|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Lý Nhân Quả
- Phúc
Trung
-
--o0o--
-
-
I.- Định
nghĩa :
Nhân là nguyên nhân, quả là kết quả. Nhân là công năng phát
động, quả là sự hình thành của năng lực phát động ấy. Nhân quả
là một định luật tất nhiên, nêu rõ sự tương quan, tương duyên
giữa nhân và quả, phàm hể có một nguyên nhân tác động, tất nhiên
có kết quả hình thành. Do đó người ta thường nói trồng ớt thì
được ớt, trồng đậu thì được đậu.
-
II.-
Những đặc điểm về nhân quả :
-
1) Nhân
quả là một định luật hiện thật :
Định luật nhân quả do đức Phật chỉ bày trên 2500 năm trước, sau
nầy Khoa học cũng thừa nhận, áp dụng một phần định luật nhân quả
trong các ngành của khoa học.
-
2) Nhân
quả chi phối tất cả :
Mọi sự vật " có " đều là kết quả của nhân, cho nên nhân quả chi
phối tất cả.
-
3) Nhân
quả là một định luật rất phức tạp :
Nhân đã có thì quả phải thành nhưng đi từ nhân đến quả còn phải
có duyên, nếu duyên thay đổi thì quả phải thay đổi ít nhiều,
cũng đồng thời trồng một giống lúa mà chỗ thời trúng, chỗ thời
thất, chỗ hột to, chỗ hột nhỏ, chỗ lúa mọc, chỗ lúa không mọc
... Định luật nhân quả rất phức tạp.
-
III.- Sự tương quan
giữa nhân và quả :
-
1) Một
nhân không thể sanh ra quả :
Một sự vật trong vũ
trụ do nhiều nhân duyên hình thành, cho nên không có một nhân
nào tự nó có thể tác thành kết quả được nếu không có những nhân
khác hổ trợ.
-
2) Nhân
nào quả nấy :
Chúng ta biết rằng trồng ớt thì được ớt chớ không thể trồng ớt
mà được đậu, một người làm lành sẽ gặp lành, làm dữ sẽ gặp dữ.
-
3) Trong
nhân có quả, trong quả có nhân :
Nhân quả là một chuỗi dài, quả hôm nay có là do nhân đã gieo từ
trước và quả hôm nay cũng vừa là nhân của quả ở vị lai. Ví dụ:
Anh A giàu có, đang làm phước, cứu giúp những người nghèo khó,
gặp cảnh nạn tai. Vậy anh A hiện nay đang giàu có là quả của
nhân kiếp trước bố thí, cúng dường Tam bảo. Kiếp nầy anh lại làm
phước cũng là nhân để có quả giàu có cho kiếp sau.
-
4) Nhân
có năng lực tạo thành hình tướng :
Có gỗ, đinh ( nhân ), cưa, búa, đục, công thợ ( duyên ) làm ra
bàn ghế, đến khi gỗ hay đinh mục bàn ghế hư hõng làm củi chụm
lửa hay ném bỏ. Như vậy nhân không còn thì sự vật tan rã theo
luật khác: thành, trụ, hoại, không.
-
IV.- Sự liên lạc giữa
nhân và quả :
-
1) Nhân
quả đồng thời :
Nhân vừa phát khởi, quả đi liền theo, như đánh chuông liền nghe
tiếng, như vậy quả theo liền với nhân chớ không đợi thời gian
lâu.
-
2) Nhân
quả trong hiện tại :
Chúng ta tạo nhân trong đời nầy thì kết quả cũng trong đời nầy,
chẳng hạn như trồng cây dừa ta được dừa có trái, trong đời người
ta ăn ở hiền thì gặp việc lành, ở ác gặp việc dữ.
-
3) Nhân
quả nhiều đời :
Nhân tạo từ đời trước hay những đời trước, đời nầy đủ thuận
duyên mới có kết quả, nhân tạo trong đời nầy chưa đủ thuận duyên
chưa có kết quả trong hiện tại, sẽ có kết quả ở kiếp sau. Có
người ăn hiền ở lành, luôn luôn gặp dữ, việc dữ ấy là do nhân đã
gieo từ nhiều kiếp trước nay có đủ duyên thành kết quả, còn việc
ăn ở hiền lành trong kiếp nầy chưa có đủ duyên hay còn phải bị
trả những quả của kiếp trước rồi những kiếp sau mới gặt được
kết quả do kiếp nầy gieo, cho nên nhìn nhân quả theo khía cạnh
tức thời, không thể giải thích được luật nhân quả phức tạp như
thế.
-
V.- Những thí dụ về
nhân quả : Nhân quả là sự thật, tất nhiên mọi sự vật không ra
khỏi định luật nhân quả.
-
1) Nhân quả nơi hiện
cảnh : Nắng lâu ngày thành hạn hán, cây cỏ thiếu nước sẽ tàn úa,
chết. Mưa lâu ngày có nhiều nước sẽ thành nước lũ, ngập lụt.
-
2) Nhân quả nơi tự
thân : Thân thể là sự kết hợp của các tế bào, bốn đại và năm
uẩn, người khoẻ mạnh do ăn ở theo phép vệ sinh, điều độ.
-
3) Nhân quả nơi tự
tâm : Trí thức con người cũng chịu sự chi phối của định luật
nhân quả, suy tư điều lành thì tâm tánh thuần thục, suy nghĩ
điều ác thì trí tưởng thấp hèn, học hành thì trí tuệ mở mang.
-
VI.- Sự ứng dụng lý
nhân quả : Hiểu được định luật nhân quả, cố gắng thực hành theo
thì có nhiều lợi ích :
-
1) Lý nhân quả làm
cho chúng ta thấy sự thật : Đức Phật dạy cho người Phật tử biết
định luật nhân quả để hiểu rỏ sự tương quan giữa nhân và quả nhờ
vậy chúng ta biết được sự thật không có sự vật nào có mà không
do nhân tạo ra, nhân đã tạo ra không sớm thì chầy phải có kết
quả không thể sai khác được.
-
2) Hiểu rõ định luật
nhân quả, tránh mê tín dị đoan. Không tin nơi thần quyền : Định
luật nhân quả nói rõ, hể gieo nhân thì có quả, những hoàn cảnh
tốt, xấu xãy ra cho bản thân hay gia đình ta không do Phật hay
một đấng thần quyền nào ban phước và giáng họa được, tất cả đều
do ta gieo nhân từ trước hiện tại chỉ là kết quả của nhân đó.
-
3) Người hiểu lý nhân
quả không chán nản, trách móc : Hiểu rõ lý nhân quả rồi, gặp
những hoàn cảnh trái ngang, khổ đau chúng ta không chán nản,
trách móc, trái lại chúng ta hiểu rằng mình đã gieo nhân nay
phải gặt quả, không trốn tránh.
-
4) Người hiểu lý nhân
quả luôn luôn ăn ở hiền lành : Hiểu được nhân quả, tin được lời
Phật dạy rồi, người Phật tử quyết chỉ làm lành, tu nhân, tích
đức mà thôi dù có gặp phải hoàn cảnh khó khăn nào.
-
VII.- Quyết Nghi :
Nhiều trường hợp xảy ra, thấy có vẻ trái ngược, người ta không
thật tin vào định luật nhân quả. Chẳng hạn như :
-
1) Tại sao người ăn
hiền ở lành gặp dữ, kẻ ăn ở độc ác gặp lành : Ở đời người ta
thường lấy những trường hợp nầy ra để so sánh, thật ra nhân quả
có khi xảy ra đồng thời, có khi chẳng xảy ra đồng thời. Đời
trước gieo nhân đời nầy mới thuận duyên có kết quả, đời nầy đã
gieo nhân mà chưa đủ thuận duyên nên chưa có kết quả, cho nên kẻ
ăn hiền ở lành cững như kẻ hung dữ đã gieo nhân nhưng mà duyên
chưa đủ nên quả chưa tới. Người ta cũng vẫn thấy kẻ làm dữ gặp
dữ, kẻ tu nhân tích đức luôn luôn gặp lành.
-
Khoảng năm 1970, gần
châu thành Long An, khu mộ Nguyễn Huỳnh Đức, có một anh lính, là
con bất hiếu, rượu chè be bét. Một hôm say rượu, về nhà tìm
người mẹ già, bà ta nghèo mà còn phải nuôi con dại của anh ta,
bảo mẹ đưa tiền cho anh ta mua rượu uống, bà mẹ không có tiền
đưa, anh ta xách dao rượt mẹ, trời đang mưa, bà mẹ chạy băng qua
cánh đồng, anh ta rượt theo, " trời trồng " anh ta ở thế đang
cầm dao rượt mẹ. Người ta không thể nào hạ anh ta nằm xuống,
đành phải xây mộ đứng, âu cũng là để làm gương cho những kẻ bất
hiếu, hung tàn, bạo ngược ở đời nay. Báo chí Sàigòn thời đó có
đăng tin nầy.
-
Người xưa có câu :
-
Thiện ác đáo đầu
chung hữu báo,
-
Chỉ tranh lai tảo dữ
lai trì.
-
Nghĩa là : Việc lành
hay việc dữ đều có quả báo, chỉ khác nhau đến sớm hay muộn mà
thôi.
-
2) Có những việc :
Tại sao cha làm con chịu hay con làm cha chịu liên can ? Theo
Phật dạy thì nghiệp báo có hai thứ : Biệt nghiệp và cọng nghiệp.
Biệt nghiệp là nghiệp riêng của từng người, như kẻ giàu, người
nghèo ... Còn cọng nghiệp là nghiệp chung của mọi người, chẳng
hạn như nhiều người Việt nam đã phải rời bỏ quê hương để ra nước
ngoài sau năm 1975. Cho nên sách có câu :
-
Nhất nhơn tác phước,
thiên nhơn hưởng,
-
Độc thọ khai hoa, vạn
thọ hương.
-
Nghĩa là : Một người
làm phước, ngàn người được hưởng, một cây trổ hoa nghìn cây được
thơm lây.
-
VIII.-Kết luận : Lý
nhân quả là một định lý tất nhiên, mọi sự vật cấu thành, mọi
hoàn cảnh phước, họa, sang, hèn, vinh, nhục đều do nhân quả mà
ra, hiểu rõ nhân quả để chúng ta gắng tu học, ăn hiền ở lành,
gieo nhân tích đức, chẳng những cho mình cho còn cho con cháu
mình hưởng, chúng ta phải tinh tấn làm theo lời Phật dạy :
-
Chư ác mạc tác,
-
Chúng thiện phụng
hành,
-
Tự tịnh kỳ ý,
-
Thị chư Phật giáo.
-
Nghĩa là :
-
Đừng làm các điều ác,
-
Các điều thiện nguyện
làm,
-
Tự thanh tịnh ý mình,
-
Ấy lời chư Phật dạy.
-
Ngày ngày tinh tấn
trong tu học, được như vậy, chúng ta đang đi nhanh trên con
đường giải thoát, làm cho tốt đạo đẹp đời, phải có lòng tin vững
mạnh nơi lý nhân quả.
-
Louisville, 28-9-1996
-
Sách
tham khảo :
-
Minh châu, thiên ân,
chơn trí, đức tâm Phật Pháp Tổng Hội Phật Giáo Việt Nam xuất
bản, Sàigòn, 1951.
-
Thích Thiện Hoa, Phật
Học Phổ Thông THPGTP HCM, Việt
Nam,
1989.
- --o0o--
|
|