|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
- Niệm
Phật
- Phúc
Trung
-
--o0o--
-
-
I -
Dẫn nhập :
Phật Giáo có hai môn phái nhiều người biết, đó là Thiền Tông và
Tịnh Độ Tông. Pháp môn tu của Thiền Tông là ngồi thiền. Còn
pháp môn tu của Tịnh Độ Tông là Niệm Phật. Nói đến Niệm Phật,
người ta sẽ đạt câu hỏi do đâu mà niệm Phật? Niệm Phật có lợi
ích gì ? Phải niệm Phật njhư thế nào cho đúng ? Đặi loại đó là
những câu hỏi quan trọng, chúng ta cần phải biết qua, tránh
những sai lầm, cũng để chọn pháp môn tu học thích hợp với mình.
-
II -
Do đâu có pháp môn niệm Phật :
Có lẽ cũng nên dẫn một chuyện sau đây: Thái tử A Xà Thế là con
vua Tần Bà Sa La và hoàng hậu Vi Đề Hy, nghe lời xúi dục của Đề
Bà Đạt Đa, đoạt ngôi vua cha, còn Đề Bà Đạt Đa sẽ giết Đức Thích
Ca để lên ngôi vị Phật. A Xà Thế kiếp trước là một vị tu sĩ ở
trên núi, vua Tần Bà Sa La chưa có Thái Tử để nối ngôi, vua cầu
con, có vị đạo sĩ chỉ cho vua biét có vị tu sĩ ở trên núi kia,
sau khi mãn kiếp sẽ đầu thai thành thái tử. Nhà vua vì không
con, nóng lòng nên lên núi tìm gặp tu sĩ ấy, yêu cầu ông ta hóa
kiếp đi để vua sớm có hoàng tử, vị tu sĩ cho biét rằng 3 năm sau
ông mới mãn kiếp, nếu vua bức bách ông ta phải chết, ông ta e
rằng kiếp sau sẽ có mối thù và vua phải chịu quả báo. Vua Tần
Bà Sa La vẫn cương quyết bắt ông phải hóa kiếp sớm, ông tu sĩ ấy
phải tự tử rồi đầu thai thành Thái Tử A Xà Thế.
-
Nghe lời Đề Bà Đạt
Đa, A Xà Thế bắt vua cha nhốt trong ngục thất, không cho ăn uống
để phải chết đói, Hoàng hậu biết vậy, liền xin A Xà Thế cho vào
thăm, bà lén đắp thức ăn vào người, để vào ngục thất cho vua
ăn. A Xà Thế biét được vua cha vẫn còn sống nhờ thức ăn của mẹ,
ông liền hạ lệnh giam hoàng hậu. Trong lúc cực kỳ đau khổ đó,
hoàng hậu Vi Đề Hy tưởng niệm đến Đức Phật. Đức Phật liền hiện
ra giảng cho bà biết nhân qủa ngày trước vua Tần Bà Sa La đã bức
bách vị tu sĩ kia chết, nay phải chịu quả báo. Ba VI Đề Hy xin
Phật cứu độ bà ra khỏi cõi ta bà. Phật đã dùng thần lực của
ngài, hiện ra nhiều cõi Phật để bà chọn lựa cõi nào bà muốn;
cuối cùng bà chọn cõi tịnh độ của Đức Phật A Di Đà, là nơi cực
lạc hơn các cõi khác. Do đó Phật đã dạy bà phép quán vô lượng
thọ là phép quán để sau khi chết được về cõi Phật A Di Đà.
Tưởng cũng nên nói thêm, trong kinh Pháp Hoa, Đức Thế Tôn cho
biết, Đề Bà Đạt Đa trong nhiều kiếp trước, là vị đã truyền cho
Đức Thế Tôn kinh Pháp Hoa, và Đức Thế Tôn cũng thọ ký cho Đề Bà
Đạt Đa sẽ thành Thiên Vương Như Lai sau nầy.
-
Gần đây có quyển Tây
Phương Du Ký của Ngài Khoan Tịnh Đại Sư là đệ tử của Hư Vân Hoà
Thượng, đã được Đức Quán Thế Âm đưa đi đến cõi cực lạc từ 25
tháng 10 năm Đinh Mùi (1967) đến khi trở về là ngày mồng 8
tháng 4 năm Qúy Sửu (1973), tính ra 6 năm 5 tháng, nhưng trên
cõi ấy, ngài tưởng chừng như chỉ có 20 giờ mà thôi. Ngài có
găạp Hư Vân Hòa Thượng, Đức Di Lặc Tôn Phật, Đức Phật A Di Đà có
dạy bảo ngài Khoan Tịnh, nếu ai được nhất tâm bất loạn, chỉ cần
niệm 10 danh hiệu của Ngài cũng sẽ được sanh về cõi cực lạc.
Sách do Lư Thế Hoa lược dịch và 2 dịch gỉa Hữu Từ, Tâm Hảo là
những bạn đạo của chúng tôi, tu theo pháp môn Tịnh Độ ở Quan Âm
Tu Viện, thuộc thành phố Biên Hòa.
-
Trong kinh điển bổn A
Di Đà, chúng ta thường tụng khi cầu siêu độ cho người quá vãng,
Đức Thế Tôn có dạy nếu ai trì danh hiệu Phật A Di Đà từ một
ngày, hai ngày...bảy ngày, nếu tâm không bị loạn động, khi mất
sẽ được Phật A Di Đà và chư Bồ Tát hiện ra trước mắt, nếu người
nàuy khi mất, tâm không điên đảo sẽ được sanh về cõi Cực Lạc.
Cõi này có 9 phẩm, do công hạnh tu chứng cầu vãng sanh về cõi
cực lạc của mình, sẽ có một cái hoa sen cho mình ở cõi cực lạc.
Sau khi mình lìa cõi ta bà, mình sẽ được Đức Phật A Di Đà hay
chư Bồ Tát đón về cõi cực lạc trong cái hoa sen, khi hoa sen nở
mình sẽ sinh ra, chớ không có cha mẹ sinh ra như trong cõi ta bà
này.
-
Còn trong kinh Đại A
Di Đà, có vị quốc vương Kiều Thi Ca, nghe Phật Thế Tự Tại Vương
thuyết pháp, vua xuất gia làm Tỳ kheo Pháp Tạng. Ngài có 48 lời
phát nguyện, về sau công hạnh viên mãn thành Phật A Di Đà.
Trong đó, lời phát nguyện thứ 29 như sau: Nguyện đến khi tôi làm
Phật, các Trời và nhân dân ở trong vô lượng thế giới 10 phương
hết lòng tín mến, nguyện sanh về nước tôi, mười tiếng niệm danh
hiệu của tôi, đều đặng vãng sanh, chỉ trừ người phạm tội ngũ
nghịch và khinh dễ chánh pháp, nếu tôi nguyện không đặng như
vậy, tôi chẳng làm Phật.
-
Cũng trong kinh Pháp
Hoa, Phẩm Phổ Môn, chúng ta thường tụng để cầu an, Phật dạy rằng
Đức Quán Thế Âm Bồ Tát luôn luôn quan sát thế gian, ai gặp hoạn
nạn, niệm danh hiệu của Ngài, thì tai qua nạn khỏi. Ngài thường
cứu độ cho và nhất là ban cho sự không sợ hãi.
-
Chúng ta còn biết
rằng, khi chúng ta niệm danh hiệu Phật hay Bồ Tát, tức là chúng
ta tưởng nhớ đến hạnh nguyện các Ngài để chúng ta tu tập theo,
trong khi niệm Phật hay chư Bồ Tát, ba nghiệp của chúng ta được
thanh tịnh. Nếu chúng ta muốn được vãng sanh về Cực Lạc thì
niệm danh hiệu Đức A Di Đà.
-
III -
Niệm Phật như thế nào ? Có những cách niệm Phật sau đây:
-
- Tụng
niệm: Qùy trước bàn Phật hay đi kinh hành, niệm lớn tiếng, có
chuông mõ.
-
- Niệm
thầm: Niệm ở ngoài đường khi đi lại, chỗ làm việc, trước khi đi
ngủ...
-
- Khẩn
niệm: Gặp những khi bệnh hoạn, tai nạn, lo sợ chúng ta niệm danh
hiệu Đức Dược Sư, đức Quán Thế Âm.
-
- Niệm Phật
lần chuỗi: Dùng chuỗi tràng (chuỗi 108 hạt), chuỗi tay (18 hạt),
chuỗi trung (người Nhật dùng 27 hạt) để niệm một danh hiệu, lần
một hạt chuỗi, cũng là cách ghi số lượng niệm Phật, khỏi dùng
tâm để nhớ.
-
- Quán
niệm: Nhìn vào tượng Phật, chú tâm chiêm ngưỡng tướng tốt của
Phật hay tưởng tượng hình ảnh Phật trước mắt.
-
- Niệm Phật
công cứ : Người ta làm một cuốn sổ tay, cứ niệm được 1000 danh
hiệu Phật thì ghi 1 chấm hoặc niệm 1000 danh hiệu Phật thì bõ
vào ống một khúc chân nhang.
-
- Chuyên
niệm: Đi, đứng, nằm, ngồi lúc nào chúng ta cũng niệm Phật.
Khi chúng ta niệm có tiếng, trong kinh Đại Tập nói :"
Niệm lớn thấy Phật lớn, niệm nhõ thấy Phật nhỏ", chúng ta là
những người căn cơ còn thấp kém, cần phãi nhờ vào tiêng niệm
Phật của mình đẻ chú tâm vào đó, như vậy mới được nhất tâm.
-
Khi chúng ta niệm
thầm, ta cũng phải chú tâm vào từng niệm, không rời một giây
phút, không cho nó chạy theo bất cứ hình ảnh, âm thanh, ý tưởng
nào để cho tâm chuyên chú vào một việc, gọi là nhất tâm.
-
Khi lần chuỗi niệm
Phật, ta chĩ chú tâm vào danh hiệu Phật đã niệm Phật, việc lần
từng chuỗi hạt để cho tay tự động làm. Về sâu chuỗi, có một chỗ
người ta làm dấu như bình tịnh thủy, một hạt to hơn... nơi đó
tượng trưng cho Tam bảo. Lần hạt bắt đầu từ chỗ đó lần đi, đến
khi lần tới chỗ đó là đủ một tràng hạt 108 niệm, nếu chuỗi tay
phải 6 lần ( 6x18 = 108), chuỗi trung phải 4 lần (4 x 27 =
108). Không bao giờ lần qua chỗ làm dấu, khi lần tới đó phải
quay xâu chuỗi lần ngược lại, người ta cho rằng lần qua chỗ
tượng trưng tam bảo, cũng như tay ta để qua Phật, sẽ bị tội.
Nhưng theo chỗ chúng tôi nghĩ, có lẻ thiền môn đặt ra lệ ấy để
tới đó ta biết rằng được một chuỗi, cũng như tụng kinh lâu lâu
thỉnh một tiếng chuông để cảnh tỉnh vậy. Nhờ lần chuỗi, ta biêt
được số lượng, thời gian niệm Phật.
-
Điều quan trọng nhất
, cốt yếu nhất của niệm Phật là phải có Tín, Hạnh, Nguyện. Tín
là chúng ta phải tin chắc cõi ta bà này Sinh, lão, bệnh, tử đều
là khổ, pháp môn niệm Phật là kim ngôn của Đức Thế Tôn, niệm
Phật ta sẽ được sanh về cõi cực lạc, cõi ấy có thật, trang
nghiêm thanh tịnh do Đức Phật A Di Đà làm giáo chủ. Hạnh là
chúng ta phải từng giờ từng phút niệm Phật. Nguyện là chúng ta
phải thành tâm chí nguyện cầu sau khi lâm chung sẽ được Phật A
Di Đà và Thánh Chúng tiếp dẫn về cõi Tây Phương cực lạc. Nên
biết pháp môn niệm Phật lấy Tín, Hạnh, Nguyện làm tông chỉ: Hạnh
như cổ xe, nguyện như người phu xe, còn tín như kẻ dẫn đường, đủ
ba mới thành tựu sự tấn thối của xe. Người tu tịnh độ còn phải
trì giới, bởi vì nếu không trì giới, phạm giới tức là gieo nhân
ác, chúng ta phải chịu luân hồi trở lại cõi ta bà này để trả
1uả, chớ làm sao mà về cõi tây phương được !
-
IV-
Vài chuyện về pháp môn niệm Phật:
-
- Tần Thị có chồng họ
Vu, làm nghề đánh cá ở sông Tiền Đường. Con của bà chơi bời
theo du đãng, phạm hình luật, bị bắt đến quan, khiến cho sản
nghiệp đều tiêu tán. Tần Thị sầu khổ, đến mé sông muốn tự
trầm. Vừa may đâu bà gặp một vị Tăng ở chùa Tịnh Trụ, hỏi thăm
biết duyên cớ, khuyên bảo rằng :" Người đời khi bị những cảnh
khổ bức bách, đó đều là nghiệp duyên kiếp trước. Vậy nên cố
gắng an lòng nhẫn chịu. Nếu quẩn trí mà tự tử, tất gốc tội
nghiệp càng sâu. Muốn giải trừ nghiêp khổ, chỉ có con đường duy
nhất là làm lành, niệm Phật." Tần Thị nghe nói tỉnh ngộ, liền
đốt một ngón tay trước bàn thờ Phật để cúng dường, và phát
nguyện ăn chay trường, tu tịnh độ. Bà hành trì như thế hơn
mười năm không biếng trễ. Khi gặp mọi người đều chắp tay xưng
là Phật tử. Một hôm Tần Thị thỉnh tăng đến nhà tụng kinh Quán
Vô Lượng Thọ còn mình thì ngồi lần chuỗi niệm Phật. Khi tụng
đến chương Quán Tượng, bà ngồi yên lặng mà thoát hóa.
-
- Từ Thị người ở Tòng
Giang, gã về nhà chồng là Dương Thất Trai tại bản quận. Năm 32
tuổi, cô ăn chay trường niệm Phật, kiêm chí thành trì chú Đại Bi
cầu sanh Cực Lạc. Mỗi bữa khuya, cô thức dậy sớm, súc miệng rửa
mặt, lên hương đèn, lễ bái tụng chú Đại Bi 21 biến, niệm Phật
1000 câu, rồi mới lo đến việc nhà. Cô tu hành một mực không đổ
thay thiếu sót như thế, trãi vài mươi năm. Mùa Hạ, niên hiệu
Càn Long thứ 35, Từ Thị cảm bịnh nhẹ. Đến ngày mùng 8 tháng 6,
cô theo lệ thường tụng niệm. Khi vừa trì chú được hơn một khắc,
người nhà cảm nghe âm thanh lần thoát ra ngoài cửa. Tất cả chạy
lại xem thì cô ta đã mỉm cười ngồi thoát hóa. Bấy giờ nhằm thời
tiết nóng nực, để quàn ba ngày nhan sắc vẫn tươi như còn sống.
Đến khi thiêu hóa y phục, các ngọn lửa bốc lên, đều hóa thành
hình hoa sen năm sắc. Mọi người trông thấy lấy làm lạ thở than
khen ngợi.
-
- Thích Phật An, tự
Thệ Nguyện, người đời Thanh ở Tô Châu, năm ông hơn 30 tuổi, nhà
gần bên nhân đám cúng giết heo, khi mổ bụng ra, trên lá phổi con
vật có hai chữ Tào Tháo, thấy thế ông kinh hãi, tỉnh ngộ, tin
sâu thuyết nhân quả luân hồi, phát tâm vào am Thiên Trúc ở Tân
Kiều, xuống tóc làm Tăng. Sau thời gian xuất gia không bao lâu,
Phật An đến chùa Phật Vương ở Bắc Hào, chuyên tâm niệm Phật.
Khi được tiền cúng dường, sư liền mua hương hoa dâng Phật, hoặc
phóng sanh các loài chim cá. Năm Càn Long thứ 41, vào tháng ba,
Phật An vướng bệnh, sai đệ tử đến chùa Sư Lâm thỉnh chư tăng lễ
tịnh độ, sám ba ngày và lập một đàn Du già thí thực. Công việc
hoàn mãn, sư thiết tiệc chay, mời các tân khách đến giã biệt.
Ngọ trai xong, sư cao tiếng niệm Phật, đệ tử hòa theo. Khi cây
hương vừa tàn, Phật An nói :" Tôi đi đây!" Liền ngồi ngay thẳng
mà hóa. Bình sanh lúc ngẫu nhiên làm thi, sư đều có ý khuyên
mọi người nên niệm Phật. Có hai bài khi sắp viên tịch như sau:
-
Tây Phương màu đẹp
bảo liên đài
-
Trong tịnh sáng tươi
một đóa khai
-
Xanh đỏ trắng vàng
phô sắc diệu
-
Tầm tâm chỉ nguyện
thấy Như Lai
-
*
-
Khảy ngón kim kiều
bước đến mau
-
Ai rằng Cực Lạc cách
xa nào ?
-
Di Đà cười mỉm tay
vàng đón
-
Khen ở Ta Bà giới
hạnh cao !
-
- Cư sĩ Ngô Minh
Hồng, tự Thúc Bảo, người đời Minh, quê ở Thái Thương. Ông gia
thế dư gỉa, ưa bố thí, nhưng không thông hiểu Phật pháp. Đến
hơn 60 tuổi, một hôm ông bỗng tắm gội, đi từ biệt mọi người, rồi
thỉnh Ấn Sơ pháp sư ở chùa Long Phước đến truyền thọ tam quy ngũ
giới cho mình. Sau khi thọ quy giới xong, ông ngồi xuống chắp
tay hô lớn ba lần :" Mau thoát ly !" Rồi nhắm mắt mà qua đời.
Khi người nhà còn đang vây quanh, cùng hàng xóm hay tin chạy tới
thăm, cư sĩ bỗng mở mắt ra bảo :" Tôi vừa phát nguyện thoát ly
trần thế, dõng mãnh thầm niệm A Di Đà Phật thì cảnh Liên Hoa thế
giới đã hiện ra trước mắt. Tự xét mình bình sanh không có tu
hành chi, nay chỉ niệm Phật mấy câu, tại sao lại được quả báo
thắng diệu như thế ? Vậy xin khuyên các vị nẻn cố gắng tu hành!
" Nói xong bảo người nhà đem một chậu nước lại, soi mặt nhìn
chăm chú vào trong. Giây phút bỗng như tỉnh ngộ, bảo :" Đời nầy
là Ngô Thúc Bảo, kiếp trước là Từ Hòa Thượng, lành thay! Vui
thay! " Rồi chắp tay niệm Phật mà mãn phần. Lúc ấy mùi hương
lạ phát đầy nhà.
-
Chư Tổ của Tịnh Độ
Tông không có truyền thừa như Thiền Tông, sở dĩ có chư Tổ là do
đời sau chư tăng tục tu môn Tịnh Độ suy tôn, trong Tịnh Độ Thánh
Hiền Lục ghi 11 vị Tổ, nơi đạo tràng Linh Nham, Ấn Quang đại sư
họp các liên hữu tăng tục suy tôn chư tổ thứ 10, 11, 12. Sau
khi Ấn Quang đại sư vãng sanh, chư liên hữu nhận thấy ngài hạnh
đức trang nghiêm có công hoằng dương tịnh độ, mới họp lại đồng
suy tôn tổ thứ 13. Theo thứ tự chư vị Tổ tông Tịnh độ như sau:
-
1- Huệ Viễn Đại sư
2- Thiện Đạo đại sư 3- Thừa Viễn đại sư 4- Pháp Chiếu đại sư
5- Thiếu Khang đại sư 6- Diên Thọ đại sư, tự Xung Huyền, tham
học với Thiều Quốc sư ở Thiên Thai, tỏ ngộ tâm yếu, được Quốc sư
ấn khả, Trung ý Vương nhà Tống thỉnh trụ trì chùa Vĩnh Minh, lại
tôn hiệu là Trí Giác thiền sư. 7- Tỉnh Thường đại sư, tự Thứu
Vi 8- Châu Hoằng đại sư, tự Phật Huệ 9- Trí Húc đại sư, tự
Ngẫu Ích 10-Hành Sách đại sư 11- Thật Hiền đại sư, tự Tư Tề,
hiệu Tỉnh Am 12- Tế Tỉnh đại sư, tự Triệt Ngộ 13- Ấn Quang đại
sư.
-
Trong 13 vị Tổ Tịnh
Độ tông có 7 vị Thiền sư được chánh truyền, sau chuyển tu pháp
môn tịnh độ, bảy vị đó là : Thừa Viễn, Vĩnh Minh, Liên Trì, Ngẫu
Ích, Hành Sách, Tỉnh Am và Triệt Ngộ.
-
V -
Kết Luận :
Thiền tông hay Tịnh độ tông, chúng ta không nên phân biệt pháp
môn cao hay thấp, cần biết rõ pháp môn nào hợp với mình thì nên
tu, khi chứng đắc rồi thì thiền hay tịnh chỉ là một, cốt làm sao
cho Tâm ta được nhất tâm bất loạn, xin lục lại bài Tứ Liêu giản
của Diên Thọ Đại sư, Ngài so sánh, khuyên giải chúng ta tu.
Xin hãy tu mau kẻo trễ !
-
Có Thiền
không Tịnh độ Có Thiền có
Tịnh độ
-
Mười người chín lạc
lộ Như thêm sừng mãnh hổ
-
Ấm cảnh khi hiện
ra Hiện đời làm thầy người
-
Chớp mắt đi theo
nó Về sau làm Phật, Tổ
-
Có Thiền cóTịnh
độ Không Thiền không Tịnh độ
-
Muốn tu muốn thoát
khổ Giường sắt, cột đồng lửa!
-
Vãng sanh thấy Di
Đà Muôn kiếp lại ngàn đời
-
Lo gì chẳng khai
ngộ Chẳng có nơi nương tựa
-
-
Louisville,
18-5-1996
- --o0o--
|
|