền não cũng
không đoạn - việc khổ cũng không hết .
-
Để kết luận
phẩm Tứ đế này , ngài Long Thọ đã dẫn lời dạy của đức Phật trong
kinh :
-
Cho nên trong kinh
nói
-
Nếu thấy pháp nhân
duyên
-
Thời có thể thấy Phật
-
Thấy Khổ -Tập -Diệt
-Đạo .
-
Ở đây, nếu người nào
thấy tất cả pháp từ các duyên sanh ra , thì người này có thể
thấy được pháp thân của đức Phật, tăng trưởng trí tuệ đạt mọi
lợi ích, và có thể thấy được Khổ-Tập-Diệt-Đạo của Tứ thánh đế.
Vì thấy được Tứ thánh đế cho nên đạt được Tứ quả , diệt trừ tất
cả mọi phiền não. Bởi vậy, chúng ta cần phải thấu đạt nghĩa
KHÔNG này, nếu không sẽ đi vào con đường vô minh tà kiến như các
nhà Tiểu thừa vấp phải. Ai phá nghĩa KHÔNG tức là phá pháp nhân
duyên , phá pháp nhân duyên tức là phá Tam bảo. Nếu phá Tam bảo
tức là chính mình tự phá mình .
-
Sài Gòn Việt
Nam
- --o0o--
|
|