|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
Đạo Phật Và Khoa Học
-
Trịnh Nguyên Phước
-
--o0o--
-
-
Đặt vấn
đề
-
Chúng
ta đang sống ở một khúc quanh quan trọng của lịch sử loài người,
với những đổi thay vô cùng nhanh chóng, với những vấn đề phức
tạp, đầy hiểm nguy nhưng cũng đầy hào hứng. Giải quyết được
những vấn đề này hay không tùy thuộc vào ý thức và khả năng
thích ứng của mỗi người, của mỗi xã hội.
-
Nhìn
lại những vấn đề trùng điệp của thời đại, chúng ta khó thể nào
tránh khỏi bi quan: nào nạn nhân mãn với hậu quả nghèo đói, nào
khoảng cách mỗi ngày một sâu rộng giữa những nước giầu và nghèo,
nào sự ô nhiễm môi trường mỗi ngày một lan rộng trên địa cầu,
nào những chiến tranh và tàn sát chủng tộc, nào những vụ vi phạm
nhân quyền và đàn áp thiểu số, nào những vấn đề đô thị, bạo
động, ma túy, bệnh do siêu vi trùng HIV, nào những khủng hoảng
gây nên bởi thất nghiệp, ly tán gia đình, rối loạn thần kinh, và
còn bao nhiêu vấn đề khác nữa.
-
Điểm
đặc biệt là những thử thách gay go đó xuất hiện trong khi nhân
loại chưa bao giờ đạt được mức độ phát triển vật chất cao hơn
bây giờ. Nhờ những tiến bộ vượt bực của khoa học kỹ thuật, con
người đã lên được mặt trăng, thông tin liên lạc với tốc độ điện
tử, máy móc hóa cuộc sống một cách rộng rãi, ghép các bộ phận cơ
thể, thụ thai trong ống nghiệm, thay đổi di truyền,v.v. Nói tóm
lại, con người đã làm chủ được thiên nhiên trên hầu hết mọi lãnh
vực, tuy rằng chỉ có một thiểu số trên thế giới được hưởng những
thành quả đó.
-
Nhưng
có một lãnh vực mà con người vẫn chưa thông hiểu và làm chủ
được: đó là cái tâm của chính mình.
-
Tại các
nước tân tiến, dưới sức ép của xã hội tiêu thụ, con người không
ngừng đuổi theo tiện nghi vật chất, và chẳng mấy khi tìm được
hạnh phúc trong những tiện nghi đã trở thành trói buộc. Trong
khi đó, tại các nước chậm tiến, "cái khó bó cái khôn", ai ai
cũng chạy theo miếng cơm manh áo, không màng tới ý nghĩa sâu xa
của cuộc sống. Đâu đâu cũng có vấn đề tiền bạc, nhưng tiền bạc
không giải quyết được mọi vấn đề. Ở khắp nơi, tuổi trẻ mất tin
tưởng, lao động thiếu hăng say, tham nhũng lan tràn, gia đình
lỏng lẻo, đạo đức suy thoái. Con người cảm thấy bơ vơ và không
định hướng như hơn bao giờ hết. Có thể nói chính là một cuộc
khủng hoảng tinh thần, phát xuất từ sự mất thăng bằng giữa vật
chất và tinh thần, từ sự trống trải tinh thần đang lan rộng.
-
Quả
thật hiện nay có nhiều dấu hiệu cho ta thấy rõ có một khoảng
trống lớn về mặt tinh thần. Tại Tây phương, sau mười mấy thế kỷ
thống trị gần như độc tôn, Ki Tô giáo, đặc biệt Công giáo, đã
bắt đầu suy thoái một cách lần mòn, do sự thiếu thích nghi của
Tòa Thánh La Mã trước những biến đổi của cuộc sống. Và sau khi
lan tràn thế giới trong một phần lớn thế kỷ 20, chủ nghĩa Mác-Lê
đã xụp đổ một cách bất ngờ trong khoảng ngót chục năm trời. Chỉ
còn lại Hồi giáo với sự tăng trào của khuynh hướng quá khích,
đang trở thành một hiểm nguy lớn cho tất cả các phần tử ôn hòa.
Và Phật giáo, hiện đang còn bị gò bó trong một số nước Á châu,
và vẫn chưa triển khai được tiềm lực của mình.
-
Gần đây
có xuất hiện một số bài suy tư về thời đại, tác giả là những nhà
khoa học, xã hội học, văn hóa có tên tuổi. Hầu hết đều nhận định
rằng nhân loại đang sống một khúc quanh cực kỳ quan trọng, có
thể gọi là một cuộc khủng hoảng văn minh. Theo họ, những vấn đề
khúc mắc đặt ra cho thế giới không thể nào giải quyết được, nếu
con người còn tiếp tục đi theo chiều hướng hiện tại.
-
Trong
một cuộc phỏng vấn gần đây, đức Đạt Lai Lạt Ma có nói: "Tôi cảm
thấy một cách sâu đậm rằng chúng ta sẽ phải cùng nhau tìm ra một
giá trị tinh thần mới. Khái niệm mới đó, một giá trị tinh thần
thế tục (spiritualité laique), sẽ phải được xây dựng bên cạnh
các tôn giáo, để cho tất cả những người có thiện chí có thể tham
gia được. Chúng ta phải xúc tiến khái niệm mới đó cùng với các
nhà khoa học, cho một tương lai thế giới tốt đẹp hơn" (1).
-
Như
vậy, giá trị tinh thần đó phải là một giá trị tinh thần phổ
biến, thế tục và phù hợp với khoa học:
-
- Phổ
biến, vì chiều hướng chung của sự phát triển là vượt khỏi mọi
biên giới, không phải để đi tới sự đồng nhất, mà là sự hòa đồng
trong sự tôn trọng khác biệt.
-
- Thế
tục, vì "giá trị tinh thần" không bắt buộc phải là "tôn giáo",
và giá trị tinh thần muốn được phổ biến phải ở ngoài, hay ở bên
cạnh các tôn giáo.
-
- Phù
hợp với khoa học, bởi vì con người hiện đại không thể nào bỏ qua
được vai trò tất yếu của khoa học trong cuộc sống.
-
Trong
công cuộc xây dựng giá trị tinh thần này, đạo Phật có thể đóng
một vai trò không nhỏ. Bởi vì đó vừa là một truyền thống đạo lý
cổ xưa đã in sâu vào tâm hồn người châu Á, vừa là một con đường,
một lối sống đang được người Tây phương phát hiện và ưa chuộng.
Đạo Phật lại thêm một đặc điểm so với các tôn giáo khác: đó là
sự phù hợp với tinh thần khoa học.
-
I. Phần
lý thuyết:
Tương quan giữa đạo Phật và khoa học
-
Nếu có
một tôn giáo nào có thể gọi là phù hợp với khoa học thì chắc hẳn
là Phật giáo. Bởi vì, khác những tôn giáo khác, đạo Phật không
mang tính chất giáo điều và không dựa lên trên đức tin; đạo Phật
chưa bao giờ tìm cách thay thế khoa học giải thích mọi hiện
tượng; và trong quá trình phát triển của loài người, các tổ chức
Phật giáo chưa từng kết án một phát minh hay một nhà khoa học
nào.
-
Người
ta có thể giải thích những điều đó bằng tinh thần bao dung, phá
chấp của đạo Phật. Nhưng thật ra không phải chỉ có vậy. Đạo Phật
và khoa học còn chia xẻ với nhau một số đặc tính mà chúng ta sẽ
phân tích sau.
-
Hơn
nữa, trải qua hơn 2500 năm lịch sử, đạo Phật đã tích lũy nhiều
kiến thức, nhiều kinh nghiệm mà ngày nay các nhà khoa học cũng
đang quan tâm tới và tìm cách khai thác. Ông Francisco Varela,
một nhà nghiên cứu sinh học về khoa học nhận thức (sciences
cognitives), cho biết rằng chính nhờ tìm hiểu và thực nghiệm đạo
Phật trong hơn 15 năm, ông mới khai phá ra những chân trời mới
lạ: "Trong truyền thống đạo Phật có từ hơn 20 thế kỷ nay, hiện
tượng học kinh nghiệm đã mang lại một khối hiểu biết mênh mông.
Đạo Phật đã đề xướng ra một phương pháp rất gần với phương pháp
của Husserl, nghĩa là ngưng lại mọi tin tưởng, để quan sát và
nhận thức trực tiếp bởi giác quan. Có thể nói rằng đức Phật
Thích Ca là người đã đi trước Husserl, và những người tu Phật là
những nhà chuyên môn về hiện tượng học tâm thần. Truyền thống
đạo Phật thật ra không mấy liên quan tới tín ngưỡng, nhưng lại
có liên quan mật thiết với khoa học tâm thần. Người ta không thể
nào không biết đến kho tàng hiểu biết đó, cũng nằm trong tinh
thần hiện tượng học Tây phương, nhưng được áp dụng vào hành
động, được thực nghiệm. Có thể hai con đường hiện tượng học và
phương pháp khoa học đó sẽ bổ túc và gây thêm phong phú cho
nhau" (2).
-
Đứng về
mặt lý thuyết, sở dĩ đạo Phật và khoa học phù hợp với nhau là vì
chung với nhau một nền tảng, một số thái độ tinh thần, một số
nhận định, tuy rằng có những điểm khác biệt về đối tượng và mục
tiêu.
-
Một nền
tảng chung: Trí tuệ
-
Điểm
gặp gỡ căn bản giữa đạo Phật và khoa học là nền tảng dựa lên
trên trí tuệ. Khoa học dựa lên sự hiểu biết xây dựng bởi lý trí
con người. Đạo Phật cũng dựa lên trên trí tuệ con người, noi
theo gương đức Phật, là "đấng phước trí vẹn toàn".
-
Trong
khoa học cũng như trong đạo Phật, không có đức tin, và không cần
tới đức tin. Tiếng Anh "believe" (tin tưởng) phát nguồn từ tiếng
Đức cổ xưa "liebe" có nghĩa là "yêu". Do đó, có thể nói rằng đức
tin thuộc vào phạm vi tình cảm chứ không phải là lý trí. Và đa
số vấn đề đặt ra, đa số bất đồng giữa tôn giáo và khoa học xẩy
ra cũng chỉ vì các tôn giáo thần khải đều đặt nền tảng vào đức
tin, vào tình cảm chứ không phải vào lý trí. Đạo Phật không
vướng mắc vào điều đó.
-
Chủ thể
là con người
-
Trên
con đường trí tuệ, khoa học cũng như đạo Phật khẳng định chủ thể
là con người. Cả hai đặt trọng tâm vào con người, vì vậy có thể
nói rằng đạo Phật và khoa học đều là những con đường nhân bản
(humanisme).
-
Theo
khoa học, tất cả sự hiểu biết đều tùy thuộc bản chất và kinh
nghiệm của con người, và ai ai cũng có thể nâng cao trình độ học
thức, nhờ sự nỗ lực của chính mình. Chân lý đạt được không phải
là chân lý thần khải do Thượng Đế ban cho, mà là chân lý do con
người phát hiện.
-
Theo
đạo Phật, tự con người làm cho mình mê muội, gây khổ đau cho
mình, và cũng tự con người giác ngộ, giải thoát cho mình. Không
ai có tác động vào con người, không có sự cứu rỗi hay thưởng
phạt bởi Thượng Đế hay một đấng thần linh nào. Không có định
mệnh, cũng không có ngẫu nhiên, chỉ có luật nhân quả. Hơn nữa,
ai ai cũng có thể giác ngộ, ai ai cũng có thể thành Phật được.
-
Như
vậy, khoa học cũng như đạo Phật mang lại cho con người tinh thần
trách nhiệm, lòng tự tin ở khả năng của chính mình, quyền tự do
chọn lựa, ít ra ở trong một chừng mực nào, và tinh thần bình
đẳng trên con đường trí tuệ.
-
Những
khác biệt về mục tiêu và đối tượng
-
Bàn về
mục tiêu và đối tượng, chúng ta phải công nhận có những điểm
khác biệt giữa khoa học và đạo Phật:
-
Đối
tượng của khoa học là tất cả những gì có thể quan sát, thí
nghiệm và nhận thức được: mọi hiện tượng, tự nhiên hay không,
con người và mọi sinh vật, xã hội, v.v., thậm chí khoa học có
thể tự nghiên cứu về chính mình. Có thể nói là không có một lãnh
vực nào nằm ngoài tầm khoa học, và phạm vi của khoa học mỗi ngày
một tỏa rộng.
-
Nhưng
cũng có thể nói là khoa học không có một chủ đích nào ngoài sự
hiểu biết mỗi ngày một sâu rộng và chính xác hơn. Tự khoa học
không mang lại gì cho con người, ngoài sự hiểu biết. Khoa học
đứng một vị trí trung lập và không liên quan gì đến đạo đức,
tình cảm. Còn áp dụng khoa học ra sao lại là một vấn đề khác, mà
chúng ta sẽ đề cập đến sau.
-
Ngược
lại với khoa học - hay đúng hơn bổ túc cho khoa học - đạo Phật
có một mục tiêu nhất định, đó là diệt khổ, là giải thoát. Đức
Phật đã nhấn mạnh: "Này các tỳ kheo, cững như nước biển chỉ có
một vị mặn, những điều ta dậy chỉ có một mục đích, đó là giải
thoát". Do đó, đạo Phật không chủ trương tìm hiểu tất cả những
gì có thể hiểu biết được, mà chỉ đặt trọng tâm vào những gì đưa
con người tới diệt khổ và giải thoát.
-
Và vì
quan niệm rằng "Phật tại tâm", cho nên đối tượng của đạo Phật là
cái tâm, điều đó rất rõ trong Thiền và Duy Thức. Thay vì nghiên
cứu ngoại cảnh như khoa học, đạo Phật chủ trương trở về với "bản
lai diện mục". Để mượn một hình ảnh, chúng ta có thể so sánh ánh
sáng của khoa học như một ngọn đèn chói tỏa khắp nơi, trong khi
đó ánh sáng của đạo Phật như một tia laser hội tụ vào một điểm.
-
Rất có
thể đức Phật Thích Ca lấy một thái độ như vậy là vì vào thế kỷ
thứ 6 trước CN tại Ấn Độ, có nhiều khuynh hướng siêu hình luẩn
quẩn trong những giả thuyết không đi tới đâu, trong khi đó khoa
học chưa ra đời. Đối với đức Phật, đời người quá ngắn ngủi để có
thể mất thời giờ trong những hoạt động không mang lại lợi ích gì
cho mục tiêu chính, tức là giải thoát. Nhưng ngày hôm nay, sau
bao nhiêu thế kỷ tiến hóa của loài người, với những sự hiểu biết
không ngừng phát triển, có thể nào không tiếp nhận ánh sáng của
khoa học? Giữa "biển khổ" mênh mông và "biển học" vô tận, người
trí thức Phật tử làm thế nào để chọn lựa? Và liệu có cần chọn
lựa?
-
Hai con
đường trí tuệ
-
Khoa
học dùng lý trí, lý luận để diễn giải, dùng những từ ngữ, biểu
tượng để diễn đạt tư tưởng. Những hiểu biết được truyền đạt,
thông tin qua những từ ngữ, biểu tượng, và nhờ đó có tính chất
phổ biến, trên khắp hoàn cầu và vượt qua các thời đại.
-
Đạo
Phật dùng lý trí để tìm hiểu giáo lý và gìn giữ giới luật, nhưng
lý trí không đủ để đạt tới giác ngộ. Trí tuệ viên mãn (hay Bát
Nhã) vượt khỏi phạm vi tri thức thông thường, vượt khỏi ngôn từ,
biểu tượng. Đó là một sự tỉnh thức toàn bộ và đột ngột, một
trạng thái tâm linh gọi là "chứng ngộ", có thể thực nghiệm sau
một thời gian tu tập.
-
Chính
khoa học hiện nay cũng phải công nhận những hạn chế của lý trí,
và khả năng trực giác phát xuất từ tiềm thức con người. Có lẽ
"cái chính yếu không thể thấy được", cũng như lời con chồn nói
với "Hoàng tử Bé" trong truyện của Saint-Exupéry.
-
Tinh
thần thực tiễn và thực nghiệm
-
Thái độ
của đức Phật Thích Ca không khác gì thái độ của một người thầy
thuốc. Chúng ta có thể nhận thấy qua bài giảng đầu tiên của ngài
về Tứ Diệu Đế, một trình tự khoa học, hợp lý và thực dụng, một
phương pháp y học gồm 4 giai đoạn: chẩn đoán bệnh, tìm nguyên
nhân bệnh, tiên lượng và điều trị bệnh bằng một liều thuốc hữu
hiệu. Đạo Phật chính là đạo thực nghiệm, bởi vì từ cái khổ cho
tới cái diệt khổ đều là những kinh nghiệm của cuộc sống, và tu
theo đạo Phật chính là tìm cách đi theo con đường đức Phật đã đi
qua.
-
Tại Tây
phương, sở dĩ nghiên cứu y học phát triển mạnh mẽ cũng là nhờ
phương pháp khoa học thực nghiệm (sciences expérimentales) đề
xướng bởi Francis Bacon và Claude Bernard, theo một trình tự gồm
4 giai đoạn: từ quan sát các hiện tượng, rút ra một số sự kiện,
rồi tìm ra những định luật giải thích các sự kiện, và sau cùng
xét nghiệm để kiểm soát những định luật đó.
-
Như
vậy, chúng ta có thể nói rằng tinh thần thực tiễn và thực nghiệm
là những đặc điểm làm cho đạo Phật và các khoa học áp dụng gần
gũi với nhau.
-
Tinh
thần phê phán, phá chấp, cởi mở, khoan dung
-
Đặc
biệt phù hợp với khoa học là tinh thần phê phán của đạo Phật.
Phật tử nào cũng nhớ những lời dậy của đức Phật cho người dân
làng Kalama, khuyên họ luôn luôn giữ tinh thần phê phán, không
chấp nhận một sự thật nào trước khi tự mình kiểm chứng bằng lý
trí và thực nghiệm. Tinh thần khoa học chính là tinh thần phê
phán, và cũng là tinh thần thực chứng (esprit positif), chối từ
những cảm tưởng chủ quan, những truyền thuyết, tin tưởng, những
giải thích huyền bí, siêu hình.
-
Phá
chấp, cởi mở và khoan dung, thường liên quan mật thiết với nhau,
là những tinh thần cốt tủy trong đạo Phật. Đức Phật coi con
đường mình vạch ra như một phương tiện, như một "cái bè để qua
sông", như "ngón tay chỉ mặt trăng", có tính chất vô thường như
tất cả mọi pháp môn. Đạo Phật không dựa lên trên kinh điển, mà
chỉ coi kinh điển như những phương tiện giúp người Phật tử hiểu
thêm giáo lý. Kinh điển chỉ là những lời dậy được chép lại,
truyền từ đời này qua đời khác, và không tránh khỏi những hạn
chế thời gian. Do đó, đức Đạt Lai Lạt Ma đã không ngần ngại nói
rằng: "Nếu khoa học chứng minh là kinh điển sai, thì phải thay
đổi kinh điển" (1). Thật là một bài học phá chấp hiếm có trong
lãnh vực tôn giáo.
-
Lẽ dĩ
nhiên, tinh thần cởi mở, khoan dung đó đã mang lại cho cả hai
bên những phát triển bổ ích. Khoa học mỗi ngày một thêm phong
phú nhờ những lý thuyết mới, đôi khi mâu thuẫn nhưng luôn luôn
bổ túc cho nhau, mỗi lý thuyết đem lại thêm một phần ánh sáng.
Chẳng hạn như quan niệm vũ trụ cơ học của Newton, thuyết tương
đối của Einstein và thuyết lượng tử của Bohr và Heisenberg, đã
lần lượt làm cho con người hiểu biết thêm về thế giới. Còn đạo
Phật sở dĩ trở thành đa dạng và xum xuê như một cây đại thụ,
cũng là nhờ ở sự đóng góp của chư vị tổ sư, luận sư và thiền sư
như các ngài Phật Minh, Long Thụ, Vô Trước, Thế Thân, Huệ Năng,
v.v., đã khai sáng những trường phái phong phú như Trung Quán,
Duy Thức, Thiền tông v.v.
-
Những
nhận định phù hợp với khoa học: Luật nhân quả, vô thường, vô
ngã, lý duyên khởi
-
Trong
những nguyên lý căn bản của đạo Phật, những điểm cốt yếu như
luật nhân quả, vô thường, vô ngã, và lý duyên khởi, đều được
khoa học kiểm chứng hay ít ra công nhận là có căn cứ.
-
Luật
nhân quả, tuy đã có trước đạo Phật nhưng đã được hòa hợp vào
giáo lý nhà Phật, chính là một trong những điểm tựa căn bản của
khoa học. Bởi vì tất cả những bước tiến của khoa học đều nhằm
thiết lập những tương quan từ nguyên nhân tới kết quả giữa các
hiện tượng quan sát. Có thể nói rằng cũng như đạo Phật, phần lớn
các nhà khoa học, từ Galilei tới Einstein đều theo thuyết quyết
định (déterminisme). Sau này mới xuất hiện thuyết vô định
(incertitude) của Heisenberg áp dụng trong vật lý nguyên tử, và
định lý không thể quyết định (indécidabilité) của Gưdel, đặt lại
vấn đề căn bản của sự hiểu biết.
-
Vô
thường là một gạch nối giữa Đông và Tây, bởi vì đồng thời với
đức Phật Thích Ca, hiền triết Hy Lạp Héraclite cũng đã nhấn mạnh
vào khía cạnh lưu chuyển không ngừng của sự vật (panta rhei):
"Người ta không bao giờ tắm hai lần ở một giòng sông" (và ngay
một lần cũng không vì giòng sông luôn luôn biến đổi). Có những
triết gia khác như Parménide, Platon, và những tôn giáo thần
khải lại quan niệm rằng có những hiện hữu vĩnh cửu, đó là Thượng
Đế, là linh hồn, là tư tưởng. Điều đó dĩ nhiên không thể nào
chứng minh hay phủ nhận được. Nhưng trong cuộc sống hàng ngày,
vô thường là điều được thực nghiệm hiển nhiên nhất. Sinh học cho
ta biết mỗi giây phút có vô số biến chuyển trong mỗi động vật,
thực vật, và ngay cả khoáng vật. Hàng triệu tế bào sinh ra và
chết đi trong mỗi khoảnh khắc, trong da thịt, trong từng bộ phận
cơ thể chúng ta. Và ngay cả hàng tỷ nơ rôn mang tư tưởng của
chúng ta cho đến hơi thở cuối cùng cũng không ngừng biến đổi. Có
thể nói rằng vô thường chính là biểu hiện của thời gian, của sự
sống.
-
Vô ngã
là một nét đặc thù tinh hoa của đạo Phật, đồng thời là sợi dây
nối liền các ngành Nguyên Thủy và Đại Thừa. Ngược lai với đạo Bà
La Môn cho cái tiểu ngã cá nhân là một thực thể, một phần vĩnh
cửu của cái đại ngã tuyệt đối, đức Phật cho cái "ta" chỉ là một
ảo tưởng, một sự cấu kết tạm thời bởi ngũ uẩn. Đức Phật phủ nhận
mọi cá nhân như một thực thể có tự tánh, biệt lập khỏi vũ trụ.
-
Tại Tây
phương vào thế kỷ 18, ngược lại với Descartes đặt nền tảng lên
trên sự biểu tượng của cái "ta" (cogito, ergo sum), triết gia
người Anh David Hume, tuy không biết gì về giáo lý của đức Phật
hơn hai nghìn ba trăm năm trước, cũng quan niệm rằng cái "ta"
chỉ là một sự tập hợp các khái niệm trong ý thức, nối tiếp nhau
một cách liên tục và biến đổi luôn luôn. Sau này, khoa học cũng
mang lại nhiều luận chứng cho quan niệm vô ngã: chẳng hạn như cơ
thể con người bao gồm hàng chục cơ quan, hàng ngàn bộ phận, hàng
tỷ tế bào, càng đi sâu vào phân tích càng không biết đâu là cái
"ta". Ngay cả những tư tưởng, những cảm xúc, cũng không biết cái
nào có thể gọi là cái "ta". Hơn nữa, cơ thể con người luôn luôn
biến chuyển và không ngừng trao đổi với thế giới bên ngoài.
-
Gọi là
bên ngoài, nhưng thực ra là bên trong, bởi vì con người, về thể
xác cũng như tinh thần, nằm bên trong một thế giới vĩ đại, và có
liên quan ít nhiều với mọi thành phần trong thế giới đó. Nhờ
những phát hiện của vật lý vũ trụ, người ta có thể khẳng định
rằng con người chỉ là những hạt bụi của những ngôi sao xuất hiện
cách đây khoảng 14 tỷ năm. Sau những biến chuyển không ngừng, từ
những trạng thái cơ thể đơn bào cách đây 3 tỷ năm, rồi tới các
cơ thể đa bào, qua những loài cá, loài bò sát, loài chim, rồi
các động vật có vú, các loài khỉ, con người đã xuất hiện trên
trái đất này từ 2 triệu năm, cho tới chúng ta ngày hôm nay. Trải
qua bao nhiêu đổi thay, phân hóa (différenciation), đấu tranh,
thích ứng, loài người đã đạt tới vị trí tột đỉnh nhờ khối óc của
mình, có thể gọi là cơ quan tinh vi nhất của sự sống. Nhưng con
người cũng không thể quên được rằng mình chính là anh em bà con
với thú rừng, chim cá, sâu bọ, cỏ cây và ngay cả sỏi đá. Con
người tưởng mình đơn độc giữa hàng triệu loài sinh vật, hàng tỷ
tỷ ngôi sao, nhưng thật ra có những sợi dây vô hình nối liền
mình, trong không gian và thời gian, với vô số hiện hữu trong vũ
trụ. Hiểu được như vậy có lẽ Trần Tử Ngang đã không có câu thơ:
"Tiền bất kiến cổ nhân, Hậu bất tri lai giả. Niệm thiên đia chi
du du, Độc thương nhiên nhi thế hạ". (Ai người trước đã qua? Ai
người sau sắp tới? Ngẫm trời đất không cùng. Một mình rơi giọt
lệ). Hoặc Blaise Pascal đã không kêu lên: "Le silence éternel de
ces espaces infinies m'effraie" (Sự im lặng vô cùng của những
khoảng không gian vô tận làm tôi hãi sợ).
-
Tất cả
đều có liên hệ, tương quan mật thiết với nhau, phụ thuộc vào
nhau. Điều đó được ý thức một cách sáng tỏ trong đạo Phật, qua
nguyên lý duyên khởi: "Khi cái này có thì cái kia có, cái này
hiện thì cái kia hiện. Cái này không thì cái kia không, cái này
diệt thì cái kia diệt" (Trung Bộ Kinh). Cách đây không lâu, vật
lý hiện đại đã chứng minh điều đó, qua thí nghiệm quả lắc của
Foucault (luôn luôn đi về một hướng, dù đặt ở đâu trong không
gian), hay nghịch lý EPR (Einstein, Podolsky và Rosen: khi một
hạt nhân bị tan rã thành hai hạt A và B, mỗi hạt dường như "đoán
trước" được hướng đi của hạt kia). Các nhà khoa học xác nhận
rằng ở cấp vi mô cũng như ở cấp vĩ mô, vũ trụ bao gồm những mối
liên hệ hỗ tương và có một trật tự toàn bộ, không phân chia (3).
Khi một nhà khoa học nói: "Mỗi thành phần bao gồm toàn thể, và
toàn thể phản ánh mỗi thành phần", thì thật ra cũng không khác
gì câu thơ của một vị thiền sư: "Một hạt bụi chứa đựng cả vũ
trụ. Khi một đóa hoa nở, toàn thế giới hiển lộ". Hay lời của
Chandrakirti (Nguyệt Xứng), thuộc trường phái Trung Quán: "Ai
nhìn thấy một sự vật sẽ thấy tất cả mọi sự vật. Cái không của
một sự vật là cái không của tất cả mọi sự vật".
-
Để tóm
tắt lại, chúng ta có thể nói rằng đạo Phật và khoa học có nhiều
điểm chung với nhau:
-
1. Nền
tảng đặt lên trí tuệ, tuy rằng khoa học thuần lý trí, và đạo
Phật vượt qua khỏi lý trí.
-
2. Chủ
thể là con người, tự mình đạt tới trí tuệ do tu học.
-
3. Tinh
thần phê phán, cởi mở và khoan dung.
-
4. Tinh
thần thực tiễn, thực nghiệm.
-
5. Một
vũ trụ quan trong đó mọi sự vật đều có liên hệ mật thiết với
nhau, biến đổi không ngừng, theo những định luật tự nhiên.
-
Bên
cạnh đó, có vài điểm khác nhau là về mục tiêu và đối tượng: khoa
học không có chủ đích ngoài sự hiểu biết mỗi ngày một gần hơn sự
thật, trong khi đạo Phật lấy giải thoát làm cứu cánh. Khoa học
lấy cái "chân" làm tiêu chuẩn, lấy tất cả những gì có thể học
hỏi được làm đối tượng. Trong khi đó, đạo Phật không tách rời
"chân" và "thiện", và lấy cái tâm của con người làm đối tượng.
-
Như vậy
có thể khẳng định rằng đạo Phật và khoa học trong những nét
chính phù hợp với nhau và bổ túc cho nhau. Những kinh nghiệm của
đạo Phật không mẩy may chống đối với khoa học, mà còn có thể
giúp cho khoa học phát triển, đặc biệt về khoa học tâm thần. Còn
những hiểu biết của khoa học cũng không phủ nhận những nguyên lý
căn bản của đạo Phật, mà có thể giúp đạo Phật hiện đại hóa,
thích hợp với thời đại.
-
Con
người vừa cần đến khoa học, vừa cần đến một con đường hướng dẫn
tâm linh. Cách đây 500 năm, khi con người mới bắt đầu đi vào con
đường khoa học, nhà văn Rabelais đã mượn lời của nhân vật
Pantagruel để cảnh giác: "Science sans conscience n'est que
ruine de l'âme" (Khoa học mà không có lương tri chỉ đi tới sự
phá sản của tâm hồn).
-
Ngày
nay, khoa học đã lan rộng trong mọi lãnh vực, thấm nhuần mọi
khía cạnh của cuộc sống, thay đổi sâu xa lối nhìn của con người.
Các nhà khoa học đã lấn dần vào những lãnh vực ngày xưa dành
riêng cho các triết gia, các nhà tôn giáo, để lên tiếng về những
vấn đề của thời đại. Nhưng, vì sự hiểu biết mỗi ngày một rộng
lớn (hiện nay người ta ước lượng cứ mỗi 7 năm sự hiểu biết của
nhân loại lại tăng lên gấp đôi), cho nên khoa học không thể nào
tránh khỏi sự chuyên môn hóa và sự phân hóa thành những chi
nhánh nhỏ tách rời nhau. Chỉ có mở rộng những giao thông liên
lạc giữa các ngành khác nhau, mới có thể đi tới một sự hiểu biết
toàn diện về cuộc đời. Vả lại, biên giới mỗi ngày một thêm mỏng
manh giữa khoa học và triết học, giữa thể chất và tinh thần,
giữa ngoại cảnh và nội tâm.
-
II. Phần
thực tiễn:
Đạo Phật và những vấn đề thời đại liên quan tới khoa học
-
Thực tế
mà nhìn, chúng ta phải công nhận rằng khoa học kỹ thuật đã đi
sâu vào cuộc sống thường nhật, bao trùm mọi lãnh vực xã hội và
lôi cuốn con người với một sức mạnh không thể nào cưỡng lại
được. Chúng ta có thể coi nó như một dụng cụ mỗi ngày một tối
tân và lớn mạnh, hay tiêu cực hơn, như một cái trục lăn ép tất
cả những gì nằm trên đường đi của nó. Nhưng dù muốn hay không,
con người cũng cần tới khoa học kỹ thuật, cũng như cần tới kinh
tế xã hội. Hơn nữa, tách rời khoa học kỹ thuật khỏi những lãnh
vực khác là một điều không tưởng, vì tất cả đều liên quan mật
thiết với nhau, là Phật tử ai ai cũng biết rõ điều đó.
-
Điểm
thứ nhì là khi nói tới khoa học kỹ thuật, ai cũng thấy rõ có
những điều tích cực và những điều tiêu cực, hay nói một cách
khác, bao giờ cũng có "mặt trái của mề đay". Nhưng lên án một số
điều tiêu cực gây nên bởi khoa học kỹ thuật ngày hôm nay, cũng
chỉ là một thái độ tiêu cực, không lợi ích gì. Thiết tưởng chúng
ta nên cố gắng tìm hiểu một cách khách quan một số vấn đề đặt
lên bởi khoa học kỹ thuật, và tạm thời đề ra một số giải pháp
thích hợp với thời đại và soi sáng bởi những giá trị tinh thần
của đạo Phật.
-
Hơn
nữa, khoa học không phải từ trên trời rơi xuống: khoa học chỉ là
một phương tiện, các nhà khoa học cũng chỉ là những bộ phận
trong một guồng máy xã hội phức tạp, dưới sự chỉ huy của các nhà
lãnh đạo chính trị. Lịch sử đã cho ta thấy rõ một số trường hợp
lợi dụng khoa học trong những hành động vô nhân đạo. Áp dụng
khoa học ra sao hoàn toàn tùy thuộc ý chí của xã hội, của con
người.
-
Y học:
những phát triển và thực trạng
-
Trong
những ngành khoa học, ngành y được coi là gặt hái được nhiều
thành quả và lợi ích nhất cho nhân loại.
-
Một tấm
gương trong khoa học là nhà sinh học Louis Pasteur đã cứu sống
được bao nhiêu nhân mạng và mở đầu cho những chiến thắng của con
người trên bệnh tật.
-
Nhờ vệ
sinh, chích ngừa, thuốc kháng sinh, nhiều bệnh truyền nhiễm và
bệnh dịch ngày xưa vô phương cứu chữa đã được phòng ngừa và điều
trị một cách hữu hiệu. Phẫu thuật đã tinh vi tới mức độ vi phẫu,
dùng tia laser, thay bộ phận giả, ghép các bộ phận như thận,
tim, gan, v.v. Nhờ những máy siêu âm, nội soi, CT scanner, RMI,
người ta đã có thể nhìn xuyên qua cơ thể con người, và chẩn đoán
được nhiều trường hợp ung thư từ giai đoạn ban đầu. Thụ tinh
nhân tạo và thụ thai trong ống nghiệm đã mang lại hạnh phúc gia
đình cho bao nhiêu cặp vợ chồng hiếm muộn. Và trong chỉ vài năm
nữa, bản đồ génome của con người sẽ được xác lập, và sẽ là chìa
khóa mở cửa cho tiên đoán và điều trị bệnh tật từ gốc rễ.
-
Đó là
những thành quả của y học, những gì đang xẩy ra tại các nước tân
tiến. Nhưng sự thật lại khác hẳn tại các nước chậm tiến, nghĩa
là một phần lớn của nhân loại. Trong một báo cáo gần đây (4),
bác sĩ Nakajima, giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới (OMS), cho biết
"hơn một phần năm nhân loại sống trong một tình trạng cục kỳ
thiếu thốn, gần một phần ba trẻ em thiếu dinh dưỡng và một nửa
dân số không được dùng những thuốc men cần thiết nhất. Con người
sống trung bình trên 75 tuổi tại Hoa Kỳ, Nhật Bản, trong khi đó
tại Ouganda chỉ chung quanh 40 tuổi. Bốn mươi phần trăm tử vong
trên thế giới là do các bệnh truyền nhiễm, phụ sản và sơ sinh,
tức là các bệnh gần như là không còn thấy tại các nước tân
tiến". Ông kết luận: "Bệnh nghèo khó là bệnh giết hại nhiều nhất
trên thế giới. Đối với hàng triệu người phải tranh đấu mỗi ngày
để sống còn, thì viễn tượng kéo dài cuộc sống có thể có thể coi
như một hình phạt hơn là một điều tốt".
-
Thực
trạng của ngành y tế thế giới là như vậy. Một bên, tại các nước
chậm tiến, vấn đề y tế rốt cục lại là một vấn đề kinh tế: những
hiểu biết y học căn bản và hiện đại không được áp dụng cũng chỉ
vì thiếu phương tiện và tài chánh. Bên kia, tại các nước tân
tiến, y tế đã đạt được chất lượng cao, nhưng mỗi ngày một thêm
tốn kém, và trở thành một gánh nặng kinh tế cho toàn thể xã
hội.
-
Hơn nữa
tại đây, những tiến bộ của y học và sinh học lại gây nên một số
vấn đề mới.
-
Những
vấn đề mới của sinh học và y học
-
Đó là
những vấn đề sinh đạo đức (bioéthique) đặt ra bởi: ngừa thai và
phá thai, ghép bộ phận, thụ thai trong ống nghiệm (fécondation
in vitro), trợ tử (euthanasie), thay đổi di truyền, hay các bệnh
xã hội mới như ma túy, nhiễm trùng HIV.
-
Đa số
những vấn đề này chưa tìm được giải pháp thích hợp, vì phức tạp
và liên quan tới nhiều lãnh vực của cuộc sống, từ tâm lý, xã
hội, đạo đức cho tới luật pháp, kinh tế, với bao nhiêu quan điểm
khác nhau.
-
Những
vấn đề này dĩ nhiên quá mới mẻ đối với đạo Phật, cũng như đối
với các tôn giáo khác. Nhưng cái khác của đạo Phật là không có
Thánh kinh bắt các tín đồ phải đi theo một con đường cố định.
Người Phật tử phải biết khế cơ, khế lý, tức là làm thích hợp đạo
Phật vào mỗi hoàn cảnh đặc biệt.
-
Chẳng
hạn như vấn đề kiểm soát dân số, là một trong những vấn đề trọng
đại nhất trong những thập niên tới, không những cho các nước
chậm tiến mà còn cho cả toàn thế giới. Hiện nay trên trái đất có
khoảng 5 tỷ rưỡi người, và con số này được ước lượng sẽ nhân lên
gấp đôi trong khoảng hai ba chục năm tới. Mỗi năm có thêm 100
triệu người, hay mỗi ngày thêm 200 ngàn người nữa phải nuôi
thêm. Ngoại trừ một số nhà lãnh đạo tôn giáo, tất cả những nhà
khoa học, xã hội, kinh tế, chính trị có tinh thần trách nhiệm
đều đồng ý với nhau rằng đó là một vấn đề then chốt cho tương
lai nhân loại, bắt buộc phải dùng đến những biện pháp hạn chế
sinh đẻ hữu hiệu.
-
Tuy
rằng vấn đề này chưa đặt ra vào thời đức Phật Thích Ca (dân số
thế giới lúc bấy giờ chỉ mới có vài trăm triệu), nhưng chúng ta
có thể nghĩ rằng với mục tiêu diệt khổ, đạo Phật không có lý do
nào chống đối sự kiểm soát dân số và hạn chế sinh đẻ, ngược lại.
Nếu quá đông dân số đưa tới nghèo nàn, lạc hậu, tức là khổ đau,
thì phải chống lại nguyên nhân của khổ đau, tức là phải hạn chế
sinh đẻ, điều đó rất rõ rệt. Khác với các tôn giáo thần khải,
quan niệm rằng sự sống có tính chất thiêng liêng do Thượng Đế
ban cho con người, đạo Phật đặt sự sống trong vòng vô thường vô
ngã nhân duyên, nên không lấy sinh đẻ làm một tín điều bất khả
xâm phạm. Đối với đức Đạt Lai Lạt La, không những phải chủ
trương hạn chế sinh đẻ, mà còn "phải phát huy điều quan trọng
này nữa" (1).
-
Ngược
lại, phá thai là một hành động đi ngược lại với tôn chỉ không
giết hại (ahimsa) của đạo Phật, cũng là giới đầu tiên trong năm
giới. Đạo Phật dĩ nhiên không thể nào chủ trương phá thai, tức
là giết hại mầm sống đang nẩy lên trong lòng người mẹ. Vấn đề là
bắt đầu khi nào cái thai, lúc đầu chỉ là một số tế bào, trở
thành một con người, một mạng sống? Đối với một số nhà khoa học,
có thể coi là một mạng sống từ khi bắt đầu có hệ thần kinh, tức
là vào tuần thứ ba. Một số khác quan niệm rằng chỉ có thể gọi là
một con người khi có đầy đủ các bộ phận, tức là từ tuần thứ mười
hai. Trước đó, cái thai thuộc vào cơ thể người mẹ, và không có
lý do gì người mẹ không có quyền quyết định trên cơ thể của
mình. Tất cả những ai đã sống trong thời kỳ cấm phá thai còn ghi
sâu trong ký ức những trường hợp tử vong do phá thai dấu diếm,
thiếu vệ sinh gây nên bao nhiêu tang tóc, khổ đau. Dĩ nhiên, nên
ngừa thai hơn là phá thai, ai ai cũng đồng ý về điều đó. Phá
thai chỉ là điều bất đắc dĩ, khi tất cả các phương pháp ngừa
thai đều thất bại, và lúc đó phải để người mẹ cùng gia đình
quyết định. Con người phải tự trách nhiệm lấy mình, đó luôn luôn
là tôn chỉ của đạo Phật.
-
Vấn đề
chẩn đoán tiền sinh (diagnostic anténatal) cũng như vậy. Khoa
học ngày nay đã có khả năng chẩn đoán những bệnh tật của cái
thai trước khi sinh đẻ, từ những tật nhẹ cho tới những bệnh thể
sắc (maladies chromosomiques), có thể đưa tới điều trị trong tử
cung hoặc phá thai. Gần đây, đức Giáo Hoàng lại lên tiếng kết án
những phương tiện chẩn đoán tiền sinh, vì lý do tôn trọng tính
chất thiêng liêng của sự sống. Là Phật tử, chúng ta có thể nghĩ
rằng không có lý do gì cấm đoán sự hiểu biết trước khi sinh đẻ,
nếu sự hiểu biết này đưa tới những phương pháp điều trị hữu
hiệu. Lại một lần nữa, quyết định phải để cho người mẹ và gia
đình chọn lựa, với những dữ kiện khoa học khách quan và những
giá trị tinh thần của họ.
-
Những
vấn đề ghép bộ phận, thụ thai trong ống nghiệm, thay đổi di
truyền cũng không gặp chống đối gì trong đạo Phật. Lấy bộ phận
một người chết ghép cho một người bệnh để cứu sống người đó là
một hành động từ bi, cứu khổ của gia đình người chết, và cũng là
một thí dụ điển hình cho quan niệm vô thường, vô ngã. Nếu có
tinh thần đạo Phật thì các nước Tây phương đã không gặp tình
cảnh khan hiếm bộ phận ghép như ngày hôm nay.
-
Thụ
thai trong ống nghiệm chỉ là một kỹ thuật sinh học, không thay
đổi gì trong sự hình thành của con người bắt đầu từ hai tế bào
của người cha và người mẹ, cho nên cũng không đặt vấn đề gì cho
người Phật tử. Còn thay đổi di truyền dĩ nhiên là một vấn đề
quan trọng, nhưng tất cả vấn đề là làm theo chiều hướng nào. Nếu
sự thay đổi đó nhằm giảm bệnh tật, chống lại với khổ đau thì dĩ
nhiên phù hợp với đạo Phật. Nhưng nếu dùng những phương tiện đó
để tạo nên những dòng vô tính (clones), để phân biệt chia rẽ
những con người lẫn nhau, thì đạo Phật không thể nào chấp nhận
được. Ý thức được tầm quan trọng của vấn đề, các nhà trách nhiệm
khoa học, chính trị cũng đã cùng nhau soạn thảo những định luật
gắt gao để phòng ngừa những sự trệch đường nguy hại có thể xẩy
ra.
-
Gây
chết nhẹ nhàng hay trợ tử (euthanasie) hiện đang là một đề tài
thảo luận sôi nổi tại các nước tân tiến. Tại một số nước như Hoa
Kỳ, Hòa Lan, luật pháp tương đối khoan dung với những kẻ gây
chết nhẹ nhàng cho bệnh nhân đã tới giai đoạn chót, theo lời yêu
cầu của bệnh nhân và gia đình. Tại các nước khác, luật pháp
nghiêm ngặt hơn, và có những tôn giáo chống đối lại một cách
kịch liệt. Đối với người Phật tử, lấy mục đích diệt khổ làm
chính và quan niệm cuộc sống chỉ nằm trong vòng nhân duyên, thì
sự gây chết nhẹ nhàng cho một bệnh nhân tới giai đoạn chót, yêu
cầu ra đi một cách thanh thản, tránh cho gia đình kéo dài khổ
đau, có lẽ là điều không đáng bị kết án. Dù sao những quyết định
này quá hệ trọng để đặt trên vai một người, và có lẽ một ngày
kia sẽ được ủy quyền cho một Ủy Ban Sinh Đạo Đức (Comité
d'Ethique) trong mỗi cơ quan y tế.
-
Về ma
túy và nhiễm trùng HIV, là những bệnh của thời đại, thì đạo Phật
cũng có một thái độ rõ rệt: trong năm giới, có hai giới mà nếu
con người đi theo thì đã (gần như) tránh được hai bệnh này, tức
là không dùng những chất làm mờ ám tinh thần và không tà hạnh.
Nhưng đối với người đã phụ thuộc ma túy hay bị nhiễm trùng HIV
rồi, thì người Phật tử lại theo tinh thần từ bi hỷ xả, cố gắng
hết sức giúp đỡ, chữa chạy, cảm thông.
-
Vấn đề
môi trường
-
Nếu
khởi đầu, khoa học không có chủ đích ngoài sự hiểu biết trừu
tượng, vô tư, theo chiều hướng của Aristote, thì sau này khoa
học đã có một mục tiêu rõ rệt, đó là dùng sự hiểu biết để thống
trị thế giới, để làm chủ thiên nhiên.
-
Khuynh
hướng này đã xuất hiện tại Âu châu vào thế kỷ thứ 17 khi
Descartes đề xướng ra một phương pháp "để chúng ta trở thành như
người chủ, người sở hữu của thiên nhiên". Đó là một khúc quanh
quan trọng của lịch sử khoa học, một đề án mà nhân loại, khởi
đầu từ Tây phương, đã theo đuổi cho tới tận ngày hôm nay. Con
người không còn tìm hiểu thiên nhiên để ngắm cái đẹp của nó, mà
để làm chủ và khai thác nó bằng khoa học kỹ thuật.
-
Đề án
đó dã không gặp trở ngại nào về mặt tôn giáo, bởi vì trong Thánh
kinh đã có câu "Hãy sinh sôi nẩy nở trên toàn trái đất, và khắc
phục trái đất này". Chỉ có con người, đúng hơn linh hồn con
người, mới có tính chất thiêng liêng bởi vì Thượng đế tạo ra
theo hình ảnh hoàn mỹ của Ngài. Do đó, con người đứng một vị trí
trung tâm giữa vũ trụ và có quyền hành trên mọi động thực vật
trên thế giới này. Hơn nữa, theo Descartes, thể xác và tinh thần
hoàn toàn khác biệt với nhau, cũng như loài vật và con người.
Thể xác chỉ là vật chất trơ trụi, tuân theo định luật cơ học,
cũng như các động vật chỉ là những cái máy, cho nên sự sống tự
nó không có mẩy may nghĩa lý gì.
-
Quan
niệm của Descartes hiện nay gặp những chống đối từ nhiều chân
trời khác nhau, có kẻ gọi nó là một "đề án điên rồ", có kẻ gọi
nó là một thuyết "giả tạo" (artificialisme). Nhưng phải công
nhận rằng đề án đó đã đưa tới những phát triển mau chóng, mạnh
bạo của khoa học kỹ thuật, với những kết quả tích cực cũng như
tiêu cực của ngày hôm nay.
-
Theo
nhà nhân chủng học Louis Dumont (5), cuối thế kỷ 20 này có một
khúc quanh lịch sử mới, chấm dứt thuyết giả tạo của Descartes,
đó là khúc quanh sinh thái. Cách đây 30 năm, chữ "sinh thái"
(écologie) chỉ có nghĩa là tìm hiểu những tương quan giữa sinh
vật và môi trường. Nhưng ngày nay, nhờ các nhà khoa học, các nhà
chính trị, các hội đoàn, qua những phương tiện truyền thông báo
chí, sinh thái đã trở thành một lãnh vực quan trọng của cuộc
sống, với ý nghĩa bảo vệ môi trường, cho sự sống còn của trái
đất. Những nghiên cứu khoa học cho ta biết rằng trái đất giống
như một chiếc thuyền trong không gian, nhỏ bé, mỏng manh và hữu
hạn. Không khí bao quanh trái đất cũng vô cùng mỏng manh, và
những tài nguyên thiên nhiên không phải là vô tận trước sự khai
thác triệt để của con người. Mặc dầu rất muộn màng so với hành
động, nhưng tất cả đều ý thức rằng con người không thể tiếp tục
ô nhiễm địa cầu một cách vô trách nhiệm, bởi vì làm như vậy tức
là tự hủy hoại chính mình. Bằng chứng là các quốc gia đã chi
tiêu những số tiền khổng lồ để bảo vệ môi trường, gaz CFC gây lỗ
hổng ozone đã bị cấm, các vỏ hộp, chai có thể tuần hoàn lại
(recyclable) được sản xuất nhiều hơn, các hội nghị quốc tế về
sinh thái được tổ chức đều đều, và sinh thái học đã trở thành
một ngành chuyên môn như bao nhiêu ngành khác...
-
Đối với
đạo Phật, tôn trọng bảo vệ môi trường là một điều dĩ nhiên, tự
nhiên, không cần phải nói. Mọi hiện hữu đều liên hệ mật thiết
với nhau, phụ thuộc nhau, không tách rời nhau được, theo tinh
thần vô ngã, nhân duyên. Phá hủy môi trường tức là tự phá hủy,
và bảo vệ môi trường là một hành động sáng suốt, biết nhìn xa.
Nếu đức Phật Thích Ca sống giữa chúng ta ngày hôm nay, thì chắc
chắn ngài sẽ tranh đấu để bảo vệ môi trường.
-
Chiến
tranh và khoa học kỹ thuật
-
Lịch sử
loài người đầy rẫy những chiến tranh, tàn sát, phá hủy, tang
tóc, đầy rẫy những khổ đau do con người gây cho nhau. Nhưng
chiến tranh cũng là một động cơ thúc đẩy con người phát triển,
đa số các nhà sử gia, xã hội học đều phải công nhận như vậy.
Cũng như tục ngữ La tinh đã có câu "Si vis pacem, para bellum"
(Nếu muốn hòa bình, hãy sửa soạn chiến tranh), và câu của nhà
văn Plaute "Lupus est homo homini" đã được triết gia Hobbes lặp
lại: "Con người là một con chó sói đối với con người".
-
Trong
cuộc chiến, khoa học kỹ thuật đóng góp một vai trò quan trọng.
Điển hình là hai trái bom nguyên tử đầu tiên nổ trên Hiroshima
và Nagasaki cách đây 50 năm, vừa chấm dứt thế chiến thứ hai
nhưng cững mở đầu cho chiến tranh lạnh và một cuộc chạy đua vũ
khí không ngừng. Để chế tạo khí giới kinh hoàng đó, một ngàn nhà
khoa học, trong đó vô số giải thưởng Nobel, đã làm việc gấp rút
trong 3 năm trời, chung quanh một công trình trị giá một trăm tỷ
đô la. Liệu hai trái bom này có kết lìễu chiến tranh mau hơn hay
không, và có tránh cho nhân loại nhiều cuộc chiến tàn hại hơn
sau này hay không? Lịch sử sẽ trả lời. Chỉ có một điều chắc
chắn: khoa học đã mang lại cho con người những phương tiện tàn
phá khủng khiếp, có thể trong một khoảnh khắc phá hủy cả nhân
loại và thế giới. Ý thức được hiểm họa này, các nhà lãnh đạo
cường quốc đã bắt đầu thương nghị và đi tới một số hợp đồng về
ngăn chận nguyên tử và giảm bớt một số khí giới. Nhưng chưa có
một dấu hiệu nào chứng tỏ rằng các quốc gia tin cậy ở nhau và có
thiện chí hủy bỏ khí giới nguyên tử. Trong khi đó, nghiên cứu về
các khí giới mới vẫn tiếp tục, và các xưởng chế tạo khí giới làm
giầu hơn bao giờ hết nhờ những cuộc chiến địa phương vẫn không
ngừng tiếp diễn.
-
Mới
đây, chiến tranh vùng Vịnh đã chứng tỏ tầm quan trọng của những
khí giới tân tiến như tên lửa chỉ huy bởi điện tử, tia laser, vệ
tinh quan sát và truyền thông. Kiểm soát không trung vùng quanh
trái đất đã trở thành một mục tiêu quân sự quan trọng của các
cường quốc. Từ vệ tinh đầu tiên Spoutnik năm 1957, qua những
bước đầu tiên của con người trên mặt trăng năm 1969, tới tầu con
thoi không trung (navette spatiale) Challenger, mục đích vẫn là
chiếm ngự không trung để kiểm soát trái đất. Thêm vào đó là mục
tiêu kinh tế, với những vệ tinh truyền thông mang lại những
thông tin, hình ảnh trên toàn thế giới.
-
Thái độ
của đạo Phật đối với bạo lực, chiến tranh từ xưa tới nay rất rõ
rệt. Đạo Phật chủ trương không giết hại, bất bạo động (ahimsa),
tức là dùng từ bi chống lại bạo tàn, dùng trí tuệ chống lại sân
hận, nhưng không quên lòng dũng cảm. Trong các loại bố thí, có
vô úy thí, nghĩa là mang lại sự không sợ hãi, sự dũng cảm trước
bạo lực. Yêu chuộng hòa bình không có nghĩa là thụ động, là chịu
đựng tất cả những áp bức, bạo lực, là từ chối đấu tranh. Nhưng
đấu tranh với tinh thần bất bạo động, theo gương sáng của
Mahatma Gandhi. Chỉ bằng ý chí bất khuất của mình, một dân tộc
đã hàng phục một cường quốc, đã tranh giành được độc lập, không
đổ máu, không gây tang tóc như bao nhiêu cuộc chiến khác. Bạo
động dễ, nhưng bạo động chỉ gây nên bạo động, và phá hủy. Bất
bạo động khó, bởi vì cần đến một sức mạnh tinh thần vô biên, cần
đoàn kết chung quanh bi, trí, dũng, nhưng kết quả mới tốt đẹp
làm sao!
-
Khoa
học kỹ thuật trong các lãnh vực khác
-
Điều hiển nhiên là những phát minh lớn của khoa học và
những bước tiến của kỹ thuật đã thay đổi một cách sâu đậm lối
sống của con người. Kể từ nền văn minh "khoa học", con người sẽ
khó lòng trở lại những giai đoạn "thần thoại" và "siêu hình"
thuở ban đầu, tuy rằng vẫ còn quá nhiều mê tín dị đoan. Nhờ máy
móc, con người đỡ mệt nhọc trong công việc làm. Trong công
nghiệp cũng như trong nông nghiệp, năng xuất được tăng trưởng,
thời gian làm việc rút ngắn hơn. Những phương tiện di chuyển
giao thông giúp con người đi lại dễ dàng, mau chóng. Với những
phương tiện truyền thông hiện đại, những máy điện tử, con người
nay có khả năng thông tin truyền đạt những hiểu biết trong chớp
mắt, từ những nơi cách nhau xa cả ngàn cây số. Và những bước
tiến này mỗi ngày một nhanh, với những hậu quả không thể lường
được. Nói như hai nhà tương lai học Alvin và Heidi Toeffler (6),
thế giới đang đi vào làn sóng thứ ba, làn sóng của tin học hay
siêu biểu tượng (supersymbolique), sau hai làn sóng nông nghiệp
và công nghiệp. Đó là một cuộc cách mạng lớn, mà trong đó khoa
học kỹ thuật, điều khiển bởi trí óc con người, sẽ đóng một vai
trò quan trọng.
-
Mặt
trái của sự phát triển này là khoa học kỹ thuật, bằng máy móc và
điện tử, đã thay đổi con người, không những về lối sống mà còn
về cách nhìn cuộc đời. Thử nhìn con cháu chúng ta, sẽ thấy chúng
đã khác chúng ta đến như thế nào. Chúng coi máy truyền hình,
chơi máy điện tử nhiều hơn là đọc sách, nô đùa giữa thiên nhiên.
Con người hiện đại có khuynh hướng trở thành máy móc, chạy đua
với thời gian, chạy theo tiện nghi vật chất, tự trói buộc mình
vào những nhu cầu tạo ra bởi quảng cáo, thị trường. Từ đó đưa
tới bao nhiêu lo lắng, căng thẳng, đôi khi tới khủng hoảng tinh
thần. Stress đã trở thành bệnh của thời đại, và thuốc an thần đã
trở thành loại thuốc được tiêu thụ nhiều nhất trong các nước kỹ
nghệ hóa, đó là chưa kể những vấn đề gây nên bởi đô thị, bạo
động, ma túy, v.v.
-
Xã hội
đã đi tới một tình trạng mà liên hệ giữa con người với vật chất
đã trở thành ưu tiên trên liên hệ giữa những con người. Kinh tế
đã trở thành lãnh vực đầu tiên của cuộc sống, đối với xã hội
cũng như cá nhân, bất cứ ở nơi nào trên thế giới. Dù muốn hay
không, con người cũng bị lôi cuốn bởi kinh tế thị trường (hiện
nay là hệ thống kinh tế duy nhất còn lại), và dốc mình vào làm
việc, sản xuất để kiếm tiền và tiêu thụ.
-
Nhưng
ngày hôm nay, chính những nhà kinh tế, chính trị, xã hội học
cũng phải đặt lại vấn đề căn bản của chiều hướng kinh tế thế
giới. Làm sao có thể tiếp tục chạy theo sản xuất để tiêu thụ,
tăng trưởng để tăng trưởng, như một cái xe lao mình về phía
trước, không kiểm soát được tốc độ và định hướng của mình? Tiếp
tục chiều hướng này liệu có mang lại gì cho hạnh phúc con người,
mà xét cho cùng, là mục tiêu tối hậu của cuộc sống? Nhiều người
đang tìm kiếm một mẫu mực kinh tế xã hội mới, trong niềm tin
chắc chắn rằng chỉ có một sự thay đổi toàn diện, một cuộc cách
mạng văn hóa thực sự, mới có thể lôi kéo nhân loại ra khỏi hiểm
họa một cơn khủng hoảng lớn trên bình diện địa cầu.
-
Vấn đề
là làm sao thay đổi hẳn chiều hướng xã hội, để con người làm
kinh tế không phải là để chạy theo tiền bạc, làm khoa học không
phải để làm chủ thiên nhiên, mà để sống trong hạnh phúc thực sự,
hòa hài giữa những con người và vũ trụ.
-
Để kết
luận một cách giản dị: đạo Phật và khoa học có thể cùng nhau
mang lại chân hạnh phúc cho con người; được hay không, điều đó
hoàn toàn tùy thuộc ở cái tâm con người.
-
(Đầu
thu 1995) Tài liệu trích dẫn
-
(1)
S.S. le Dalai Lama, J.C. Carrière. La force du bouddhisme.
Robert Laffont 1994
-
(2)
Rencontre avec Francisco Varela. Revue Sciences Humaines
8-9/1993
-
(3)
Trịnh Xuân Thuận. La mélodie secrète. Fayard 1988
-
(4)
Journal Le Monde,
4/5/1995
-
(5)
Journal Le Monde, Un entretien avec Louis Dumont, 23-24/4/1995
-
(6)
Heidi & Alvin Toeffler. Créer une nouvelle civilisation: la
politique de la troisième vague. Fayard 1995
-
Source: BuddhaSasana Home Page http://www.saigon.com/~anson/
- --o0o--
|
|