|
- Thư Viện Chùa Dược Sư
- PHẬT HỌC CƠ BẢN
-
VÔ MÔN QUAN
-
Huệ Khai
-
Hui kai (C.), Ekei (J.)
- Người Dịch:
Trần Trúc Lâm
- --o0o--
-
-
(từ
Cuốn Zen Flesh - Zen Bones của Paul Reps - Nhà xuất bản The
Charles E. Tuttle Company, Tokyo; Lần thứ nhất: 1957, lần thứ
sáu: 1963).
-
Nếu bạn
hảo ngọt và muốn sống dễ dãi thì xin đừng đọc cuốn sách này. Nó
chỉ dành cho những người cương quyết mưu cầu giác ngộ, mưu cầu
satori.
-
Điều ấy
có thể xảy đến với bạn. Trong một nháy mắt nó mở ra. Bạn là một
người hoàn toàn mới. Bạn nhìn sự vật không giống như trước.
-
Cái
năng lực mới mẽ này đến bằng chứng ngộ chứ không bằng lý luận.
Bất cứ bạn làm gì hay ở đâu đều chẳng có gì khác biệt. Nó không
tạo ra lý. Nó tạo ra bạn.
-
Những
đề thoại đầu cổ xưa của Trung Hoa này, gọi là công án, cốt giúp
thiền sinh đọạn tuyệt với say mê chữ nghĩa và phiêu lưu tư
tưởng. Khi một thiền sinh quán chiếu về một công án, đó là một
cách muốn nói rằng: Đừng phung phí đời bạn chỉ để mò mẫm; hãy
hướng suy nghĩ và cảm quan vào một mục đích - và rồi hãy để cho
nó xảy ra.
-
Phải
chăng nghệ thuật khai sáng cho con ngưòi này đã mất dấu? Không!
nếu bạn biết để tâm - hay những gì khác nữa - của bạn vào nó.
Nếu những nhà lãnh đạo của nhân lọai ý thức hơn về điều này, để
khi họ có đượﯣ chút quyền nhỏ nhoi, họ bóc lột kẽ khác ít hơn.
-
Những
thiền sư xưa này thường khai ngộ cho môn đệ bằng chỉ trích, hay
ngay cả thét đánh. Khi các ngài khen ngợi có nghĩa là đã xem
thường. Đó là thói quen. Các ngài rất quan tâm đến các đệ tử của
họ nhưng bộc lộ nó trong hiện tiền, chứ không bằng lời lẽ. Họ là
những người kiên cường, những người gây kích động. Họ ban cho
những câu hỏi mà câu trả lời là sự sống của một người.
-
Vậy câu
trả lời đúng cho công án là gì? Có rất nhiều và cũng chẳng có
câu nào. Ở Nhật có một cuốn sách rất hiếm, cố đề ra những câu
trả lời thỏa đáng cho những câu hỏi khai tâm này. Thật là trò
buồn cười!
-
Bởi vì
công án cũng chính là câu trả lời, và khi đã có một câu trả lời
thỏa đáng thì Thiền đã chết.
- *
* *
-
Đoạn
sau là phần tóm lược lời mở đầu của ấn bản Anh ngữ đầu tiên của
cuốn sách này.
-
Giáo
pháp của Đức Phật đã được truyền bá ở Ấn độ năm trăm năm trước
Jesus và hằng ngàn năm trước Mohammed. Ngày nay đạo Phật là một
trong những tôn giáo lớn cuả nhân lọai, cổ hơn cả Thiên chúa
giáo và Hồi giáo.
-
Từ thế
kỷ thứ nhất T.L., kinh Phật đã được dịch ra Hán văn bởi nhiều
dịch giả Ấn và Hoa, từ triều đại này đến triều đại khác. Tuy
nhiên tinh túy của Phật giáo lại được truyền sang Trung quốc vào
năm 520 T.L. bởi Bồ Đề Đạt Ma, được xem như là Tổ thứ Nhất tông
phái Thiền Trung Hoa. Yếu tính đạo giải thoát từ Đức Phật Thích
Ca đã được thiền sư tỉnh tọa Bồ Đề Đạt Ma lưu chuyển và đệ tử
của ngài nối tiếp, rồi truyền thừa cùng một cách qua biết bao
thế hệ. Nhờ đấy mà Thiền du nhập, nuôi dưỡng và truyền bá khắp
Trung quốc, rồi đến Nhật bản.
-
Chữ
Nhật ZEN - chữ Hán CH’AN, chữ Phạn DHYANA - (dĩ nhiên chữ Viêt
là THIỀN, LND.) - có nghĩa là trầm tư mặc tưởng, để ngộ được
điều mà Phật đã ngộ, sự giải thóat của tâm. Nó cung cấp một lối
tự quán chiếu, thường là dưới sự chỉ dạy của một thiền sư.
-
Thiền
có nhiều bản kinh, mà cuốn sách này là một, Mu-mon-kan (Vô Môn
Quan hay Mậu Môn Quan) - thoát ý là "cửa không chắn" - đã được
ghi lại bởi Thiền sư Trung Hoa Huệ Khai, cũng còn gọi là Vô Môn,
sống từ năm 1183 đến năm 1260. Tác phẩm gồm những mẫu đối thọai
giữa các tổ và đệ tử, vẽ cho thấy lối xóa bõ khuynh hướng nhị
nguyên, hướng ngoại, bao quát, và trí thức của các đệ tử để đạt
đến bản lai diện mục, thực tính. Những vấn đề hay những thử
thách nội tại mà các thiền sư hay dùng để đối chất với các đệ tử
đươcọi
là công án, và mỗi câu truyện kể sau chính nó là một công án.
-
Nhữ?
câu truyện dùng cả đến chữ phàm tục để phản ảnh pháp môn thâm
hậu, quán chiếu vào nội tâm của mình. Thảng hoặc có vài trường
hợp xem ra thô bạo nên được hiểu như là sinh động và thành tâm.
Không có câu truyện nào cố làm ra vẻ luận lý. Chúng nhắm vào
trạng thái của tâm chứ không phải vào chữ nghĩa. Nếu không hiễu
được điều này thì trọng điểm của cổ kinh bị nhìn sai lệch. Toàn
thể thâm ý là giúp cho thiền sinh phá vỡ được cái vỏ của đầu óc
hạn chế mà đạt đến được lần sinh thứ hai miên viễn, satori, giác
ngộ.
-
Mỗi
thoại đầu là một lớp cản. Ai có được tinh thần Thiền đều đi qua
dễ dàng. Ai sống trong Thiền hiễu được hết công án này đến công
án khác, theo lối của mình, mà thấy những cảnh giới không thể
thấy và sống trong vô hạn.
- *
* *
-
Vô-Môn
Huệ Khai đã viết những lời này trong phần giới thiệu của cổ
kinh.
-
"Thiền
không có cửa. Chủ đích của lời Phật dạy là để giác ngộ kẽ khác.
Vì vậy mà Thiền phải không có cửa.
-
"Một
người muốn đi qua cổng không cửa phải làm thế nào bây giờ? Có
người bảo thứ gì qua lại cỗng đều không phải là của gia bảo,
rằng thứ gì tạo ra do sự giúp đở của người khác thì đều bị tan
rã và hũy hoại.
-
"Những
lời nói như thế chẳng khác gì sóng nỗi giửa bễ lặng hay mỗ xẻ
thân người lành mạnh. Nếu kẽ nào bám cứng vào những gì người
khác nói và cố gắng hiễu Thiền bằng lý giải thì kẽ ấy chẳng khác
gì tên đần độn nghĩ rằng hắn có thể dùng gậy đập được mặt trăng
hay gãi chỗ ngứa chân từ bên ngòai chiếc giày. Không bao giờ có
thể được.
-
"Vào
năm 1228 ta thuyết pháp cho chư tăng tại chùa Ryusho ở phía đông
Trung quốc, và do lời yêu cầu của họ ta kể lại những công án cỗ,
với mong ước khơi dậy tinh thần Thiền của họ. Ta dụng ý dùng
công án như một kẽ nhặt viên gạch để gõ cửa, sau khi cửa mở thì
viên gạch chẳng còn hữu dụng nữa và bị ném đi. Lời ta, không ngờ
lại được góp nhặt, và có đến bốn mươi tám công án, ta thêm vào
lời bàn và kệ cho mỗi bài, tuy vậy sự sắp xếp lại không theo thứ
tự đã kể. Ta gọi cuốn sách là Vô Môn Quan, mong rằng thiền sinh
đọc nó như một cẩm nang.
-
"Nếu
độc giả nào mạnh dạn tiến thẳng về phía trước trong quán chiếu,
không ảo tưởng nào có thể quấy họ được. Ho sẽ liễu ngộ chẳng
khác gì chư tổ ở Ấn và Hoa, có thể còn khá hơn. Nhưng nếu họ
ngập ngừng dù một giây lát, họ sẽ như kẽ đứng nhìn người cỡi
ngựa phi qua cửa sổ, và trong nháy mắt chẳng kịp trông thấy.
-
"Đại
đạo không có cỗng,
-
Ngàn
lối đi vào nó.
-
Khi ai
đi qua được cửa không này
-
Thì
thong dong giữa đất trời."
-
1. CON
CHÓ CỦA JOSHU (TRIỆU CHÂU TÙNG THẪM 778-897 - LND)
-
Một vị
sư hỏi Triệu Châu, một thiền sư Trung Hoa:
-
"Con
chó có Phật tánh không?"
-
Triệu
Châu trả lời: "KHÔNG"
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Để ngộ Thiền ta phải vượt qua rào cản của chư tổ.
Giác ngộ luôn đến sau khi lối suy nghĩ bị chắn.
-
Nếu
ngươi không vượt qua rào cản của chư tổ, hoặc lối suy nghĩ không
bị chắn, thì bất cứ điều gì ngươi nghĩ, điều gì ngươi làm đều
giống như bóng ma vướng mắc. Ngươi có thể hỏi: Rào cản của tổ là
gì? Một chữ thôi, KHÔNG, là nó.
-
Đó là
rào cản của Thiền. Nếu ngươi vượt qua được, ngươi có thể diện
kiến Triệu Châu. Ngươi có thể tay nắm tay cùng với chư tổ. Có
thú vị không?
-
Nếu
ngươi muốn vượt qua rào cản này, ngươi phải vận dụng tất cả
xương cốt trong thân ngươi, tất cả lổ chân lông của da ngươi,
ngẫm nghĩ câu hỏi này: KHÔNG là cái gì? và mang nó theo ngày và
đêm. Chớ nên cho nó là biểu tượng tiêu cực thông thường có nghĩa
là không có gì. Nó không phải là trống không, đối lại với hiện
hữu. Nếu ngươi thực muốn vượt qua rào cản này, ngươi phải có cảm
giác như ngậm một viên sắt nóng mà ngươi không thể nuốt vào hay
khạc ra.
-
Rồi sự
thiển cận trước kia của ngươi biến mất.Và như trái cây chín mùa,
cái nhìn chủ quan và khách quan của ngươi trở thành một. Nó như
kẽ câm nằm mộng, hắn biết đấy nhưng không thể nói ra được.
-
Khi
thiền sinh vào được trạng thái này thì cái vỏ tự-ngã của y bị
đập vỡ và y có thể lay trời và dời đất được. Y sẽ như là một
chiến sĩ vô địch với lưởi gươm bén. Nếu Phật đứng chắn lối, y sẽ
chém nhào; nếu tổ gây trở ngại, y sẽ giết ngay; và y sẽ được tự
do ra vào cõi sinh tử. Y có thể nhập bất cứ cảnh giới nào cứ như
là vào sân chơi nhà mình. Ta sẽ nói cho ngươi biết cách làm được
như thế với công án này:
-
Hãy tập
trung tất cả năng lực của ngươi vào chữ KHÔNG này, và không bao
giờ ngưng nghỉ. Khi ngươi vào được KHÔNG này và chẳng hề ngưng
nghỉ, sự liễu ngộ của ngươi sẽ như ngọn đèn cháy và chiếu sáng
toàn thể vũ trụ.
-
Con chó
có Phật tánh không?
-
Đây là
câu hỏi nghiêm trọng nhất.
-
Nếu
ngươi nói CÓ hay KHÔNG,
-
Ngươi
đánh mất Phật tánh của chính ngươi.
-
2. CON
CHỔN CỦA TỒ BÁ TRƯỢNG (HYAKUJO)
-
Cứ mỗi
lần Bá Trượng thuyết pháp, một ông lão đến nghe mà tăng chúng
không hề thấy. Khi buổi giảng chấm dứt tăng chúng rời chỗ thì
ông lão cũng ra về. Nhưng một ngày kia ông lão lại ở lại, Bá
Trượng hỏi: "Ông là ai?"
-
Ông lão
trả lời: "Tôi không phải là người, nhưng tôi vốn là người khi
Đức Phật Kashapa còn tại thế. Tôi là một thiền sư tu tại núi
này. Bấy giờ, một trong những đệ tử của tôi hỏi rằng nột người
đã giác ngộ thì có còn chịu luật nhân quả không. Tôi trả lời:
‘Kẽ giác ngộ không còn chịu luật nhân quả nữa.’ Vì câu trả lời
này, do còn vướng mắc với tuyệt đối, mà tôi đã biến thành con
chồn hơn năm trăm kiếp rồi, và tôi vẫn còn là chồn. Xin ngài hóa
độ cho tôi bằng pháp ngôn của ngài để tôi thoát khỏi kiếp chồn?
Bây giờ tôi xin hỏi ngài: Kẽ đã giác ngộ thì có còn chịu luật
nhân quả không?"
-
Bá
Trượng bảo: "Kẽ đã giác ngộ là một người vẫn chịu luật nhân
quả."
-
Sau câu
ấy, ông lão thoắt ngộ.
-
"Tôi đã
được giải thoát," ông lão nói và cúi lạy. "Tôi không còn là chồn
nữa, nhưng tôi phải để xác lại trong một cái hang sau núi. Xin
được chôn cất theo lễ chư tăng." Rồi ông biến mất.
-
Hôm sau
Bá Trượng ra lệnh tăng trưởng chuẩn bị tang lễ cho một tăng sĩ.
"Chẳng có ai mắc bệnh cả," tăng chúng thắc mắc. "Sư phụ có ý
gì?"
-
Sau
trai phạn, Bá Trượng dắt tăng chúng đi vòng ra sau núi. Trong
một cái hang, ngài
-
dùng
gậy kéo ra một cái xác của con chồn già và thực hiện lễ hỏa
thiêu.
-
Đêm đó
Bá Trượng kể lại câu chuyện và giảng về luật nhân quả.
-
Sau khi
nghe chuyện, Obaku hỏi Bá Trượng: "Con hiễu rằng ngày xưa có kẽ
chỉ vì trả lời sai một câu hỏi Thiền đã biến thành con chồn năm
trăm kiếp. Vậy ngày nay "Nếu một thiền sư trả lời đúng hết các
câu hỏi thì việc gì sẽ xảy ra?"
-
Bá
Trượng bảo: "Hãy đến gần đây ta sẽ nói cho nghe."
-
Obaku
đến gần và tát thầy một cái, vì y biết rằng đó là câu trả lời mà
sư phụ sẽ ban cho.
-
Bá
Trượng vỗ tay cười cho sự sáng trí của đệ tử. "Ta tưởng rằng
người tây trúc có bộ râu đỏ," ngài nói, "và bây giờ ta biết một
người tây trúc có bộ râu đỏ."
-
Lời bàn
của Vô-Môn: "Kẽ giác ngộ không phải là đối tượng." Làm thế nào
mà câu trả lời này biến một tăng sĩ thành con chồn?
-
"Kẽ
giác ngộ là một người vẫn chịu luật nhân quả." Làm thế nào mà
câu trả lời này làm cho chồn được giải thóat?
-
Muốn
hiểu rốt ráo được điều này, người ta phải chột một mắt.
-
Chế ngự
hay không chế ngự?
-
Cùng
con súc sắc bày hai mặt.
-
Không
chế ngự hay chế ngự,
-
Cả hai
đều sai lầm thê thảm.
-
3. NGÓN
TAY CỦA CỤ CHỈ HOÀ THƯỢNG (GUTEI)
-
Cụ Chỉ
thường đưa một ngón tay lên khi được hỏi một câu về Thiền. Một
cậu bé thị vệ bắt chước theo. Khi có người hỏi cậu rằng sư phụ
của cậu giảng dạy điều gì vậy thì cậu liền đưa lên một ngón tay.
-
Chuyện
tinh nghịch của cậu bé đến tai Cụ Chỉ. Ngài liền nắm lấy cậu và
cắt đứt ngón tay. Cậu bé la khóc và chạy mất. Cụ Chỉ gọi cậu
dừng lại. Khi cậu bé quay lại nhìn thầy, Cụ Chỉ đưa lên một ngón
tay của ngài. Ngay tức khắc, cậu bé liễu ngộ.
-
Khi Cụ
Chỉ gần qua đời, ngài cho gọi toàn tăng chúng lại. "Ta đạt đến
Nhất chỉ Thiền," ngài bảo, "từ sư phụ của ta là Thiên Long Hòa
Thượng (Tenryu), và cả một đời ta vẫn chưa tận dụng nó." Nói
xong ngài thị tịch.
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Giác ngộ, điều mà Cụ Chỉ và cậu bé đạt đến, không
dính líu gì đến ngón tay cả. Nếu ai cứ mãi bám chặt vào cái ngón
tay thì Thiên Long Hòa Thượng bực mình đến độ sẽ tiêu hũy luôn
cả Cụ Chỉ, cậu bé và kẽ dính mắc.
-
Cụ Chỉ
rẽ rúng pháp môn của Thiên Long,
-
Giải
thóat cậu bé bằng lưởi dao.
-
So với
vị thần Tàu di sơn đảo hải.
-
Thì lão
Cụ Chỉ thật đáng thương.
-
4. TÊN
NGỌAI NHÂN KHÔNG RÂU
-
Wakuan
than phiền khi nhìn thấy tranh Bồ Đề Đạt Ma đầy râu rậm: "Tại
sao gã không có râu nhỉ?"
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Nếu ngươi muốn học Thiền, phải học với quả tim. Khi
ngươi đạt được liễu ngộ, thì phải thực liễu ngộ. Chính ngươi
phải có gương mặt của Đại Tổ Bồ Đề mới thấy được ngài. Chỉ
thoáng nhìn cũng đũ rồi. Nhưng nếu ngươi bảo đã gặp ngài thì
ngươi chưa hề thấy ngài.
-
Người
ta không nên bàn đến mộng
-
Trước
mặt một tên khùng.
-
Tại sao
Bồ Đề Đạt Ma không có râu?
-
Thực là
câu hỏi vô lý!
-
5.
KYOGEN LEO LÊN CÂY
-
Kyogen
bảo: "Thiền cứ như một người đu lơ lững trên vực sâu răng cắn
chặt vào cây. Tay không nắm được cành, chân không tựa vào nhánh,
và bên dưới có kẽ hỏi: "Tại sao Bồ Đề Đạt Ma lại từ Ấn Độ đến
Trung Hoa?"
-
"Nếu
người đu cây không trả lời, hắn thua; và nếu trả lời, hắn rơi
tòm mất mạng. Vậy hắn phải làm gì nào?"
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Trong tình huống đó, mọi tranh biện tài tình đều vô
ích. Nếu ngươi thuộc hết tam tạng kinh điễn, ngươi chẳng dùng
được. Khi ngươi có câu trả lời đúng, dù con đường quá khứ là
đường tử, ngươi mở ra được con đường sinh mới. Nhưng nếu ngươi
không trả lời được, ngươi phải sống đến bao đời để hỏi Phật
tương lai, Phật Di Lặc.
-
Kyogen
là kẽ gàn
-
Reo rắc
độc dược diệt-ngã-mạn đó
-
Làm câm
miệng các môn đồ
-
Và để
nước mắt tuôn trào từ đôi mắt chết của họ.
-
6. PHẬT
XOAY MỘT CÀNH HOA
-
Khi Đức
Phật ngự tại núi Linh Thứu (Grdhrakuta), Ngài xoay một cành hoa
trong tay và đưa ra trước thính chúng. Mọi người đều im lặng.
Duy chỉ có Ma Ha Ca Diếp (Maha Kashapa) mỉm cười, nhưng vẫn cố
giữ nghiêm nét mặt.
-
Đức Thế
Tôn bảo: "Ta có nhãn tạng của chánh pháp, tâm của Niết bàn, thực
nhận của vô tướng, và Giáo pháp vi diệu khó nghĩ bàn. Không thể
diễn bằng lời, mà chỉ biệt truyền ngoài giáo lý. Giáo pháp này
ta giao lại cho Ma Ha Ca Diếp."
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Phật mặt vàng tưởng rằng có thể lừa được mọi người.
Ngài làm cho chư thiện tri thức trở nên lố bịch, và mượn đầu heo
bán thịt chó. Và ngay cả ngài cũng nghĩ rằng như thế là tuyệt.
Nếu toàn thính chúng đều cười cả thì sao? Làm thế nào ngài có
thể truyền giáo pháp? Và lại nữa, nếu Ma Ha Ca Diếp không mĩm
cười, làm thế nào ngài có thể truyền giáo pháp? Nếu ngài bảo
rằng sự liễu ngộ có thể truyền thừa, thì rõ ngài cũng giống như
tên bịp thị thành lừa anh nhà quê khờ khạo, và nếu ngài bảo rằng
nó không thể truyền thừa được thì tại sao ngài lại giao phó cho
Ma Ha Ca Diếp?
-
Khi
xoay cành hoa
-
Sự vờ
vỉnh của Ngài đã bị lộ.
-
Không
ai trong vòng thiên địa có thể hơn được
-
Gương
mặt nhăn vết của Ma Ha Ca Diếp.
-
7. TRIỆU
CHÂU TÙNG THẪM RỬA BÁT
-
Một vị
tăng thưa với Triệu Châu: "Con vừa nhập thiền thất, Xin chỉ
dạy."
-
Triệu
Châu hỏi: "Con đã ăn cháo chưa?"
-
Vị tăng
trả lời: "Bạch, đã ăn rồi."
-
Triệu
Châu nói: "Vậy thì đi rửa bát đi."
-
Ngay
lúc đó vị tăng liễu ngộ.
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Triệu Châu là người đã mở miệng cho thấy tâm của
ngài. Ta nghi rằng vị tăng kia chưa chắc đã thấy được tâm của
Triệu Châu. Ta mong rằng ông ta không nhầm cái chuông với bình
chế nước.
-
Thật là
quá rõ và vì vậy mà khó thấy.
-
Có kẽ
khờ cầm đèn đi tìm lửa.
-
Nếu hắn
biết lửa ra sao,
-
Thì hắn
đã nấu cơm sớm hơn.
-
8. BÁNH
XE CỦA KEICHU
-
Getsuan
nói với môn đồ: "Keichu, người chế ra bánh xe đầu tiên của Trung
quốc, làm hai bánh xe, mỗi bánh có năm mươi nang. Bây giờ giả dụ
các ngươi tháo cái trục ra thì bánh xe sẽ ra sao? Và nếu Keichu
làm vậy thì ông ta có được gọi là tổ chế ra bánh xe không?"
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Nếu ai có thể trả lời câu hỏi này tức khắc, thì mắt
hắn sẽ như sao xẹt và trí óc hắn sẽ như một tia chớp.
-
Khi
bánh xe không trục xoay,
-
Tổ hay
chẳng tổ có thể ngưng nó lại.
-
Nó xoay
trên trời và dưới đất,
-
Nam,
bắc, đông, và tây.
-
9. MỘT
ĐỨC PHẬT TRƯỚC THỜI CÓ SỬ
-
Một vị
tăng hỏi Seijo: "Con biết rằng một đức Phật trước thời có sử, đã
tọa thiền qua bảy kiếp mà vẫn không ngộ được chân lý tối thượng,
vì thế mà không hoàn toàn được giải thoát. Tại sao vậy?"
-
Seiji
trả lời: "Câu hỏi của ông đã tự giải thích rồi."
-
Vị sư
hỏi tiếp: "Tại sao đức Phât đó tọa thiền mà vẫn không đạt được
Phật quả?"
-
Seijo
trả lời: "Vì ông ta chưa thành Phật."
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Ông ta có thể ngộ đạo, nhưng ta không cho rằng ông
ấy hiễu rõ. Khi một người ngu liễu ngộ thì thành thánh. Khi một
bậc thánh bắt đầu hiễu ra thì thành người ngu.
-
Tốt hơn
nên ngộ tâm chứ chẳng phải?#226;n.
-
Khi tâm
giác ngộ thì không còn gì để lo ngại cho thân.
-
Khi tâm
và thân trở thành một
-
Thì
người được tự tại, chẳng còn ham muốn lợi danh.
-
10.
SEIZEI CÔ ĐỘC VÀ NGHÈO NÀN
-
Một vị
tăng tên là Seizei hỏi Sozan: "Seizei cô khổ. Ngài có giúp đở
được không?"
-
Sozan
hỏi: "Seizei?"
-
Seizei
đáp: "Bạch Hòa thượng."
-
Sozan
bảo: "Ngươi được Thiền, là món mỹ tửu đệ nhất của thiên hạ
(Trung quốc), và đã uống xong ba chén, mà vẫn nói là chưa thấm
môi ư!."
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Seizei hơi quá đà. Tại sao vậy? Bởi vì Sozan rất
tinh mắt biết rõ người đối thoại. Ngay thế, ta vẫn muốn hỏi chư
vị: Ở thời điểm nào thì Seizei đã uống rượu?
-
Kẻ
nghèo nhất Trung quốc,
-
Kẻ gan
nhất Trung quốc,
-
Chỉ vừa
đủ cầm hơi,
-
Mà lại
muốn so bì với người giàu nhất.
-
11.
TRIỆU CHÂU TÙNG THẪM KHẢO HẠCH MỘT VỊ TĂNG ĐANG THAM THIỀN
-
Triệu
Châu đến tịnh thất của một vị tăng đang tọa thiền và hỏi: "Cái
gì là cái gì?"
-
Vị tăng
giơ lên nắm tay.
-
Triệu
Châu đáp: "Thuyền không thể lưu ở nơi nước cạn." Rồi bõ đi.
-
Vài
ngày sau Triệu Châu trở lại và hỏi cùng một câu như trước.
-
Vị tăng
đáp lại cũng cùng một cách không khác.
-
Triệu
Châu bảo: "Khá trao, khá nhận, giết hay, cứu giỏi." Rồi vái
chào.
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Vẫn là một nắm tay không khác ở hai lần. Tại sao
Triệu Châu không chứng cho lần đầu mà lại nhận lần sau? Sai trật
ở chỗ nào?
-
Ai trả
lời được thì đã biết rằng lưởi của Triệu Châu không xương nên
nhiều đường lắc léo. Có thể là Triệu Châu sai. Hoặc qua ông sư
kia, Ngài có thể biết rằng mình sai.
-
Nếu ai
nghĩ rằng nội tâm của mình hơn hẳn nội tâm của người khác, quả
là kẻ không có mắt.
-
Nhãn
quang như sao xẹt,
-
Và
Thiền quán tựa lằn chớp.
-
Lưởi
gươm giết chết người
-
Cũng là
lưởi gươm cứu sống người.
-
12.
ZUIGAN (SƯ NHAN – LND.) GỌI SƯ PHỤ
-
Sư Nhan
một mình gọi lớn mỗi ngày: "Sư phụ."
-
Rồi lại
tự đáp: "Dạ, bạch thầy."
-
Và liền
thêm: "Hãy tỉnh táo nhé."
-
Rồi tự
đáp: "Dạ, bạch thầy."
-
"Và sau
đó," Ngài tiếp, "đừng để bị người khác lừa gạt nhé."
-
"Dạ,
bạch thầy; Dạ, bạch thầy." Ngài tự trả lời.
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Lão Sư Nhan tự bán tự mua. Lão làm một màn múa rối.
Ngài mang một mặt nạ để gọi "Sư phụ" rồi mặt nạ khác để trả lời.
Mang cái khác để nói: "Hãy tỉnh táo nhé." Và lại cái khác, "Đừng
để bị người khác lừa gạt nhé." Nếu ai vướng mắc vào bất cứ cái
mặt nạ nào thì quả là lầm to, mà còn bắt chước Sư Nhan, thì sẽ
không khác chồn cáo.
-
Vài
thiền sinh không ngộ được con người thật sau cái mặt nạ.
-
Bởi vì
họ chỉ thấy cái tự ngã.
-
Cái tự
ngã là mầm sanh tử,
-
Mà kẽ
mê gọi nó là chân nhân.
-
13.
TOKUSAN ÔM BÌNH BÁT
-
Tokusan
từ Thiền đường đến nhà bếp tay ôm bình bát. Seppo phụ trách nấu
nướng thấy Tokusan bảo: "Tiếng trống hiệu báo giờ ăn chưa điểm.
Ngài đi đâu với cái bình bát vậy?" Tokusan quay trở về thiền
thất.
-
Seppo
thuật lại câu chuyện với Ganto. Ganto bảo: "Lão sư Tokusan chẳng
hiểu được chân lý tối thượng."
-
Tokusan
nghe được lời phê liền cho gọi Ganto đến gặp. "Ta có nghe," ngài
bảo, "ông không tán thành lối thiền của ta."
-
Ganto
gián tiếp thú nhận. Tokusan chẳng nói gì.
-
Hôm sau
Tokusan thuyết pháp cho tăng chúng một cách khác hẳn. Ganto cười
rộ và vổ tay nói: "Ta thấy lảo sư hiểu rõ chân lý tối thượng.
Chẳng có ai ở Trung quốc có thể hơn được."
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Nói đến chân lý tối thượng, cả Ganto và Tokusan
chẳng hề mộng tưởng. Rốt ráo, họ chỉ là những kẽ đần độn.
-
Ai hiểu
được diệu đế thứ nhất
-
Hẳn
phải hiểu chân lý sau cùng
-
Sau
cùng và thứ nhất,
-
Chúng
có khác nhau chăng?
-
14. NAM
TUYỀN PHỒ NGUYỆN CHẶT CON MÈO LÀM HAI KHÚC
-
Nam
Tuyền bắt gặp hai tăng sinh cải nhau chỉ vì con mèo. Ngài chộp
lấy con mèo và bảo họ: "Nếu ai nói được một lời phải thì cứu
được con mèo."
-
Chẳng
ai trả lời được. Nam Tuyền liền chặt con mèo làm hai khúc.
-
Tối đó
Triệu Châu Tùng Thẩm trở về và Nam Tuyền kể lại câu chuyện.
Triệu Châu liền tháo dép đội lên đầu bước trở ra.
-
Nam
Tuyền bảo: "Nếu ngài có mặt ở đấy thì đã cứu được con mèo."
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Tại sao Triệu Châu đội dép lên đầu? Nếu ai trả lời
được thì sẽ hiểu Nam Tuyền phán quyết như thế nào. Nếu không,
thì chịu bay đầu.
-
Nếu
Triệu Châu có mặt ở đấy,
-
Ông tã
có thể đã phán quyết ngược lại.
-
Triệu
Châu chụp lấy dao
-
Và Nam
Tuyền phải xin tha mạng cho lảo.
-
15. BA
CÁI LẠY CỦA TOZAN (ĐỘNG SƠN THỦ SƠ hay ĐỘNG SƠN LƯƠNG GIỚI
(807-869 – LND.)
-
Động
Sơn đến ra mắt Vân Môn Văn Uyên (Ummon). Vân Môn hỏi từ đâu lại.
-
Động
Sơn thưa: "Từ làng Sato."
-
Vân Môn
hỏi "An cư kiết hạ ở chùa nào?"
-
Động
Sơn trả lời: "Chùa Hoji, phía nam của chíếc hồ."
-
"Ông
rời lúc nào?" Vân Môn hỏi, mà thầm nghĩ chẳng biết Động Sơn cứ
tiếp tục trả lời như thế đến bao lâu.
-
"Ngày
hai nươi lăm tháng Tám," Động Sơn trả lời.
-
Vân Môn
bảo: "Ta phải cho ngươi ba gậy mới đặng, nhưng ta tha cho bửa
nay."
-
Ngày
hôm sau Động Sơn bái kiến Vân Môn và hỏi: "Ngày hôm qua ngài đã
tha cho tôi ba gậy. Tôi chẳng biết mình làm gì quấy."
-
Thất
vọng trước câu nói, Vân Môn bảo: "Ngươi thật là vô dụng. Chỉ là
kẻ lê lết từ chùa này đến chùa khác mà thôi."
-
Lời của
Vân Môn chưa dứt, Động Sơn chợt ngộ.
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Vân Môn cho Động Sơn thức ăn Thiền bổ dưởng. Nếu
Động Sơn tiêu hóa được, Vân Môn có thể thâu nhận y vào hội
chúng.
-
Qua một
đêm Động Sơn bơi lội trong biển phải quấy, nhưng đến sáng Vân
Môn đập vở được cái võ cứng của y. Nghĩ cho cùng, thì y cũng
chẳng sáng trí mấy.
-
Bây giờ
ta muốn hỏi chư vị: Động Sơn có đáng bị ba gậy hay không? Nếu
các ngươi nói đáng thì không phải chỉ Động Sơn mà ngay đến mỗi
người trong bọn các ngươi phải bị đòn. Nếu các ngươi bảo không,
thì há Vân Môn đã nói lời dối trá.
-
Nếu trả
lời thông suốt được, thì ngươi có thể ăn cùng món với Động Sơn.
-
Sư tử
mẹ thô tháp dạy cho bầy con
-
Khi
chúng nhảy, nó liền đập cho ngã
-
Khi Vân
Môn gặp Động Sơn, mũi tên thứ nhất còn nhẹ
-
Đến mũi
thứ hai thì ngấm sâu.
-
16.
CHUÔNG VÀ ÁO CÀ SA
-
Vân Môn
hỏi: "Cõi ta bà thật lớn, tại sao ngươi lại theo tiêng chuông và
mặc áo cà sa?"
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Khi tu học thiền, người ta không cần phải nương theo
âm thanh, hoặc màu sắc, hoặc hình tướng. Dù rằng thông thường có
kẽ đạt được nội tâm khi nghe một âm, hoặc thấy một sắc hoặc một
tướng. Đó không phải là thiền. Người thực tu học thiền chế ngự
được cà âm, sắc, tướng, và hiễn lộ chân lý trong cuộc sống hằng
ngày.
-
Âm đến
tai, tai tìm đến âm. Khi bạn ngăn được âm thanh và xúc giác, bạn
hiểu được gì? Người ta không thể hiểu khi dùng tai để nghe. Để
hiểu được cặn kẽ hơn, người ta phải thấy được âm thanh.
-
Khi
ngươi hiểu, ngươi là người cùng một nhà;
-
Khi
ngươi không hiểu, ngươi là một kẻ lạ.
-
Những
ai không hiểu đều là người cùng một nhà,
-
Và khi
họ hiểu thì thành kè lạ.
-
17. BA
TIẾNG GỌI CỦA KOKUSHI (QUỐC SƯ HUỆ TRUNG – LND.)
-
Thiền
sư Huệ Trung, tên là Chu, là quốc sư (quan phụ đạo cho Hoàng
đế), gọi thị giả của ngài
-
"Oshin."
-
Oshin
liền đáp: "Dạ."
-
Chu lập
lại, muốn thử người đồ đệ: "Oshin."
-
Oshin
cũng lập lại: "Dạ."
-
Chu
gọi: "Oshin."
-
Oshin
trả lời: "Dạ."
-
Chu
bảo: "Thứ lỗi cho ta đã gọi ngươi, nhưng ngươi phải xin lỗi ta."
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Khi lảo tăng Chu gọi Oshin ba lần, lưởi của lảo đã
rã ra, nhưng khi Oshin đáp lại ba lần thì lời của y quả thật là
thông minh. Chu đã suy kiệt và cô quạnh, và lối dạy của lảo
chẳng khác gì nắm đầu bò để cho ăn lá đậu.
-
Oshin
biểu lộ thiền của y cũng chẳng mấy khó. Bụng đã no nên y chẳng
còn muốn ăn cao lương. Khi nước đã giàu thì dân biếng nhác; khi
gia đình phồn vinh thì con hư hõng.
-
Bây giờ
ta muốn hỏi ngươi: Ai phải xin lổi?
-
Khi kho
lương thực của nhà tù chỉ chứa sắt, chẳng còn chỗ cho cái đầu
thì tù nhân bị khốn đốn gấp bội.
-
Khi
chẳng còn chỗ cho thiền trong đầu của thế hệ chúng ta, thì thật
là đáng lo.
-
Nếu
ngươi cứ cố giử chặt tấm cửa của căn nhà đang sập,
-
Ngươi
cũng sẽ bị khốn đốn.
-
18. BA
CÂN CỦA TOZAN (ĐỘNG SƠN THỦ SƠ – LND.)
-
Khi
Động Sơn đang cân vừng, một tăng sĩ hỏi: "Phật là gì?"
-
Động
Sơn bảo: "Bó vừng này nặng ba cân."
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Thiền của lão Động Sơn cứ y như là con hến. Ngay khi
võ hến mở ra ngươi có thể thấy tất cả bên trong. Tuy thế, ta
muốn hỏi chư vị: Các ngươi có thấy Động Sơn thực không?
-
Ba cân
vừng ngay trước mũi ngươi,
-
Thực
gần, mà tâm thì lại còn gần hơn.
-
Kẻ nào
nói đến xác nhận và phủ nhận
-
Thì vẫn
sống trong vòng đúng, sai.
-
19. MỖI
NGÀY ĐỀU LÀ ĐẠO
-
Triệu
Châu Tùng Thẩm hỏi Nam Tuyền: "Đạo là gì?"
-
Nam
Tuyền bảo: "Đời sống hằng ngày là đạo"
-
Triệu
Châu hỏi: "Có tìm hiểu được chăng?"
-
Nam
Tuyền đáp: "Nếu ông cố tìm hiểu thì ông đã ở xa nó rồi."
-
Triệu
Châu hỏi: "Nếu không tìm hiểu thì làm sao biết được nó là đạo?"
-
Nam
Tuyền bảo: "Đạo không bị lệ thuộc vào cái thế giới nhận biết, và
cũng chẳng lệ thuộc vào thế giới không nhận biết. Cảm quan là
huyển hóa, và không cảm quan là vô tri. Nếu ông muốn đạt đến đạo
chân thực không nghi ngại, thì hãy du mình vào chốn thênh thang
như bầu trời. Ông không thể gọi nó là thiện mỹ hay không thiện
mỹ."
-
Đến đấy
Triệu Châu chợt ngộ.
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Nam Tuyền đã có thể xóa tan nỗi nghi ngại đong cứng
của Triệu Châu ngay khi ông này lên tiếng hỏi. Ta ngờ rằng Triệu
Châu chưa đạt đến chỗ Nam Tuyền đã ngộ. Ông ta phải tu học thêm
ba mươi năm nữa mới đặng.
-
Mùa
xuân, trăm hoa đua nỡ; mùa thu, trăng vằng vặt;
-
Mùa hạ,
cơn gió mát; mùa đông, tuyết sẽ rơi.
-
Nếu
điều vô dụng không vướng mắc tâm ngươi,
-
Bất cứ
lý do gì cũng đều tốt cả.
-
20.
NGƯỜI GIÁC NGỘ
-
Shogen
hỏi: "Tại sao người giác ngộ lại không đứng dậy mà tự lý giãi?"
Và ngài lại bảo: "Lời nói không nhất thiết phải phát ra từ
lưỡi."
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Shogen đã nói toạt ra rồi, thế mà được bao nhiêu
người hiễu đây?
-
Nếu có
kẽ quán triệt được, hắn phải đến chỗ của t a ở để thử vài
trượng. Tại sao, hãy nghe đây, muốn thử vàng ròng, ngươi phải
nhìn qua lửa.
-
Nếu đôi
chân bậc giác ngộ dời gót, thì biển cả chắc phải tràn;
-
Nếu cái
đầu đó cúi xuống, thì nó đã nhìn khắp cung trời đao lợi.
-
Cái
thân như thế thì không thể nghỉ ngơi được ..
-
Hãy để
người khác tiếp bài thơ này.
-
21. CỤC
PHÂN KHÔ
-
Một vị
tăng hỏi Vân Môn: "Phật là gì?"
-
Vân Môn
trả lời ông ta: "Cục phân khô."
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Theo ta thì Vân Môn xoàng quá, ngài đã không thể
phân biệt được mùi vị của các món ngon, hoặc giả ngài đã quá bận
để viết chữ cho dễ đọc. Thôi thì ngài đã muốn giữ thiền môn của
ngài với cục phân khô. Lời dạy của ngài chẳng dùng được.
-
Chớp
sáng lòe,
-
Làm mưa
sa.
-
Trong
nháy mắt
-
Ngươi
không kịp thấy.
-
22. CÂY
PHẤT TỬ CỦA KASHAPA (CA DIẾP – LND.)
-
Ananda
hỏi Kashapa (Ca Diếp): "Đức Phật trao cho sư huynh kim y làm tín
vật kế thừa. Ngài còn trao gì nữa chăng?"
-
Ca-Diếp
bảo: "Ananda."
-
Ananda
đáp: "Dạ, sư huynh."
-
Ca-Diếp
nói: "Ngươi có thể hạ cây phất tử của ta xuống và dựng cây phất
tử của ngươi lên."
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Nếu ai hiễu được như vậy thì sẽ thấy rằng tình sư
huynh xưa vẫn đượm, nhưng nếu y không hiễu thì, cho dù y tu đến
mấy kiếp trước cả thời chư Phật, y vẫn khó mà liễu ngộ.
-
Câu hỏi
thì vớ vẫn, nhưng câu trả lời thì thân thiết.
-
Khi
nghe, có bao nhiêu người chú ý?
-
Sư
huynh gọi, sư đệ đáp,
-
Tiết
xuân này chẳng thuộc vào mùa thường.
-
23.
KHÔNG NGHĨ THIỆN, KHÔNG NGHĨ ÁC
-
Khi đã
giác ngộ, Lục tổ (Huệ Năng – LND.) được Ngủ tổ trao cho y bát kế
thừa vốn đã được truyền lại từ Đức Phật qua bao thế hệ.
-
Một vị
tăng tên là E-myo (Huệ-Minh – LND.), vì ghen tức đuổi theo để
giành cho được báu vật. Lục tổ đặt y bát trên một
-
tảng đá
trên đường và bảo Huệ-Minh: "Các món này chỉ là biểu tượng của
lòng tin. Chẳng có gì đáng để phải tranh giành.
-
Nếu sư
huynh muốn lấy thì cứ giử lấy."
-
Nhưng
khi Huệ-Minh đến nhặt y bát thì chúng lại nặng như núi, chẳng
tài nào nhấc lên nỗi. Run rẫy vì xấu hỗ, y bảo:
-
"Tôi
đến đây chỉ vì pháp, chứ chẳng phải vì các báu vật này. Xin chỉ
dạy cho."
-
Lục tổ
nói: "Khi ông không nghĩ thiện, khi ông không nghĩ ác, thì bản
lai diện mục của ông là gì?"
-
Với lời
này Huệ-Minh chợt ngộ. Mồ hôi toát ra như tắm, y khóc và cúi
mình nói: "Ngài đã dạy cho mật ngôn với diệu nghĩa. Còn có phần
thậm thâm nào nữa trong giáo pháp?"
-
Lục tổ
đáp: "Điều ta nói với ông chẳng có gì bí hiễm cả. Khi ông rõ
được bản lai diện mục của ông thì điều bí mật đều tùy thuộc vào
ông."
-
Huệ-Minh nói: "Tôi theo Ngủ tổ bao nhiêu năm, mà mãi đến lúc này
mới nhận ra được tự tánh của mình. Nhờ sụ chỉ dạy của ngài tôi
mới tìm ra được nguồn. Chỉ có người uống nước mới biết được là
nước nóng lạnh ra sao. Xin được tôn ngài làm thầy được chăng?"
-
Lục tổ
đáp: "Chúng ta cùng học với Ngũ tổ. Xin gọi Ngài là thầy, nhưng
nên quý trọng những gì ông vừa đạt đuợc.
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Lục tổ quả là tốt bụng ngay cả lúc khẩn cấp. Cứ như
là ngài bóc võ và hạt của quả chín, rồi mỡ miệng môn đồ ra cho
ăn.
-
Ngươi
không thể diễn tả nó, ngươi không thể hình dung nó,
-
Ngươi
không thể nhìn ngắm nó, ngươi không thể cảm nhận nó.
-
Đó là
bản lai diện mục của ngươi, nó chẳngẩn trốn ở đâu cả.
-
Dù thế
gian bị diệt, nó không hề bị tan.
-
24.
CHẲNG NÓI, CHẲNG IM
-
Có tăng
hỏi Fuketsu: "Chẳng nói, chẳng im, làm sao tõ rõ diệu đế?"
-
Fuketsu
bảo: "Ta nhớ mùa xuân ở Nam Hoa. Muôn chim hót vang giửa ngàn
hoa thơm ngát."
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Fuketsu thường có lối Thiền như tia chớp. Khi có
dịp, ngài xẹt ngay. Nhưng lần này thì ngài lại không làm vậy mà
còn mượn một câu thơ cỗ. Hãy bõ qua lối thiền của Fuketsu đi.
Nếu ngươi muốn làm sáng chân lý, cứ nói ra, cứ im đi, và cho ta
biết lối thiền của ngươi.
-
Chẳng
nói rõ điều ngài quán triệt,
-
Ngài
chẳng dạy chi, lại mượn lời người khác.
-
Giá mà
ngài cứ lãi nhãi mãi,
-
Chắc
người nghe cũng đến xấu hỗ.
-
25.
THUYẾT PHÁP TỪ GHẾ THỨ BA
-
Trong
mơ, Kyozan đến cõi tịnh độ của Phật A Di Đà. Ngài lại thấy mình
ngồi ở chiếc ghế thứ ba trong điện Phật.
-
Có
người xướng lên: "Hôm nay đến phiên vị ngồi ở ghế thứ ba lên
thuyết pháp."
-
Kyozan
đứng lên nói: "Diệu đế của giáo pháp Đại thừa không thể nghĩ bàn
được, vượt ra khõi ngôn ngữ và tư tưởng. Chư vị có hiểu không?"
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Ta muốn hỏi chư tăng: Ngài thuyết hay không thuyết?
Khi ngài mở miệng là đã lạc. Khi ngài mím miệng là đã lạc. Nếu
ngài không mở miệng, nếu ngài không mím miệng, ngài đã đi xa
chân lý đến 108,000 dặm.
-
Tuy
giửa ban ngày,
-
Mà ngài
mơ, và nói về giấc mơ.
-
Một
quái vật giửa những quái vật,
-
Ngài
định lừa cả thính chúng.
-
26. HAI
VỊ SƯ KÉO TẤM RÈM
-
Thiền
sư Hogen thuộc tự viện Seiryo nhìn thấy tấm rèm tre thường hạ
xuống để tọa thiền chưa được kéo lên khi ngài sắp sửa thuyết
pháp trước buổi cơm tối. Ngài chỉ tấm rèm, và có hai vị tăng từ
giửa thính chúng đứng dậy kéo rèm lên.
-
Hogen
bảo sau khi quan sát các động tác: "Tăng sinh trước khá, tăng
sinh sau kém."
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Ta muốn hỏi các ngươi: Giửa hai tăng sinh ai được ai
thua? Nếu trong đám các ngươi có kẽ chột, thì hẳn đã thấy sự
thất bại nơi ông thiền sư. Tuy nhiên, ta không bàn đến được và
thua.
-
Khi tấm
rèm được kéo lên, bầu trời mở ra,
-
Mà bầu
trời thì nào có tùy theo Thiền quán.
-
Tốt hơn
nên quên đi bầu trời bát ngát
-
Và
chẳng màng đến gió thoảng.
-
27.
CHẲNG PHẢI TÂM, CHẲNG PHẢI PHẬT, CHẲNG PHẢI PHÁP
-
Một vị
tăng hỏi Nam Tuyền: "Có pháp môn nào mà chưa có ai thuyết bao
giờ?"
-
Nam
Tuyền bảo: "À, có."
-
"Là
pháp môn nào vậy?" vị tăng hỏi.
-
Nam
Tuyền đáp: "Chẳng phải tâm, chẳng phải Phật, chẳng phải pháp."
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Lão Nam Tuyền bố thí lời quí giá của Ngài. Đáng ra
thì Ngài phải phật lòng lắm.
-
Nansen
quá nhân từ đã?73;ánh mất báu vật.
-
Thật ra
lời nói chẳng có mãnh lực nào.
-
Cho dù
núi cao thành biển cả,
-
Lời nói
chẳng thể khai tâm cho kẽ khác được.
-
28. THỒI
TẮT NGỌN NẾN
-
Tokusan
theo học Thiền với Ryutan. Một đêm kia y đến hỏi Ryutan nhiều
câu. Thiền sư bảo: "Đã khuya rồi. Sao con chưa đi ngủ?"
-
Nghe
vậy, Tokusan vái chào và vén rèm lui ra, nói thêm: "Trời bên
ngoài tối quá."
-
Ryutan
trao cho Tokusan một cây nến đang cháy. Ngay khi Tokusan cầm
lấy, Ryutan thổi tắt ngọn nến. Tokusan chợt ngộ.
-
"Con
đạt được gì nào?" Ryutan hỏi.
-
"Từ nay
trở đi," Tokusan đáp, "con sẽ không còn nghi ngờ lời thầy dạy."
-
Hôm sau
Ryutan nói với thính chúng: "Ta biết một tăng sinh trong đám các
người. Răng của hắn giống như cây kiếm, miệng của hắn tựa như
bát máu. Nếu có người nện cho hắn một gậy thật đau, hắn cũng
chẳng màng quay lại nhìn. Một ngày kia, hắn sẽ đạt đến tuyêt
đỉnh và truyền thừa giáo pháp của ta."
-
Cũng
ngày ấy, Tokusan đem những bản luận của y về kinh ra đốt sạch
trước thiền đường. Y bảo "Tuy kinh điển diệu vợi, nhưng so với
sự chứng ngộ này, chúng chỉ là như sợi lông so với bầu trời. Tuy
sự hiểu biết về thế gian phức tạp có sâu sấc đến đâu, so với sự
chứng ngộ này, nó chỉ giống như một giọt nước trong biển cả."
Xong y rời bõ thiền viện.
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Khi Tokusan còn ở quê nhà, tuy có nghe nói đến
thiền, ngài vẫn xem thường. Ngài nghĩ: "Bọn sư ở Nam man bảo có
thể giáo ngoại biệt truyền. Láo cả, ta phải đến dạy chúng." Bèn
đi về phương nam. Ngài nghỉ chân ở một quán gần thiền viện của
Ryutan. Bà lão chủ quán chợt thấy hỏi: "Ngài mang vác gì mà nặng
thế?"
-
Tokusan
đáp: "Đây là luận bản về Kinh Kim Cang do ta biên soạn sau bao
nhiêu năm nghiền ngẫm."
-
Bà lão
nói: "Lão đã đọc kinh ấy, có đoạn nói: ‘Tâm quá khứ không thể
trụ, tâm hiện tại không thể trụ, tâm tương lai không thể trụ.’
Ngài cần dùng ít trà và món giải khát. Vậy ngài đem tâm nào ra
mà dùng đây?"
-
Tokusan
sửng sốt giây lâu, rồi hỏi bà lão: "Lão bà có biết đại sư trí
nào ở quanh đây không?"
-
Bà lão
chỉ đường đến Ryutan cách đấy 5 dặm. Thái độ của Tokusan trở nên
khiêm cung, khác hẳn lúc mới khởi hành. Ryutan thì quá tử tế đến
độ quên cả khách sáo. Cứ như là tạt nước bùn vào kẻ say để làm
hắn tỉnh. Rốt ráo, cũng chẳng cần phải đóng kịch nữa.
-
Trăm
nghe không bằng một mắt thấy,
-
Nhưng
sau khi thấy thầy, một liếc mắt không bằng một trăm nghe.
-
Mũi của
ổng cao quá
-
Nhưng
rốt lại ổng bị mù.
-
29.
KHÔNG PHẢI GIÓ, KHÔNG PHẢI PHƯỚNG
-
Hai vị
tăng đang tranh luận về một lá phướng. Một vị nói: "Lá phướng
đang động."
-
Vị kia
cải: "Gió đang động."
-
Lục-tổ
tình cờ đi qua. Ngài bảo họ: "Chẳng phải gió, chẳng phải phướng;
tâm đang động."
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Lục-tổ bảo: "Gió chẳng động, phướng chẳng động. Tâm
đang động." Ngài ngụ ý gì vậy? Nếu ngươi hiểu tường tận thì
ngươi sẽ thấy rằng hai vị tăng nọ
đang
mua sắt mà được vàng. Lục Tổ không cam thấy hai cái đầu đần nên
mới xen vào.
-
Gió,
phướng, tâm động,
-
Đều
hiểu như nhau
-
Khi mở
miệng nói
-
Thì sai
cả.
-
30. TÂM
NÀY LÀ PHẬT
-
Daibai
hỏi Baso (Mã Tổ Đạo Nhất – LND.): "Phật là gì?"
-
Mã Tổ
bảo: "Tâm này là Phật."
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Nếu có ai hiểu được khái quát như thế thì y đang mặc
y của Phật, đang ăn thực phẩm của Phật, đang nói lời của Phật,
đang hành xử như Phật, y là Phật.
-
Tuy
vậy, câu chuyên vui này đã làm cho không ít thiền sinh mắc bệnh
nghi thức. Nếu ai hiểu được rốt ráo, thì sau khi nói đến chữ
"Phật", hắn sẽ súc miệng luôn ba ngày liền, và hắn sẽ bịt tai mà
chạy xa khi nghe "Tâm này là Phật."
-
Dưới
bầu trời xanh, trong nắng sáng,
-
Không
việc gì phải tìm quanh.
-
Mà hỏi
Phật là gì
-
Cứ như
là dấu đồ ăn cắp trong túi mà xưng mình vô tội.
-
31.
TRIỆU CHÂU TÙNG THẨM ĐIỀU TRA
-
Một vị
tăng hành cước hỏi một bà lão về con đường đến Taizan, một tự
viện nổi tiếng là ai đến cầu nguyện đều được ban cho sự khôn
ngoan. Cụ bà nói: "Cứ đi thẳng phía trước." Khi vị tăng đi được
vài bước, bà tự bảo: "Y chỉ là một kẽ đi chùa xoàng thôi."
-
Có
người kể lại chuyện này cho Triệu Châu nghe, Ngài bảo: "Hãy đợi
cho đến khi ta đi điều tra." Hôm sau ngài đến và hỏi cùng câu
hỏi, vàà lão cũng đáp cùng câu trả lời.
-
Triệu
Châu nhận xét: "Ta đã điều tra xong cụ bà đó."
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Bà lão rành về chiến lược, nhưng không rõ làm sao mà
gián điệp lại lẽn vào trại của bà. Lão Triệu Châu chơi trò tình
báo để lật ngược thế cờ, nhưng lão không phải là một ông tướng
tài. Cả hai đều có khuyết điểm. Chư tăng, bây giờ ta muốn hỏi
các ngươi: Đâu là trọng điểm trong việc điều tra của Triệu Châu
về bà lão?
-
Khi câu
hỏi là bâng quơ
-
Thì câu
trả lời cũng bâng quơ.
-
Khi câu
hỏi là cát trộn trong bát cơm
-
Thì câu
trả lời là một cái que xốc trong bãi bùn.
-
32. MỘT
TRIẾT NHÂN HỎI ĐỨC PHẬT
-
Một
triết nhân hỏi Đức Phật: "Vô thuyết, và cũng chẳng vô thuyết,
Ngài có thể nói đến chân lý được chăng?"
-
Đức
Phật vẫn giữ yên lặng.
-
Triết
nhân cúi chào cảm tạ Đức Phật, nói: "Với lòng đại từ bi của
Ngài, con đã xóa được mê lầm và bước vào chánh đạo."
-
Sau khi
vị triết nhân đi khỏi, Ananda hỏi Đức Phật rằng ông ấy đã đạt
được gì.
-
Đức
Phật trả lời: "Một con ngựa giỏi, phi nước đại ngay khi nhát
thấy bóng roi."
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Ananda là đại đệ tử của Đức Phật. Dù thế, nhận định
của ngài cũng chẳng khá hơn kẽ ngoại cuộc. Này chư tăng, ta muốn
hỏi các ngươi: Có gì khác lắm chăng giữa môn đồ và kẽ ngọai
cuộc?
-
Để giẫm
trên cạnh sắc của lưỡi gươm,
-
Để chạy
rong trên mặt băng trơn,
-
Chẳng
cần phải theo vết chân ai.
-
Cứ
thong dong bước ra khỏi bờ vực.
-
33. TÂM
NÀY CHẲNG PHẢI PHẬT
-
Một vị
tăng hỏi Baso (Mã Tổ – LND.): "Phật là gì?"
-
Mã Tổ
bảo: "Tâm này chẳng phải Phật."
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Kẽ nào hiễu được, là đã ngộ Thiền.
-
Nếu
ngươi gặp một kiếm sư giữa đường, nên biếu ông ta cây gươm của
ngươi.
-
Nếu gặp
một thi sĩ, hãy tặng ông ta bài thơ của ngươi.
-
Khi
ngươi gặp kẽ khác, chỉ nói một phần những gì mình muốn nói.
-
Chớ nên
bao giờ cho hết mọi thứ một lần
-
34. HỌC
CHẲNG PHẢI LÀ ĐẠO
-
Nam
Tuyền bảo: "Tâm chẳng phải Phật. Học chẳng phải Đạo."
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Nansen già rồi nên lẩm cẩm. Lão thật thối mồm và
vạch áo cho người xem lưng. Tuy vậy, chẳng mấy ai cảm kích được
mối từ tâm của ngài.
-
Khi
trời quang đãng, vầng dương ló dạng,
-
Khi đất
khô cằn, mưa sẽ rơi.
-
Ngài
nói toạt ra với cả tấm lòng,
-
Nhưng
với lợn và cá thì nào có ích gì.
-
35. HAI
LINH HỔN
-
"Seijo,
cô gái Tàu," Goso nhận xét, "có hai linh hồn, một luôn bệnh hoạn
ở nhà và phần kia thì ngao du phố sá, một ngườ đàn bà có chồng
và hai con. Phần nào là linh hồn thật?"
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Khi người nào hiễu điều này thì hắn sẽ biết rằng
người ta có thể lột xác được, cứ như là dừng chân nơi quán trọ.
Nhưng nếu hắn không hiễu thì khi lâm chung, tứ đại phân lìa,
chẳng khác gì con cua đang bị luộc, quơ quào với lắm chân tay.
Trong tình huống đó, hắn có thể bảo rằng: "Vô-môn đã chẳng chỉ
cho ta đi hướng nào!" nhưng than ôi đã muộn.
-
Mặt
trăng trên tầng mây vẫn là một,
-
Núi và
sông bên dưới lại hoàn toàn khác.
-
Mỗi thứ
đều tự tại trong độc nhất và muôn vẽ.
-
Cái này
là một, đây là hai.
-
36. GẶP
MỘT THIỀN SƯ TRÊN ĐƯỜNG
-
Goso
bảo: "Khi ngươi gặp một Thiền sư trên đường, ngươi không thể nói
chuyện với ngài, ngươi không thể đối diện trong lặng thinh. Vậy
ngươi phải làm gì nào?"
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Trong trường hợp ấy, nếu ngươi có thể trả lời ngài
một cách tường tận thì sự giác ngộ của ngươi đẹp tuyệt. Nhưng
nếu không thể được, thì ngươi nên nhìn bâng quơ làm như không
thấy gì cả.
-
Gặp một
thiền sư trên đường,
-
Không
thể nói không thể im.
-
Thì nện
cho ngài một đấm
-
Và
ngươi sẽ được gọi là ngộ thiền.
-
37. MỘT
CON TRÂU RA KHỎI CHUỔNG
-
Goso
bảo: "Khi một con trâu ra khỏi chuồng đến bên bờ vực. Cặp sừng,
đầu và móng chân đều qua khỏi, nhưng tại sao cái đuôi lại mắc
kẹt?"
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Nếu ai mỡ một mắt thấy được điểm này và nói một lời
thiền, thì hắn sẽ được thưởng ngay, và không những thế, hắn còn
cứu vớt cả chúng sinh bên dưới. Nhưng nếu hắn không nói được một
lời chân thiền, hắn nên chui ngay vào cái đuôi của hắn.
-
Nếu con
trâu chạy, nó sẽ rơi vào hố;
-
Nếu nó
quay trở lại, nó sẽ bị làm thịt.
-
Cái
đuôi nhỏ bé đó
-
Là một
điều thật lạ.
-
38. CÂY
TÙNG GIỮA SÂN
-
Một vị
tăng hỏi Triêu Châu tại sao Bồ Đề Đạt Ma lại đến Trung quốc.
-
Triêu
Châu bảo: "Một cây tùng giữa sân."
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Nếu ai thấy được câu trả lời sáng tõ của Triêu Châu,
thì không có
-
Phật
Thích Ca Mâu Ni trước ngài và chẳng có Phật tương lai sau ngài
nữa.
-
Lời nói
chẳng thể diễn tả được mọi điều
-
Tâm
pháp chẳng thể truyền bằng lời.
-
Nếu ai
ham mê chữ nghĩa thì sẽ bị lạc lối,
-
Nếu cố
giải thích bằng lời, thì hắn không thể giác ngộ được trong đời
này.
-
39. LẠC
LỐI CỦA VÂN MÔN VĂN UYÊN (UMMON)
-
Một
thiền sinh nói với Vân Môn: "Hào quang của Đức Phật chiếu sáng
cả vũ trụ."
-
Trước
khi y chưa dứt câu thì Vân Môn hỏi: "Ngươi đang ngâm thơ của kẽ
khác phải
-
không?"
-
"Vâng,"
thiền sinh trả lời.
-
"Người
lạc lối rồi," Vân Môn bảo.
-
Về sau
có vị thiền sư khác tên là Shishin hỏi môn sinh: "Ở điểm nào thì
thiền sinh kia lạc lối?"
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Nếu kẽ nào nhận ra được diệu xão của Vân Môn, hắn sẽ
biết được ở điểm nào thì thiền sinh kia lạc lối, và hắn sẽ là
một bậc thầy của người và thần. Nếu không, hắn cũng chẳng nhận
ra được chính hắn.
-
Khi con
cá thấy lưỡi câu.
-
Nếu nó
tham thì sẽ mắc câu.
-
Khi nó
mở miệng
-
Thì đời
đã tàn.
-
40.
NGHIÊNG BÌNH NƯỚC
-
Bá
Trượng muốn cho một môn sinh ra lập một tự viện mới. Ngài phán
với cả đám rằng nếu kẽ nào trả lời thông suốt được một câu hỏi
thì sẽ được giao trọng trách. Đặt một bình nước trên mặt đất,
ngài hỏi: "Ai có thể nói nó là cái gì mà không được gọi tên của
nó?"
-
Vị tăng
trưởng nói: "Không ai có thể gọi nó là chiếc guốc."
-
Isan,
vị tăng lo việc bếp núc, dùng chân làm ngã chiếc bình rồi bõ đi.
-
Bá
Trượng cả cười bảo: "Tăng trưởng thua rồi." Và Isan trở nên
thiền sư của tự viện mới.
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Isan bạo gan thật, nhưng y không thoát khỏi trò đùa
của Bá Trượng. Rốt lại, y bõ một việc nhẹ mà nhận một việc nặng.
Tại sao, ngươi không thấy ư, y cất chiếc nón êm ái để tra chân
vào cái cùm.
-
Từ bõ
nồi niêu xoong chảo,
-
Hạ được
kẽ lắm mồm,
-
Tuy
thầy của ngài dựng chướng ngại thử thách
-
Chân
ngài sẽ đạp ngã mọi thứ, kể cả Phât.
-
41.
BỔ-ĐỀ ĐẠT-MA AN TÂM
-
Bồ-Đề
Đạt-Ma ngồi diện bích. Kẽ kế vị ngài trong tương lai (Tổ Huệ Khả
– LND.) đứng trong tuyết giá và dâng một cánh tay bị chặt lìa. Y
khóc: "Tâm của con không an. Đại sư, xin ngài an tâm cho con."
-
Bồ-Đề
Đạt-Ma nói: "Nếu ngươi đem cái tâm đó ra đây ta sẽ an cho."
-
Người
kế vị bảo: "Khi tìm tâm, con chẳng nắm bắt được."
-
Bồ-Đề
Đạt-Ma nói: "Vậy thì tâm ngươi đã an rồi."
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Cái lão chà và già sún răng, Bồ-Đề Đạt-Ma, mất công
vượt biển cả hàng ngàn dặm từ AᮠĐộ đến Trung Hoa tưởng có gì kỳ
diệu. Lão cứ như là sóng nỗi chẳng cần gió. Sau bao năm lưu lại
Trung Hoa, lão chỉ có mỗi một môn đồ, mà lại là kẽ cụt tay dị
dạng. Than ôi, từ đấy lão có toàn đệ tử vô trí.
-
Tại sao
Bồ-Đề Đạt-Ma đến Trung Hoa?
-
Đã bao
năm tăng chúng cứ bàn chuyện này mãi.
-
Mọi
điều lôi thôi đeo đuổi từ bấy giờ
-
Do ông
thầy và môn đồ đó.
-
42. CÔ
GÁI XUẤT KHỎI THIỀN ĐỊNH
-
Vào
thời của Đức Phật Thích Ca, Manjusri (Văn Thù Sư Lợi – LND.) đi
đến chỗ phó hội của chư Phật. Khi vừa đến nơi thì cuộc hội đã
tan, và mỗi vị Phật đều đã trở về nước Phật của mình. Chỉ còn
lại một cô gái an nhiên trong thiền định sâu xa.
-
Manjusri hỏi Đức Phật Thích Ca làm sao mà một cô gái có thể đạt
đến bậc này, mà ngay cả ngài còn chưa thể đạt tới.
-
"Hãy
đưa nàng ra khỏi tam-bồ-đề mà hỏi cho rõ," Đức Phật trả lời.
-
Manjusri bước vòng quanh cô gái ba lần và búng tay. Nàng vẫn còn
đắm trong thiền định. Ngài bèn vận dụng thần lực đưa nàng lên
tầng trời cao hơn và cố hết sức gọi nàng, nhưng vô ích.
-
Đức
Phật Thích Ca bảo: "Ngay cả trăm ngàn Manjusri cũng không thể
quấy động nàng, nhưng ở dưới nơi này, cách đây mười hai trăm
triệu thế giới, có vị Bồ tát tên là Mo-myo, hạt ảo tưởng. Nếu
ngài ấy đến đây, nàng sẽ thức dậy."
-
Đức
Phật nói chưa dứt câu thì vị Bồ tát đã nhảy vọt lên từ mặt đất,
cúi đấu đãnh lễ Phật. Đức Phật dẫn ngài đến để đánh thức cô gái.
Vị Bồtát đến trước cô gái và búng tay, tức thì nàng xuất ra khỏi
thiền định.
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Lão Bụt dàn cảnh kém quá. Này chư tăng, ta muốn hỏi
các ngươi: Nếu Văn Thù, vị được coi là bậc thầy của bảy vị Phật,
đã không thể đem cô gái này ra khỏi thiền định, thì cớ sao chỉ
một Bồ tát, là kẽ mới bắt đầu, lại có thể làm được?
-
Nếu
ngươi hiễu được chỗ này tường tận, ngươi có thể đi vào đại định
trong khi đang sống ở thế giới ảo tưởng.
-
Một
người không thể đánh thức nàng, kẽ khác lại có thể.
-
Cả hai
đều là diễn viên kém.
-
Một kẽ
mang mặt nạ của thần, kẽ kia quỷ sứ.
-
Giá mà
cả hai đều thất bại, thì vỡ kịch trở nên khôi hài.
-
43. CÂY
GẬY NGẮN CỦA SHUZAN
-
Shuzan
đưa cây gậy ngắn ra và bảo: "Nếu ngươi gọi nó là đoản trượng,
ngươi phản thực tại. Nếu ngươi không gọi nó là đoản trượng,
ngươi coi thường chứng cớ. Bây giờ ngươi muốn gọi nó là cái gì
nào?"
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Nếu ngươi gọi nó là đoản trượng, ngươi phản thực
tại. Nếu ngươi không gọi nó là đoản trượng, ngươi coi thường
chứng cớ. Không thể diễn đạt bằng lời, và cũng không thể diễn
đạt mà không dùng lời. Bây giơ,?227;y nói ngay cái gì vậy.
-
Đưa cây
gậy ngắn ra,
-
Ngài
phán sự sống và chết.
-
Dương
và A⭠xoắn chặt,
-
Ngay cả
Chư Phật và Chư Tổ cũng chẳng thoát được.
-
44. CÂY
TRƯỢNG CỦA BASHO
-
Basho
(Mã Tổ – LND.) bảo với một đệ tử: "Khi ngươi có một cây trượng,
ta sẽ tặng nó cho ngươi. Khi ngươi không có cây trượng, ta sẽ
lấy nó lại."
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Khi không có chiếc cầu bắt qua con lạch thì cây
trượng sẽ giúp ta. Khi ta trở về nhà trong một đêm tối không
trăng, cây trượng theo ta. Nhưng nếu ngươi gọi cái này là cây
trượng, ngươi sa xuống địa ngục như mũi tên.
-
Với cây
trượng này trong tay ta
-
Ta có
thể dò được thế giới sâu hay cạn.
-
Cây
trượng chống được trời và trụ được đất.
-
Chánh
pháp thì sẽ lan truyền dù bất cứ ở đâu.
-
45. NGÀI
LÀ AI?
-
Hoen
nói: "Chư Phật trong quá khứ và tương lai đều là kẽ phục dịch
cho Ngài. Thế thì Ngài là ai vậy?"
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Nếu ngươi thấy rõ được ngài là ai thì chẳng khác gì
ngươi tình cờ gặp cha của người trong dường phố đông đúc. Chẳng
cần phải hỏi ai về việc
nhận diện của ngươi có đúng hay không.
-
Chớ nên
chiến đấu với cung tên của kẻ khác.
-
Chớ nên
cuỡi ngựa của kẽ khác.
-
Chớ nên
bàn cãi đến lỗi lầm của kẻ khác.
-
Chớ nên
xía vào chuyện của kẽ khác.
-
46. TIẾN
LÊN THÊM NỮA TỪ NGỌN CỦA CÂY SÀO
-
Thạch
Sương (Sekiso) hỏi: "Làm sao ngươi tiến thêm nữa từ ngọn của cây
sào trăm đốt?" Có vị thiền sư khác lại nói: "Kẽ ngồi trên ngọn
của cây sào trăm đốt thì đã đạt được một độ cao nào đó nhưng vẫn
chưa hành Thiền được một cách thong dong. Hắn nên tiến lên thêm
nữa và hiện nguyên hình trong mười phương thế giới."
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Người ta có thể bước thêm hoặc xoay mình tự do trên
ngọn cây sào. Trong trường hợp nào hắn cũng được tôn kính. Này
chư tăng, ta muốn hỏi các nguơi: Làm sao ngươi tiến thêm nữa từ
ngọn của cây sào ấy? Coi chừng đấy!
-
Có
người thiếu mất con mắt thứ ba nội tại
-
Sẽ dính
mắc vào chỗ phải đo đúng trăm đốt.
-
Kẽ như
vậy sẽ nhảy xuống từ đó và tan xác,
-
Như một
người mùdẫn những kẽ mù khác.
-
47. BA
CỬA CỦA TOSOTSU
-
Tosotsu
xây ba chướng ngại vật và bắt các tăng phải vượt qua. Cản thứ
nhất là tu học Thiền. Trong viêc tu học Thiền là cốt đê nhận ra
bản lai diện mục của mình. Bây giờ thì bản lai diện mục của
ngươi ở chỗ nào?
-
Cản thứ
hai là khi nhận ra được bản lai diện mục của mình thì sẽ thoát
được khỏi vòng sanh tử. Vậy khi ngươi nhắm mắt lại và trở thành
thây ma thì làm sao ngươi giải thoát được?
-
Cản thứ
ba, nếu ngươi giải thoát được khỏi vòng sanh tử, thì ngươi phải
biết ngươi đang ở đâu. Vậy nếu thân xác ngươi bị tan rã ra thành
tứ đại, thì ngươi ở đâu?
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Nếu ai có thể vượt qua được ba rào cản này thì sẽ
trở thành bậc thầy dù là đứng ở đâu. Bất cứ?#7879;c gì xãy ra
thì hắn sẽ biến thành Thiền. Còn không thì hắn sẽ sống lây lất
đói kém.
-
Một sự
chợt ngộ thấy suốt thời gian vô tận.
-
Thời
gian vô tận là một chốc lát.
-
Khi
người ta thấu được chốc lát vô tận
-
Hắn
nhận ra con người đang trông thấy đó.
-
48. MỘT
ĐƯỜNG CỦA KEMBO
-
Một
thiền sinh hỏi Kembo: "Tất cả chư Phật trong mười phuơng vũ trụ
đều đi theo một đường duy nhất vào Niết bàn. Con đường đó bắt
đầu từ đâu?"
-
Kembo,
vung thiền trượng lên không vẽ một hình, nói: "Này, nó đấy."
-
Thiền
sinh này tìm đến Vân Môn và hỏi cùng một câu. Vân Môn đang sẳn
cầm cái quạt trong tay, bảo: ""Cái quạt này sẽ bay lên đến ba
mươi ba tầng trời và đập vào mũi của vị thiên vương đang cai
quản ở đấy. Nó giống như Long Vương ở Biển Đông trút mây mưa
bằng một cái vẫy đuôi."
-
Lời bàn
của Vô-Môn: Một thiền sư đi vào biển sâu, cào mặt đất để lấy một
ít bụi. Vị khác thì leo lên đỉnh núi cao, khơi sóng gần chạm đến
trời. Một người thì giữ chặt, người kia thì bố thí hết. Mỗi vị
đều hộ trì giáo pháp thâm diệu với một tay mình. Kembo và Vân
Môn đều giống như hai kia đã, chẳng ai hơn ai. Thật là khó mà
bảo ai là kẽ toàn bích. Nhưng sòng phẳng mà nói thì cả hai đều
chẳng biết con đường bắt đầu từ đâu.
-
Trước
khi cất bước đầu tiên thì mục đích đã đạt.
-
Truớc
khi lưỡi uốn thì lời nói đã dứt.
-
Cần rất
nhiều trực quan sáng suốt
-
Để tìm
ra nguồn gốc của chánh đạo.
-
49. LỜI
THÊM CỦA AMBAN
-
Amban,
một thiền sinh tầm thường, nói: "Vô-Môn Huệ Khai vừa cho ấn hành
bốn mươi tám công-án và gọi tập sách là Vô Môn Quan. Ngài chỉ
trích giáo thư và hành động của chư Tổ. Ta nghĩ ông ấy bậy quá.
Ngài giống như một ông già bán bánh cố túm lấy khách để nhét
bánh vào mồm ngươi ta.
-
Khách
chỉ còn cách hoặc là nuốt vào hoặc nhổ ra, và như thế chỉ gây
đau khổ. Mu-mon đã làm phiền nhiều người quá rồi, vì thế ta muốn
thêm vào một công án xem như là một sự điều đình. Ta không biết
ngài có chịu nuốt sự mặc cả này không.
-
Nếu
ngài chịu, và tiêu hóa nó thì tốt, nếu không thì ta đành phải bõ
nó vào chảo mà chiên xào nó lại cùng với bốn mươi tám công-án
của ngài. Mu-mon, ngài dùng trước, rồi mới đến mọi người khác:
-
"Theo
một bộ kinh thì Đức Phật có nói: ‘Hãy ngưng, hãy ngưng. Đừng
nói. Chân lý tối thượng lắm khi còn không thể nghĩ đến."
-
Lời bàn
của Amban: Giáo pháp đó từ đâu mà ra vậy cà? Cớ sao ngưới ta lại
không thể nghĩ đến chân lý tối thượng? Giả sử có người nói đến
nó thì chuyện gì sẽ xảy ra với nó? Đức Phật là vị đại thuyết
minh mà cứ theo bộ kinh này thì ngài lại nói ngược ư. Vì lẽ này,
những người như Vô Môn Huệ Khai xuất hiện về sau ở Trung Hoa, và
làm những món bánh vô bổ, khiến mọi người bực mình. Vậy thì
chúng ta phải làm gì nào? Ta sẽ chỉ cho các ngươi.
-
Rồi
Amban chấp tay lại và nói: "Hãy ngưng, hãy ngưng, Đừng nói. Chân
lý tối thượng lắm khi còn không thể nghĩ đến. Bây giờ ta sẽ vẽ
một vòng bằng ngón tay của ta lên trên bộ kinh, và thêm vào năm
ngàn bộ kinh khác và Cửa Không của Duy Ma Cật (Vimalakirti) ở
ngay đây!"
-
Nếu ai
bảo các ngươi rằng lửa là ánh sáng,
-
Chẳng
để ý đến làm gì.
-
Khi hai
tên đạo chích gặp nhau, chúng chẳng cần giới thiệu:
-
Chúng
nhận ra nhau ngay, không cần hỏi.
|
|