|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Ý
NGHĨA KINH NHẬT TỤNG
- Phúc
Trung
-
--o0o--
-
-
I - DẪN
: Kinh có
nghĩa là lời của Phật, Bồ Tát hay chư Tổ dạy cho đệ tử được ghi
chép lại, những lời này là Chân Lý không thể thay đổi, hợp với
trình độ mọi người. Kinh Nhật Tụng là kinh dùng để tụng hàng
ngày ở chùa cũng như ở tại gia của cư sĩ. Trước đây và ngày
nay, kinh Nhật Tụng gồm có các kinh: Công Phu Khuya (Chú Lăng
Nghiêm), Qúa Đường, Cúng Ngọ, An Vị Phật, Cúng Vong, Phóng Sanh,
Mông Sơn Thí Thực, Kinh Di Đà, Kinh Phổ Môn, Kinh Kim Cang, Hồng
Danh Sám Hối, Kinh Vu Lan.
-
Cư sĩ thường chỉ tụng
có Kinh Di Đà, Kinh Phổ Môn, Kinh Kim Cang, Hồng Danh Sám Hối.
Khi nào thọ Bát ở chùa mới tụng thời Công Phu Khuya. Ngoài ra
tại gia, Cư sĩ tụng kinh nào cũng tốt cả bởi vì khi tụng kinh
thì tam nghiệp thanh tịnh (hành động, lời nói, ý nghĩ), hiểu
được lời Phật dạy để thi hành cho đúng pháp. Có người tụng Kinh
Dược Sư, Kinh Địa Tạng nhưng có rất nhiều người tụng Diệu Pháp
Liên Hoa Kinh (Kinh Pháp Hoa).
-
II - Ý
NGHĨA KINH :
Trừ một số kinh dành riêng cho trong chùa tụng, những Kinh Cư Sĩ
thường tụng có ý nghĩa sau:
-
1) KINH
A DI ĐÀ :
Kinh này Phật giảng cho Ông Xá Lợi Phất và những vị khác tại
nước Xá Vệ, nơi vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc. Phật ca ngợi cảnh Tây
Phương do Đức Phật A Di Đà làm giáo chủ, ai muốn sanh về cõi
nước này thì nên phát nguyện, khi đã sanh về cõi này rồi thì
không còn thối chuyển, người nào được sanh về cõi này, thấy mình
ở trong hoa sen nở ra, mình ngồi ở trong hoa sen đó. Nếu có ai
niệm danh hiệu Đức A Di Đà tu 1 đến 7 ngày, tâm không bị lọan
động, khi chết sẽ có Phật A Di Đà, Đức Quán Thế Âm, Đức Đại Thế
Chí hiện ra cho thấy, nếu trong lúc chết mà tâm không tán loạn
thì được sanh về cõi Phật A Di Đà, nơi đây hết sức sung sướng
nên còn có tên là cõi Cực Lạc, vỉ khi chưa thành Phật, Đức A Di
Đà có 48 lời nguyện, khi nào Ngài thành Phật, cõi đó phải được
như ngài nguyện vậy.
-
Pháp môn Tịnh Độ chỉ
niệm Nam Mô A Di Đà Phật khi đi, đứng, nằm, ngồi để cầu sau khi
chết, được sanh về cõi cực lạc. Khi tụng Kinh cho người chết,
để cầu cho người chết được sinh lên cõi cao hơn, gọi là cầu
siêu, tức là cầu cho sanh về cõi Cực Lạc và cũng để nhắc nhở lời
Phật dạy cho những người khác, muốn sanh về cõi cực lạc phải
niệm sáu chữ: " NAM MÔ A DI ĐÀ PHậT !".
-
2) KINH
PHỒ MÔN : Đây
chỉ là phẩm thứ 25, một trong 28 phẩm của Kinh Diệu Pháp Liên
Hoa. Phẩm này do Bồ Tát Vô Tận Ý hỏi Phật về Bồ Tát Quán Thế
Âm, Phật chỉ rõ Ngài là vị Bồ Tát hay quán sát thế gian, nghe ai
kêu cầu, Ngài liền đến cứu giúp, ban cho sự không sợ hãi, Ngài
hiện ra khắp nơi, biến hiện thành ra như mọi người để tùy trường
hợp mà cứu giúp. Ai muốn nhờ đến sự cứu giúp của Ngài thì hãy
niệm danh hiệu của Ngài như :" Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát" hay
"Nam Mô Đại Từ Đại Bi Linh cảm cứu khổ, cứu nạn Quán Thế Âm Bồ
Tát."
-
Gặp những khi hoạn
nạn, bệnh tật người ta thường hay tụng kinh Phổ Môn để cầu Đức
Quán Thế Âm cứu giúp cho được an lành, tai qua nạn khỏi nên gọi
là Cầu An.
-
3) HỔNG
DANH SÁM HỐI :
Kinh này có niệm đến 89 vị Phật, sám hối tất cả những tội lỗi
trong nhiều đời nhiều kiếp, những tội do mình làm, bảo người
khác làm, hay vui vẻ khi thấy người làm đều sám hối, những công
đức lành đều hồi hướng về ngôi vị chánh đẳng chánh giác.
-
Kinh này người ta
thường tụng vào những đêm 14 rạng Rằm hay đêm 30 rạng mồng một,
cứ mỗi danh hiệu Phật là lạy một lạy, nhờ tụng kinh này thường
xuyên, người ta sẽ bớt bao tội lỗi.
-
4) KINH
KIM CANG :
Kinh này vốn từ Kinh Đại Bát Nhã, Phật giảng trong 22 năm, tại 4
chỗ, gồm 16 hội, chép thành 600 quyển. Tóm tắt kinh Đại Bát Nhã
là Kinh Kim Cang Bát Nhã Ba La Mật gọi tắt là Kinh Kim Cang, rút
lại thành một bài là MA HA BÁT NHÃ BA LA MÂT ĐA TÂM KINH cũng
gọi là Bổ Khuyết Chân Kinh, chỉ còn 260 chữ.
-
Trong Kinh Kim Cang
Ngài Tu Bồ Đề hỏi Phật, nếu có người muốn đạt quả chánh đẳng,
chánh giác thì phải làm sao để: - Hàng phục vọng tâm và làm sao
để an trụ chơn tâm ? và lời Phật dạy có thể tóm tắt trong câu :
Đừng khởi vọng tâm trụ chấp nơi nào cả. Phật dạy không nên chấp
bất cứ thứ gì là thực có, ngay cả:
-
Nhược dĩ sắc kiến
ngã,
-
Dĩ âm thanh cầu ngã,
-
Thị nhơn hành tà đạo,
-
Bất năng kiến Như
Lai.
-
và cuối kinh Phật
dạy, nên xem các thứ trên đời như thế này:
-
Nhứt thiết hữu vi
pháp,
-
Như mộng huyễn, bào,
ảnh,
-
Như lộ, diệc như
điển,
-
Ưng tắc như thị quán.
-
Chúng tôi tạm dịch:
-
Phải quán làm sao cho
được thế này,
-
Bao gồm vạn vật ở
trần ai,
-
Tuồng như mộng ảo nhu
bọt ảnh,
-
Nhẹ tợ sương và tia
chớp trong mây.
-
Kinh này có sức chấp
phá cấp tốc các phiền não, phá chấp triệt để, nhanh chóng thành
bậc chánh giác.
-
4) KINH
KHÁC : Ngoài
các kinh trên trong kinh Nhật Tụng, có nhiều người tụng kinh
Pháp Hoa, đây là bộ kinh tối thượng thừa giáo hóa hàng Bồ Tát
thành Phật, Phật giảng kinh này trong 8 năm nói rõ đạo Phật chỉ
có một thừa đó là Phật thừa và chư Phật ra đời là để: Mở đường,
chỉ lối cho chúng sanh giác ngộ để nhập vào sự hiểu biết của
Phật. Trong kinh có 5000 vị đệ tử vì cống cao ngã mạn nên rời
khỏi pháp hội, những vị còn lại đều được Phật thọ ký thành Phật
sau này.
-
Phẩm Pháp Sư , Phật
dạy rằng sau nầy ai là Pháp Sư, người truyền bá Giáo lý của Phật
phải vào nhà Như Lai, Mặc áo Như Lai, Ngồi tòa Như Lai nghĩa là
phải đầy lòng Từ Bi, hết sức nhẫn nhục, xem tất cả các pháp đều
là KHÔNG.
-
Còn trong phẩm cuối
cùng thứ 28, Phẩm Phổ Hiền Bổ Tát Khuyến Phát, Đức Phật có dạy,
sau khi Ngài diệt độ, nếu ai muốn được kinh Pháp Hoa thỉ phải
đắc 4 pháp:
-
- Được chư Phật ủng
hộ.
-
- Nơi mình phải nảy
sanh căn lành, cội đức.
-
- Phải có lòng Chánh
định chắc quyết.
-
- Phải thấy mình có
quả vị Phật vì muốn cứu độ tất cả chúng sanh.
-
Còn kinh Công Phu
Khuya hay Chú Lăng Nghiêm, rút từ trong Kinh Lăng Nghiêm ra, đây
là Chú mà Phật đã sai Ngài Văn Thù đem đến cứu Ngài A Nan, khi
Ngài bị nàng Ma Đăng Già dùng thần chú của Ca Tỳ Ca La Tiên Phạm
Thiên làm hại. Kinh này có công năng Định Tâm, thường đọc Kinh
này hay trì Chú thì tai qua nạn khỏi, ma quái không xâm phạm,
chư thiên thường hộ trì, muốn điều chi tốt lành đều được thành
tựu. Vì công năng như thế nên các Chùa thời công phu đều tụng
kinh này.
-
III -
KẾT LUẬN : Khi
tụng kinh, chúng ta cần hiểu kinh nào có công năng ra sao ? Phật
dạy những gì, để tùy trường hợp mà ta tụng kinh, hay nói khác
hơn là hiểu cho được nghĩa của Kinh để tu tập, áp dụng vào đời
sống của người con Phật.
Ngày xưa chùa thường tụng kinh bằng chữ Hán, gọi là Kinh Chữ, ai
không biết chữ có thể nghe, đọc theo dần dần thuộc lòng nhưng
không thể nào biết rõ được ý nghĩa của Kinh. Ngày nay, kinh hầu
hết đều có dịch ra chữ quốc ngữ. Chúng ta tụng và phải để tâm
vào chăm chú vào thì sẽ hiểu hết ý nghĩa lời Phật dạy, theo đó
chúng ta tu, có như vậy mới thật là lợi ích cho chính bản thân
ta, và phần nào lợi ích cho những người chung quanh khi nghe ta
tụng Kinh Nghĩa nầy.
- --o0o--
|
|