|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
- BỔ TÁT
QUAN ÂM
- Thích
Trí Quảng
-
--o0o--
-
-
Quán Thế Âm Bồ Tát,
một vị đại sĩ vạn năng, thân thương của loài người ở Ta Bà mà
bất cứ đệ tử nào của đức Phật cũng đều hướng tâm lính lễ, cầu
nguyện Ngài, tại sao Bồ Tát Quan Âm đạt được quả đức như vậy?
-
Đức Phật nhắc đến
công đức của Quan Âm rất nhiều, nhưng có thể nói ba bộ kinh: Bát
Nhã, Đại Bi và Pháp Hoa gồm đủ nhân, hạnh, quả, đức của Quan Âm.
Kinh Bát Nhã nói về nhân địa tu hành, kinh Đại Bi nói về sự cứu
độ và kinh Pháp Hoa chỉ rõ năng lực bất tư nghi của Ngài. Từ
thuở nhỏ, tôi có niềm tin mãnh liệt với Bồ Tát Quan Âm. Khi xuất
gia được phước duyên hậu cần cố HT Thiện Hoa. Tôi thấy sáng nào
Ngài cũng tụng Đại Bi, Phổ Môn và kết thúc Bát Nhã. Hòa Thượng
dạy tôi rằng tụng như vậy nhằm tin nhân hạnh của Quan Âm, để lập
hạnh tu nhân theo Ngài. Nhờ lời dạy đo, tôi suy nghĩ và thực
hành pháp tu giống vậy, đạt được nhiều kết quả mầu nhiệm, không
thể nghĩ bàn. Nhưng nếu tu sai chúng ta cỉ cung kính, van xin,
nhưng tâm niệm, hành động ác độc, chắc chắn không được Ngài che
chở, còn chuốc lấy quả báo cũng không lường được. Tu nhân giống
Quan Âm, có hạnh đồng với Ngài, dù không cầu, Ngài cũng gia bị.
Điều này dễ hiểu, như thực tế, tôi tu Pháp Hoa,người nào phát
tâm tu Pháp Hoa, có tâm nguyện, ý chí hành đạo như tôi, tôi sẵn
lòng giúp đỡ ngay, không đợi họ cầu xin.
-
Nhân địa tu hành của
Quan Thế Âm thể hiện rõ nét qua kinh Bát Nhã, thu gọn lại là Bát
Nhã tâm kinh. Kinh dạy rằng: Bồ Tát Quan Âm quán chiếu ngũ uẩn
giai không, tức phá ý thức chấp hữu của ngũ uẩn, không cố chấp,
nhưng tùy duyên hóa độ, không phải phá bỏ tất cả. Có người tu
thường ưa lý luận ngũ uẩn giai không, đến khi có vấn đề là họ
sân si không ai bằng. "Không" của họ chỉ là không trên đầu môi
chót lưỡi, tâm còn đầy rẫy phiền não. Tu như vậy Quan Âm không
cứu được. Quan Âm chỉ đến với ta tong lúc vô tâm, thí dụ như khi
tâm của Đường Huyền Trang hoàn toàn lắng yên, đồng với đức Quan
Âm, thì Ngài xuất hiện, trao cho tích trượng và y Như Lai, để
vững tiến và thoát được tai ách trên đường thỉnh kinh. Vô tâm
mới được Phật, Bồ Tát giúp đỡ, còn tham cầu chỉ tương ứng với ma
quỷ, bị chúng nhiếp trì, lạc vào đường tà, tội lỗi. Từ quán
chiếu ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách, đó là khởi đầu
và cũng là chung cuộc của Bát Nhã, thấy ngũ uẩn không, rời chấp
trước, tâm lắng yên, trí tuệ phát saanh là Bát Nhã. Như vậy,
Quan Âm khởi tu Tâm kinh và chứng Bát Nhã đó là nhân hạnh của
Ngài. Ngày nay, chúng ta muốn tu nhân hạnh của Quan Âm, tất yếu
phải thực hiện pháp đó trước tiên. Chúng ta dùng vô số phương
tiện như tụng kinh, lễ sám, niệm Phật, trì chú, nghe pháp, tham
thiền... để trụ tâm. Tâm đứng yên thì huệ phát sanh, dùng trí
tuệ ấy quán sát trần thế, thấy rõ khổ vui của từng người, thấy
được ngũ uẩn luôn biến động, không thực. Từ đó, dưới mắt người
tu, cuộc đời không khác gì cái sân khấu lớn, ta là diễn viên
đang đóng từng vai khác nhau trong mỗi kiếp, nhưng chơn tâm vẫn
một màu thanh tịnh. Đạt đến đỉnh cao ấy, chứng đắc đại Bát Nhã,
thấy được con người thực từ chân lý xuất hiện trên cuộc đời và
từ cuộc đời trở về Tịch Quang chơn cảnh. Đó là dấu vết đi về của
Bồ Tát Quan Âm, chúng ta lần theo đó sẽ gặp Ngài, nói khác,
chúng ta nhập đạo qua cửa Bát Nhã, tâm định tĩnh, trí tuệ phát
sanh. Tùy theo trí tuệ lớn hay nhỏ, mà từng bước, ta thấy được
Quan Âm khác nhau, không đạt được kết quả này, công phu tu tập
chỉ là dã tràng xe cát.
-
Từ Bát Nhã Tâm kinh,
chúng ta tiến tu, gặp Bồ Tát Quan Âm tỏa sáng tâm đại bi.Ngài có
lòng thương người bao la, nhất là người đau khổ, hoạn nạn, hễ
khóc than, kêu cứu là Ngài đến liền, nghĩa là tấm chân tình của
chúng ta đạt đến cao độ, truyền đến tâm từ của Ngài. Bồ Tát nhận
được tín hiệu khổ đau ấy, tức khắc xuất hiện giúp đỡ, từ đó,
chúng ta có thêm hạnh đức của Quan Âm trong kinh Đại Bi. Lẽ sống
của Bồ Tát Quan Âm được kết hợp bằng trí tuệ và từ bi. Mà không
có mãnh đất nào tốt để Ngài gieo trồng hạnh đức bi trí cho bằng
cõi Ta bà, nơi phức tạp nhất, phiền lu nhất, khổ đau nhất, với
đầy đủ loại hình chúng sanh, chúng sanh nghiệp, chúng sanh phiền
não. Trên tinh thần ấy, một trong 12 lời nguyện của Quan Âm là
trụ Ta Bà u minh giới, tầm thinh cứu khổ nguyện. Vì tâm đại bi,
Quan Âm đến Ta Bà, tìm người khổ đau cứu vớt và ta cũng cứu
người, nên đồng hạnh với Ngài, chúng ta sẽ gặp Ngài ngay. Ta cứu
người, Quan Âm cứu ta.
-
Khi hạnh nguyện phần
nào giống Quan Âm, chúng ta được sống gần Ngài, đồng hành với
Ngài, chúng ta quan sát xem Ngài làm gì để tập làm theo. Năng
lực bất tư nghi của Quan Âm. được Phật dạy rõ trong phẩm Phổ
Môn, kinh Pháp Hoa. tron Phổ Môn thị hiện, nổi bật tinh thần vị
tha vô ngã của Bồ Tát Quan Âm. Nơi nào cần cứu, Ngài xuất hiện
giúp đỡ, không vì quyền lợi riêng, nhưng vì quyền lợi số đông.
Học hạnh Phổ Môn của Quan Âm chúng ta chỉ đến đáp ứng yêu cầu
cho người không đến nhờ vả.
-
Trên tinh thần vô
ngã, Bồ Tát Quan Âm thị hiện tùy lúc tùy chỗ, tùy yêu cầu dưới
nhiều dạng hình khác nhau, thiên xứ hữu cầu thiên xứ ứng, kinh
ghi là 33 ứng hiện thân. Về điểm này, nhiều người thường lầm
tưởng rằng Quan Âm từ trong hư không hiện ra ở một chỗ nào đó để
cứu chúng ta và rủ nhau đến đó cầu nguyện, cúng dường. Điều đó
không đúng với chánh pháp. Chúng ta không cần tìm chỗ có Quan Âm
hiện, vì chúng ta biết rõ Ngài hiện được tất cả mọi nơi. Tuy
nhiên, người có niềm tin, lòng thành, mới thấy Ngài. Giáo sư
Suzuki cụ thể hóa bằng ví dụ đài truyền hình tải âm thanh và
hình ảnh khắp nơi, nhưng chỗ nào có máy tivi, mới bắt được hình
ảnh, âm thanh, và nhiều khi máy còn bị nhiễu sóng, phải có
antenne, hình mới rõ. Niềm tin, lòng thành ví như máy truyền
hình là điều kiện để Quan Âm hiện. Chúng ta thấy rõ Ngài hay
không, còn tuỳ ở sự chi phối của nghiệp lực, ví như máy bị nhiểu
sóng nhiều, ít. Vì vậy, có người thấy Phật, Bồ Tát lờ mờ hay có
lúc thấy, lúc không. Trên bước đường tu, hạn chế nhiễu sóng, tức
hạn chế nghiệp của chúng ta, tâm lắng yên, phiền não ít, mới có
thể diện kiến Phật, Bồ Tát . Người nhiều tham vọng, lắm phiền
muộn, khó bước vào thế giới thánh thiện. Hạn chế tính toán phiền
não, để tâm hồn thanh thản và thân thể khoẻ mạnh, cầu nguyện
nhất định kết quả.
-
Khi cơ thể khoẻ tâm
hồn trong sáng, giống như máy tốt, có thể tiếp nhận lực Quan Âm.
Lực Ngài truyền vô thân người nào , người đó biến thành Quan Âm.
Nếu là người nữ có tánh hiền hậu, hay giúp đỡ kẻ hoạn nạn, người
đó được coi là hiện thân của Quan Âm. Trên thực tế có Ỷ Lan thứ
phi hết lòng chăm sóc, thương yêu dân nên được dân Việt Nam tôn
sùng là Phật Bà Quan Âm. Nếu người đó là vị tu hành, có tình
thương rộng lớn, che chở giáo dưỡng người như cố HT Khánh Hòa,
HT Trí Thủ... người ta nghĩ các vị này là Bồ Tát Quan Âm hiện
thân Tỳ kheo. Nói chung, năng lực bất tư nghì của Bồ Tát Quan Âm
được cụ thể hóa thành 32 ứng hiện thân (cộng thêm một thân chính
của Ngài là 33), từ hiện thân Phật cho đến thân bình thường nhất
trên cuộc đời, như thân trẻ con. Một ông vua nhân từ, một thầy
thuốc cứu người, một bà phi giỏi, dịu hiền, một nông dân chất
phác, một ông quan thanh liêm, một dũng sĩ can thiệp những
chuyện bất công, một anh công nhân hiền lành tốt bụng, một người
giàu có hay làm việc nghĩa... đều là Quan Âm. Tất cả nhữn hình
ảnh tốt lành, đạo đức, tài giỏi đều gợi cho người nghĩ đến hạnh
Quan Âm. Ta không tìm Ngài trong hư không, nhưng tìm trong hạnh
của những người tu. Người có tâm niệm từ bi, việc làm giúp đời
như Quan Âm thì Quan Âm hiện hữu nơi họ. Hội đủ điều kiện để
tiếp nhận gia trì lực của Ngài không đơn giản và giữ cho lực
Quan Âm tồn tại trong ta lâu dài lạ càng khó hơn. Vì vậy, đánh
mất lực gia bị của Quan Âm thì lại rất dễ, chỉ một niệm tâm vọng
tưởng điên đảo khởi lên, tất cả những gì siêu tuyệt của ta tức
thì tan thành mây khói, chẳng khác gì cúp điện, hình chẳng thể
có được.
-
Tóm lại, kỷ niệm ngày
vía Bồ Tát Quan Âm, chúng ta cung kính đảnh lễ Ngài, lưu giữ
hình ảnh thánh thiện Ngài trong tâm ta, thể hiện thành lời nói
vui đẹp lòng người và việc làm mang an lạc, giải thoát cho
người.
-
Source: Lotusnet ( http://www.lotuspro.net)
- --o0o--
|
|