|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Thiện
Ác Nghiệp Báo
- Phúc
Trung
-
--o0o--
-
-
I.- Dẫn :
Mỗi ý nghĩ, hành động, lời nói của chúng ta đều gây ra nghiệp
lành, dữ và nghiệp ấy sẽ tạo ra quả báo cho hiện tại hay tương
lai.
-
Nghiệp dẫn
chúng sanh trong luân hồi, nghiệp tạo cho con người có những
hoàn cảnh khác nhau: Kẻ giàu, người nghèo, kẻ sang, người hèn...
cho nên hiểu được thiện ác, nghiệp báo chúng ta sẽ củng cố được
niềm tin của mình vững chắc hơn, nhờ đó việc tu học để giải
thoát càng thêm tinh tấn.
-
II.- Định nghĩa Thiện
Ác Nghiệp Báo :
-
Thiện : Có nghĩa là lành, là
tốt, là việc phải, hợp lý có lợi cho mình và cho người ở hiện
tại cũng như tương lai. ٣ : Có nghĩa là dữ, là xấu, là việc
quấy, trái lý có hại cho mình và cho người ở hiện tại cũng như
tương lai. Nghiệp : Là những tạo tác ở ý nghĩ, hành động, lời
nói gây ra hậu quả cho tự thân và hoàn cảnh trong tương lai. Báo
: Là quả báo, là kết quả do nghiệp đã tạo ra.
-
Vậy Thiện Ác Nghiệp
Báo là kết quả báo ứng những việc lành, việc dữ do tự thân mình
gây ra và mình phải gánh chịu với hoàn cảnh chung quanh. Nghĩa
là người làm việc lành sẽ hưởng quả lành, làm việc ác sẽ chịu
quả ác; ví như trồng đậu, được đậu, trồng ớt được ớt vậy.
-
III.- Nghĩa của
Thiện, Ác :
-
Nghĩa của
thiện ác không rõ ràng, nó thay đổi tùy nơi, tùy chỗ, tùy hoàn
cảnh cho nên chúng ta cần hiểu cho được rõ ràng.
-
A) Thiện Ác theo thế gian :
-
1) Thiện ác theo phong tục :
Chẳng hạn như trong gia đình có giỗ ông bà, cha mẹ người ta quan
niệm phải giết hại heo, gà, vịt để nấu nướng cúng mâm to, cỗ
đầy, thết tiệc đãi khách linh đình, người ta cho rằng làm như
vậy là con cháu có HIẾU. Tây phương không cúng kiếng người chết.
Ở Phi Châu có bộ lạc, theo phong tục cha mẹ già chết, con cháu
lấy thịt cha mẹ ăn là thương mến cha mẹ, là việc làm tốt, việc
làm nầy chúng ta sẽ lên án gắt gao, chẳng những bất hiếu mà còn
vô nhân đạo, kém văn minh. Cho nên theo phong tục cùng một việc
làm mà nơi cho nên nơi cho không nên, nơi cho là tốt, nơi cho là
xấu.
-
2) Thiện ác theo luật pháp :
Luật pháp đặt ra luật cũng thay đổi tùy theo quốc gia, nhằm mục
đích làm cho quốc gia ấy được an ninh, bờ cõi được bảo vệ. Có
nên có khi luật lệ đặt ra có lợI cho nước mình thì sẽ có hại cho
nước khác, làm cho được an ninh, bảo vệ chế độ chánh trị của kẻ
cầm quyền thì có hại cho những người khác. Cho nên thiệc ác theo
luật pháp chưa hẳn hoàn toàn đúng.
-
3) Thiện ác theo thần quyền : Nhiều người tin tưởng,
thờ phụng một vị thần, cho rằng vị ấy sáng tạo ra vũ trụ, hoặc
cai quản con người, hoặc có quyền ban phúc giáng họa, phải làm
theo lời vị ấy dạy bảo là đúng, giết hại sinh vật để cúng kiếng
vị ấy là phải ...trong khi ở Ấn độ, có đạo người ta không dám
đụng tới con bò, đừng nói đến giết hại nó. Cho nên thiện ác theo
đạo giáo cũng chỉ là tương đối mà thôi.
-
B) Thiện ác theo đạo Phật :
-
Theo đạo Phật, thiện
là những việc hợp với lẽ phải, có lợi cho mình và cho người ở
hiện tại cũng như trong tương lai, ?#224; những việc trái với lẽ
phải, có hại cho mình và cho người ở hiện tại cũng như trong
tương lai. Theo thế gian pháp và xuất thế gian pháp có thể chia
thành ba loại : Hữu lậu thiện, hữu lậu ác và vô lậu thiện.
-
1) Hữu lậu thiện : Những
việc làm lành, khi làm còn để tâm mong cầu, cho nên còn phải ở
trong luân hồi để hưởng quả báo lành, không được giải thoát. Hữu
lậu thiện có hai loại : Một là Chỉ thiện tức là dừng nghỉ, không
làm việc ác như không làm Năm điều trái nghịch: Giết cha, giết
mẹ, giết các vị A-la-hán, phá hòa hiệp Tăng, làm chảy máu thân
Phật, và không làm 10 điều ác: Sát sanh, trộm cắp, tà dâm, nói
dối, nói hai chiều, nói lời độc ác, nói thêu dệt, tham, sân, si.
Hai là Tác thiện nhĩa là làm mười điều lành: Phóng sanh, bố thí,
tịnh hạnh, nói lời chân thật, nói lời phân giải, nói lời dịu
ngọt, nói lời ngay thẳng, từ bi, nhẫn nhục, suy nghĩ chánh lý.
-
2) Hữu lậu ác :
Là những việc ác, khiến cho người ta phải chịu quả báo trong lục
đạo. Việc ác tuy nhiều nhưng có thể tóm gọn trong 5 tội trái
nghịch và mười điều ác nêu trên.
-
3)Vô lậu thiện : Là những việc thiện mà người làm
không có chủ tâm, không mong cầu nên không có quả báo trong lục
đạo, khỏi chịu luân hồi, đây là những việc làm của hàng Bồ Tát
hay Phật, như trong Kinh Kim Cang Phật dạy: Tu Bồ Đề ! Các vị
Đại Bồ Tát phải độ tất cả các loại chúng sanh đều được nhập Niết
Bàn. Bồ Tát tuy độ vô lượng vô số chúng sanh như vậy, nhưng
không thấy có chúng sanh nào được độ. Tại sao vậy ? Nếu Bồ Tát
còn thấy có mình độ và chúng sanh được độ, tức là Bồ Tát còn
chấp bốn tướng ( tướng ngã, tướng nhân, tướng chúng sanh, tướng
thọ giả ) thì không phải là Bồ Tát.
-
Chúng ta
nhớ rằng, vua Lương Võ Đế, thâm tín đạo Phật, từng đăng đàn
thuyết pháp, vậy mà khi gặp sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma ông hỏi :
-
- Một đời trẫm cất
chùa độ, sãi, bố thí, làm chay có công đức gì không ?
-
Sơ tổ trả
lời : ? không ? , bởi vì vua là người đã có nhiều phước báo rồi,
nay cần làm những việc vô lậu thiện, làm mà không mong cầu,
không nghĩ đến mình có làm, không nghĩ đến kết quả công việc
mình đã làm; còn hỏi đến tức là còn nhớ tới, còn nghĩ về kết
quả, chưa phải là việc làm của Bồ tát hạnh.
-
IV.- Nghĩa chữ
Nghiệp :
-
A) Định danh : Tiếng Phạn là
KARMA, ngườI Trung Hoa dịch là tạo tác, là những tác động của
thân, miệng, ý tạo thành sức mạnh gây ra hậu quả cho tự thân và
hoàn cảnh.
-
B) Các món nghiệp : Về nguyên nhân tạo ra nghiệp có
ba thứ : thân nghiệp là những nghiệp do hành động của mình tạo
ra, khẩu nghiệp là những nghiệp do lời nói mình thốt ra, còn ý
nghiệp là những nghiệp do tư tưởng mình nghĩ đến.
-
Nghiệp lại
còn có hữu lậu nghiệp là nghiệp làm cho con người phải trôi lăn
trong sinh tử luân hồi, bất động nghiệp là nghiệp của hàng chư
Thiên ở cõi sắc giới và vô sắc giới thiên, tâm thường định, tu
theo sức định mà thọ quả trên cõi trời, quyết không biến động,
bất tư nghì nghiệp là nghiệp của những vị thấy rõ chân tâm,
không vướng vào nghiệp nào, mà còn có thể hóa thân trong vô số
nghiệp không thể nghĩ bàn được, để hóa độ chúng sanh.
-
Lại có
những nghiệp dẫn dắt chúng sanh chịu quả báo vào loài nào đó,
vào một giống dân nào đó, dẫn phát để chịu nghiệp nhân của quả
báo chung gọi là dẫn nghiệp, tuy là cùng người ở trong khu vực
nhưng giàu nghèo, sang hèn, tánh tình sai khác nhau đó là thành
mãn cái nghiệp nhân của quả báo riêng từng cá nhân, nên gọi là
mãn nghiệp.
-
C) Sức mạnh của nghiệp : Nghiệp do tạo tác và huân
tập thành sức mạnh chi phối mọi hoàn cảnh và mọi người.
-
1) Hành
động, tánh tình con người đều do nghiệp chi phối : Tánh tình,
hoàn cảnh của mỗi người không phải tự nhiên mà có như vậy, chúng
có do nghiệp nhân từ những kiếp trước đã tạo ra.
-
2) Hoàn
cảnh của dân tộc hay một người cũng do nghiệp tạo ra: Một dân
tộc giàu hay nghèo, khổ đau hay sung sướng hơn các dân tộc khác,
đó là do nghiệp chung của mọi người trong nước đó, còn gọi là
cộng nghiệp và mỗi người còn có nghiệp riêng của mình còn gọi là
biệt nghiệp.
-
3) Nghiệp
lực chi phối sự đi đầu thai : Sau khi con người chết rồi phải
tái sanh lại để nhận quả báo do mình làm ra trong nhiều đời
nhiều kiếp trước, chính những tạo tác của ta làm cho chúng ta
phải chịu luân hồi dể hưởng quả báo lành hay phải chịu quả báo
dữ, do đó mà con người phải chịu luân hồi mãi mãi. Có bốn thứ
nghiệp dẫn con người đi đầu thai: Tích lũy nghiệp là những
nghiệp có từ kiếp nọ sang kiếp kia chồng chất lại, tạp quán
nghiệp là nghiệp do tạp quán tạo ra trong một đời, cực trọng
nghiệp là những nghiệp đặc biệt chi phối mạnh mẻ hơn những
nghiệp khác, cận tử nghiệp là những nghiệp gây ra lúc gần chết,
như thương vợ con, oán hận người nào ... Một trong bốn nghiệp
nầy, nghiệp nào mạnh sẽ chi phối người ta đầu thai theo nó.
-
V.- Nghĩa chữ quả báo
:
-
A) Định danh : Quả báo là kết quả báo ứng của các
nghiệp nhân đã tạo ra, chẳng hạn làm lành là nghiệp nhân, được
hưởng điều lành là kết quả báo ứng.
-
1) Các món quả báo :
Có hai thứ quả báo : Chanh báo và y báo.
-
a) Chánh
báo : Kết quả báo ứng về tự thân do nghiệp chi phối riêng
cho từng người như tánh tình, hình dạng.
-
b) Y báo
: Kết quả báo ứng qua hoàn cảnh của của từng ngườI hay dân
tộc, chẳng hạn như trong gia đình, khu vực, một nước giàu nghèo
khác biệt.
-
2) Thời gian trong quả báo :
Những hành động, lời
nói, ý nghĩ con người đôi khi có quả báo ngay trong kiếp nầy gọi
là hiện báo, có khi nghiệp nhân gây ở kiếp nầy sẽ có quả báo ở
kiếp liền sau, hoặc nghiệp nhân mới gây ở kiếp trước, nay có quả
báo ở kiếp nầy, nhân quả đi liền theo nhau từ kiếp nọ sang kiếp
kia gọi là sanh báo, nhưng lại có những nghiệp nhân tạo tác phải
trải qua nhiều kiếp, mới có đủ trợ duyên làm thành quả báo gọi
là hậu báo. Chia chẻ thời gian như thế để cho dễ hiểu, lý giải
tại sao có kẻ làm ác gặt ác, có kẻ cả đời làm lành lại gặp toàn
là ác, đó là do nghiệp nhân tạo tác và kết quả báo ứng tu còn
tùy nhân duyên.
-
3) Quả báo với ảnh hưởng của tự tâm :
Quả báo do nghiệp gây ra có thể chia thành 2 loại : Chẳng hạn
hạn như một người cố tâm bắn chết một con vật vì thù ghét nó, vì
nó là miếng thịt để ăn ... sẽ có quả báo sau nầy, đó gọi là quả
báo tự tâm , còn con vật kia vô tình bị giết chết, trải qua kiếp
nào đó, nó sẽ giết lại người đã giết nó ở tiền kiếp, đó gọi là
quả báo đối dải. Về đối đải do nhân kiếp trước đã có, tất nhiên
kiếp sau có kết quả báo ứng, còn về tự tâm, một hành động có
những sai khác về kết quả báo ứng. Vì một hành động có khi vô
tâm, có khi hữu tâm.
-
a) Vô tâm :
Một người lỡ đạp chết một con côn trùng, đó là hành động vô tâm,
không có quả báo tự tâm, nhưng quả báo đối đãi vẫn có. Chẳng hạn
ở nhà quê, có khi ngườI ta làm gà, làm vịt, trước khi làm họ
khấn: - Ngươi dược hóa kiếp nầy, cầu cho ngươi kiếp sau đừng
sanh làm con gà, con vịt phải bị người ta giết để ăn thịt. Dù có
tâm thiện như thế nhưng quả báo đối đải không thể tránh khỏi.
Một người ăn hiền ở lành, luôn luôn làm lành mà không nghĩ tới
việc mình làm thì quả báo về tự tâm rất to lớn. Trái lại một
người rất độc ác, dù cho việc làm ác của họ có vô tâm thì quả
báo về tự tâm cũng to lớn, vì tâm họ luôn luôn có ác tâm.
-
b) Hữu tâm :
Một người làm việc thiện để mong cầu danh lợi, thì quả báo đối
đải vẫn có nhưng những việc làm nầy về tự tâm bị huân tập về
đường ác, trái lại một vị quan tòa vì lẽ công bằng theo pháp
luật, kết án tử tội hay một người Cảnh sát vì an ninh trật tự
phải lùng bắt, giam giữ tội nhân thì đây vẫn là những việc làm
về tự tâm được huân tập về đường thiện.
-
Có người
tin nhân quả, cố ý làm việc thiện, việc làm sẽ huân tập về
thiện, một người vì thù hiềm, vì danh lợi, cố ý làm điều ác thì
chỗ huân tập về tự tâm rất nặng về đường dữ.
-
Khi làm
việc lành dữ, tâm sanh vui mừng, muốn làm thêm nữa thì chỗ huân
tập tự tâm việc lành dữ ấy tăng thêm hơn nhiều lắm.
-
V.- Sự liên lạc giữa
nghiệp nhân thiệc ác và quả báo thiện ác.
-
A) Lý thiện ác quả báo nằm trong Lý nhân quả :
Chúng ta đã biết về nhân quả, đã gieo nhân thì tất nhiên phải có
quả, cho nên Thiện ác quả báo là một định luật, là một chi tiết
của Lý Nhân Quả.
-
B) Con người vẫn có quyền và có thể thay đổi quả báo của
mình : Khi
mình biết đã làm việc dữ, việc ác, nếu mình biết ăn năn, sám hối
thì quả báo của những nghiệp ác đó có thể thay đổi,chẳng hạn
trong kinh có dạy: ? Tội từ tâm khởi đem tâm sám, tâm đã sám rồi
tội liền tiêu, tội tiêu tâm tịnh thảy đều không, ấy mới thật là
chơn sám hối ?. Hoặc làm những điều thiện đối lại, thì quả báo
ác cũng tiêu tan, chẳng hạn như chuyện Thủ Huồng ở Cù lao Phố,
Biên Hòa, Việt Nam ( có đăng trong Phật Học số 27, bài Lý Luân
Hồi )
-
V.- Kết luận :
-
Lý thiện ác
nghiệp báo cho chúng ta thấy rằng mỗi người chúng ta đều phải
chịu trách nhiệm về những gì mình tạo tác nơi thân, khẩu và ý.
Những tạo tác nầy gây thành nghiệp nhân có hậu quả trong hiện
tại hoặc vị lai, cho nên cá tánh, hoàn cảnh của mỗi người hay
một dân tộc đều do nghiệp nhân của quá khứ tạo ra.
-
Người ta có
thể thay đổi quả báo bằng cách tu tâm dưỡng tánh, ăn năn hối cải
những việc dữ đã làm, tránh vấp phải trong tương lai, chí tâm
làm những việc thiện.
-
Hiểu rõ Lý
thiện ác quả báo, người tu Phật chẳng những tạo những Hữu lậu
thiện nghiệp mà còn phải tiến lên tạo Vô lậu thiện nghiệp, đó
mới chính là con đường tu giải thoát vậy.
-
Sách
tham khảo :
MINH CHÂU, THIÊN ÂN, CHƠN TRÍ, ĐỨC TÂM Phật Pháp, THPGVN,
Sàigòn, 1951
-
THÍCH
THIỆN HOA, Phật Học Phổ Thông, THPGTPHCM, Việt Nam, 1989
- --o0o--
|
|