|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Bốn Đế
- Phúc
Trung
-
--o0o--
-
-
I. -
Dẫn : Bốn đế,
Bốn thánh đế hay Tứ diệu đế là một bài Pháp đầu tiên, đức Phật
đã giảng dạy cho nhóm Kiều Trần Như, những người cùng tu khổ
hạnh với Phật trong nhiều năm trước, bài nầy đánh dấu đức Phật
đã chuyển bánh xe Pháp, tức là Ngài đem chân lý ra để giảng dạy
cho mọi người, ngõ hầu nhận thức được cuộc đời là khổ, cần phải
tu tập để gỉai thoát vĩnh viễn mọi nỗi khổ của con người.
-
II. -
Bốn đế : Thái
tử Tất Đạt Đa sau khi ra bốn cửa Đông, Tây, Nam, Bắc của thành
Ca Tỳ La Vệ, người đã nhận thức được sanh, lão, bệnh, tử đều là
khổ, con người không thể tránh được do lòng thương chúng sanh,
Ngài quyết từ bỏ cung vàng, điện ngọc, vợ đẹp, con ngoan chí
quyết đi tìm phương thức giải thoát sanh, lão, bệnh, tử đó. Khi
đã chứng ngộ được chân lý, Ngài mới chỉ cho người ta thấy cái
khổ, chỉ những nhân tố gây ra khổ, cho biết diệt được khổ thì sẽ
được quả vị an vui và Ngài chỉ cho con đường tu tập để giải
thoát khỏi khổ, tóm lại Bốn đế là : Khổ đế, Tập đế, Đạo đế và
Đạo đế.
-
1) Khổ đế :
Có người sẽ nghĩ rằng cuộc đời có chi là khổ ? Có người tự nhận
thấy mình chẳng có gì khổ cả, nhưng chúng ta thử nhìn xung
quanh, có biết bao nhiêu là cảnh khổ, người nghèo có cái khổ của
người nghèo, nguuời giàu có nỗi khổ của người giàu. Có thể chia
khổ làm 2 loại : Ba khổ hay Tám khổ
-
* Ba khổ
:
-
a) Khổ khổ : Sanh ra đời
làm thân người đã là khổ rồi, lại có những nỗi đắng cay cuộc đời
làm cho chúng ta khổ thêm.
-
b) Hành khổ : Những biến
dịch thời tiết ấm lạnh, đói rét cơ hàn, chiến tranh, thiên tai,
bảo lụt đều làm cho con người phải chịu khổ.
-
c) Hoại khổ : Những sự hư
hoại, cũng làm cho con người phải khổ, chẳng hạn thân ta vì sự
hư hoại làm cho con người đau yếu, bệnh tật, đều là khổ, có
những thứ chúng ta quý mà vì sự hủy hoại của nó làm cho chúng ta
luôn luôn khổ.
-
* Tám
khổ :
-
a) Sanh : Trong đời ai cũng
có nỗi khổ, cho nên nói sanh là khổ.
-
b) Lão : Già sức khỏe yếu
kém, hay bệnh tật, tai lảng, mắt kém, những thứ đó luôn làm cho
người già cảm thấy khổ đau.
-
c) Bệnh : Mọi bệnh tật đều làm cho người bệnh phải
chịu khổ đau.
-
d) Tử : Làm người ai cũng
ham sống sợ chết, chết phải bỏ sự nghiệp còn dang dỡ, bỏ người
thân yêu, bỏ của cải cho nên chết là nổi khổ lớn nhất cho con
người.
-
e) Cầu bất đắc khổ : Những
gì mình mong cầu như muốn có một căn nhà đẹp, một chiếc xe đẹp
.... mà không được, có những người muốn phụng dưỡng cha mẹ mà
không được, dạy dỗ con cái nên người mà không được, đều lao tâm,
khổ trí.
-
g) Ái biệt ly khổ : Những
cuộc chia ly với người thân như cuộc chia ly xa xứ cũng đã khổ,
lại còn nổi khổ nào hơn, nếu người thân của mình mất, đau khổ
nầy người ta diễn tả ruột đứt từng cơn.
-
h) Ngũ ấm xí thạnh khổ : Năm
ấm là Sắc ấm, Thọ ấm, Tưởng ấm, Hành ấm và Thức ấm là những thứ
làm cho con người chúng ta bị khổ.
-
i) Oán tắng hội khổ : Những thứ chúng ta ghét mà gặp
phải đã là khó chịu, con người với nhau mà đã ghét bỏ nhưng lại
ở gần nhau, thường gặp nhau đều là những hoàn cảnh gây đau khổ
cho chúng ta.
-
2) Tập đế :
Khổ hiện tại của mỗi người đều do nguyên nhân từ những kiếp
trước tạo thành, nó cột chặt và khiến ta phải gánh chịu những
quả báo, phiền não tuy có nhiều nhưng chia thành mười thứ:
-
* Những
phiền não có tánh chất nặng nề :
-
a) Tham : Ham muốn gây ra việc bất chánh.
-
b) Sân : Giận dữ, nóng nãy
thường hay làm bậy.
-
c) Si : mê muội, sai lầm
nông nỗi.
-
d) Mạn : Cống cao ngã mạn, cho mình hay giỏi hơn
người, từ đó làm những việc sai lầm.
-
g) Nghi : Nghi kỵ gây ra hiềm thù, hồ nghi nên khó
có chánh tín.
-
2) Những
nhận thức sai lầm :
-
a) Thân Kiến :
Chấp thân nầy có thật.
-
b) Biên kiến : Chấp có một
bên, không đúng sự thật.
-
c) Tà kiến : Thấy biết theo
đường tà, không đúng chánh lý.
-
d) Kiến thủ : Cố giữ cái
thấy, biết sai lầm của mình, không nhận ra chánh lý.
-
e) Giới cấm thủ : Tin tưởng và thực hành theo những
giới điều sai lầm.
-
3) Diệt đế
: Đức Phật chỉ cho thấy rằng chúng sinh cần phải diệt khổ, khi
đã diệt khổ tức là tâm luôn luôn an trú trong tịch tĩnh, thường
còn, giải thoát khỏi sanh tử luân hồi gọi là Niết Bàn. Cho nên
Niết Bàn có 3 đặc tính : 1) Không còn sanh lại. 2) Tâm thanh
tịnh vắng lặng. 3) Giải thoát mọi mê lầm, phiền não.
-
Quả vị Niết Bàn
có khác, những người chứng ngộ được Bốn đế nầy, thuộc hàng Thanh
Văn, có 4 quả vị thánh chứng :
-
a) Tu Đà Hoàn : Người Tàu
dịch là Dự Lưu có nghĩa là dự vào hàng thánh quả hay Nghịch Lưu
có nghĩa là đi ngược với những người không tu; những vị nầy đã
hiểu rõ Bốn đế.
-
b) Tư Đà Hàm : Người Tàu
dịch là Nhứt sanh nghĩa là còn một lần phải sanh vào cõi dục
giới.
-
c) A Na Hàm : Người Tàu dịch là Bất lai nghĩa là
không còn bị sanh trở lại vào dục giới nhưng nhân sanh vẫn còn.
-
d) A La Hán : Người Tàu dịch là bất sanh, quả vị
nầy là cứu cánh của tiểu thừa, đạt đến quảảvị nầy không còn sanh
tử trong ba giới ( dục giới, sắc giới và vô sắc giới ).
-
4) Đạo đế :
Là đường dẫn người ta đến cõi Niết Bàn, đây là Tám đường chánh (
Bát Chánh Đạo ) phải đi :
-
a) Chánh tri kiến : Những
điều tìm hiểu, thấy, biết theo đường chánh và giảng giải không
trái sự thật.
-
b) Chánh tư duy : Những gì suy tư phải là những
việc chánh đáng, không tà vạy, xấu xa, ác độc.
-
c) Chánh ngữ : Lời nói phải
ngay thẳng, ôn hòa, đúng giáo lý.
-
d) Chánh nghiệp : Hành động
phải chân chính, hữu ích cho mọi người, mọi loài.
-
e) Chánh mạng : Sanh hoạt,
nghề nghiệp phải chân chánh.
-
g) Chánh tinh tấn : Phải tiến trên đường tu hành.
-
h) Chánh niệm : Những nhớ
tưởng việc đã qua hay sắp đến chỉ để tâm đến những việc chân
chánh, những việc không chân chánh không nhớ, tưởng đến.
-
i) Chánh định : Định tâm theo phương pháp chân
chánh để trí huệ phát sinh.
-
Khổ và Tập
đế là nhân quả trong thế gian, Diệt và Đạo đế là nhân quả vượt
ngoài thế gian .
-
Đạo đế của
Bốn đế chỉ gồm có Tám đường chánh, như bước sơ cơ, là nền tảng
cho người mới bước vào đường tu. Thật ra thì con đường tu chính
yếu gồm có 37 phẩm trợ đạo, chia làm 7 loại : 1) Tứ niệm xứ (
quán thân bất tịnh, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã, quán
thọ thị khổ ). 2) Tứ chánh cần ( tinh tấn ngăn ngừa điều ác chưa
phát sinh, tin tấn dứt trừ những điều ác đã sinh, tinh tấn phát
triển những điều lành chưa sinh, tinh tấn phát triển những điều
lành đã sinh ). 3) Tứ như ý túc ( dục như ý túc, tinh tấn như ý
túc, nhất tâm như ý túc, quán như ý túc ). 4) Ngũ căn ( tín căn,
tấn căn, niệm căn, định căn, huệ căn ). 5) Ngũ lực (tín lực, tấn
lực, niệm lực, định lực, huệ lực ).7) Thất bồ đề phần ( trạch
pháp, tinh tấn, hỷ, khinh an, niệm, định, xả ). 8) Bát chánh đạo
( chánh tri kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh
mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định ).
-
III.-
KẾT : Bốn đế
là một bài giảng hết sức quan trọng, trước tiên nó đánh dấu bài
pháp khởi đầu của Phật, bánh xe pháp khởi đầu chuyển động, đối
với Phật tử nó cũng quan trọng vì đó là nhận thức cơ bản, thấy
được Bốn đế nầy là chân lý từ đó người Phật tử mới có thể tin
giáo lý của Phật, những điều thấy, biết được và cả những điều
không thể nghĩ bàn đều là chân lý, theo đó tu hành để đạt tới
từng chặng đường của Tam thừa ( Ba cổ xe ): Thinh Văn ( xe dê )
là những vị hiểu rõ và hành theo Bốn đế, đắc đạo thành La Hán và
nhập Niết Bàn; Duyên Giác ( xe hươu) là những vị tuân lời Phật
dạy, tu hành và diệt Mười hai nhân duyên đắc quả Duyên Giác,
nhập Niết Bàn; Bồ Tát ( xe trâu ) là những vị tuân lời Phật dạy
cầu được toàn giác, an lạc cho mình vừa tế độ chúng sanh qua Sáu
độ ( bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thuyền định và trí
tuệ ) thành Bồ Tát. Vượt lên trên hết chỉ là nhất thừa, ấy là
Phật thừa, quả vị cao tột mà mọi người trì chí công phu tu tập,
đều sẽ tới đó được.
-
Sách
tham khảo :
Hòa Thượng Thích Thiện Hoa Phật Học Phổ Thông, THPGTPHCM, Việt
Nam, 1989
- --o0o--
|
|