Thư Viện Chùa Dược Sư
PHẬT HỌC CƠ BẢN
(05)
Luận Giải Về
Pháp Thiền Quán Dzogchen
Tác giả : Gyatrul Rinpoche
Việt dịch : Nguyễn Hòa
--o0o--
  
Bạn đã có thể quen thuộc với sự kiện là khái niệm khởi lên từ tâm. Bây giờ bạn phải tìm coi tâm bắt đầu từ đâu, nó hiện hữu chỗ nào, và cuối cùng nó chấm dứt nơi đâu. Tương tự như vậy, bạn thử tìm hiểu nơi mà các vọng niệm nổi lên, nơi nó hiện hữu, và nơi nó chấm dứt. Kinh nghiệm về giác ngộ bắt đầu, hiện hữu, và chấm dứt nơi đâu? Còn đâu là chỗ khởi nguyên, tồn tại, và chấm dứt của kinh nghiệm thế gian? Ai kinh nghiệm về an lạc và đau khổ? Nếu bạn đi đến kết luận là chính cái tâm kinh nghiệm về giác ngộ và thế gian, thì từ đâu mà cái tâm bắt đầu, hiện hữu và chấm dứt? Tâm có thể sờ chạm  được hay không? Nó không có hình sắc? Nếu bạn xác định là tâm có hình sắc, thì nó có hình dạng, màu sắc như thế nào? Nếu nó có thể sờ chạm được, nó phải có vài đặc tính. Nếu bạn nghĩ nó không có thực chất, thực thể nào, thì bạn thử xem cái kinh nghiệm đó là gì. Điều cốt yếu là phải có  một  đạo sư  đã nhận thức được bản tánh của tâm  để có thể giúp hướng dẫn bạn một cách đúng đắn đi qua cái kinh nghiệm này.
Một đạo sư có đủ phẩm cách ở mức tu tập này là người đã hiểu biết rõ bản chất của tâm. Tại Tây Tạng có nhiều trường hợp mà các đệ tử  bị những ông thầy không có thực chứng dẫn đi lạc đường. Ở mức tu tập này, có nhiều nguy hiểm và cạm bẫy. Nếu, bằng tiến trình xem xét, bạn hoàn toàn không thể tìm thấy tâm và thay vào đó, cái điều mà bạn tìm thấy chỉ như một khối cầu không gian, mở rộng, giống như khi nhìn vào một khoảng không gian trống, rộng lớn, thì tuy bạn không thể diễn tả được nó, bạn đã đi đúng đường. Tuy nhiên, kinh nghiệm về cái không này không phải là phủ định mọi thứ, để rơi vào chỗ cực đoan của chủ nghĩa hư vô, tin là không có gì hết. Nó chính là kinh nghiệm rất mở rộng; và bên trong chỗ khai mở đó, có rất nhiều khả năng. Điều quan trọng nữa là phải rất cẩn thận về mức thâm sâu của lời giảng dạy nàỵ Nếu bạn hiểu nó hời hợt theo ngôn từ, không có kinh nghiệm quán chiếu nào, thì bạn có nguy cơ bị lầm lẫn về thực tại, và trở nên mất trí khôn.  Đó là tại sao thật quan trọng  khi nhận lời giảng dạy dưới sự chỉ bảo của một ông thầy có phẩm cách theo như truyền thống. Qua truyền thống này, sự giác ngộ được thực hiện trong thân và trong một đời người, bởi vì lời dạy này có sức mạnh đặt hành giả vào tình trạng giải thoát, nơi mãi mãi  không còn có dấu vết của nhận thức sai lầm . Biết được bản tánh của tâm là điểm cốt lõi trên suốt con đường hành đạo; tuy nhiên, cũng có thể là rất nguy hiểm nếu bạn không tiếp cận nó một cách cẩn thận và đúng đắn. Bước thứ ba là có được vững vàng cái nhìn đúng về bản chất thực tại. Để nhận thức về bản chất này, bạn không cần tìm kiếm nơi nào khác hơn là bên trong của   bạn. Cái bản chất này là tinh yếu của tâm và là kinh nghiệm tự khởi sinh. Nhận thức này là tâm bao trùm khắp cả mọi thứ tạo nên cõi ta bà và niết bàn.Tâm của tất cả Phật, của chính bản tánh vốn có của bạn, thoát khỏi tính nhị nguyên, chiếu sáng, từ bi vô ngại. Sau khi bạn có tự tín ở tri kiến, thì bạn có thể đạt được kinh nghiệm thiền quán khi đi sâu vào tri kiến. Giữ đừng nghĩ đến quá khứ, hiện tại và tương lai, giữ thăng bằng trong trạng thái giác tỉnh tươi mới, không trung gian (trực giác), cũng được gọi là thiền quán. Cái kinh nghiệm mở khai, sáng tỏ, là bản tánh tự khởi sinh của tâm, không cần được tìm kiếm như một kinh nghiệm thiền quán riêng biệt. Bạn không nên coi là bạn đang thử tạo ra một kinh nghiệm giả tạo.  Chỉ nhận thức và cứ trực tiếp đi vào bản tánh tâm của chính bạn. Đây là ý nghĩa của pháp thân (biểu hiện thực tại sau cùng). Hơn nữa, trong kinh nghiệm về pháp thân, cảm thọ từ giác quan vẫn có và chỉ được quan sát vô tư, không có sự nắm bắt hay vướng mắc (chấp thủ) nhị nguyên . Sự khai mở này sáng chiếu và bao trùm mọi vật, không gây đau khổ vì không có tính nhị nguyên. Nó không thể tạo ra lợi ích , và không thể tác hại. Nó vượt qua lãnh vực của lợi và hại, chấp nhận hay bác bỏ. Bạn không còn cần phải nghĩ :"Ổ, tôi không thể làm điều đó; tôi không phải làm điều đó". Bước thứ ba là duy trì sự liên tục  khi hành xử chuyện bình thường.  Thái độ xử   xự phải giống như lúc thiền quán, và thiền quán phải giống như tri kiến. Thường bạn xem hành xử là kinh nghiệm có sau khi thiền quán,  xảy ra sau buổi toạ thiền. Để duy trì sự liên tục hành xử, phải tổng hợp tri kiến, thiền quán, và hành xử thành một không thể phân chia. Vì sự quân bình trong thiền quán chỉ là duy trì trong tính giác khai mở, không trung gian, không bị sự chấp thủ   làm ô nhiễm, hoàn toàn sáng tỏ và thư giãn, khi bạn từ kinh nghiệm này đi lên, bạn nên nhận thức là mọi hiển hiện và kinh hiệm đều giống như sự phô bày hão huyền của tính giác bên trong. Tất cả sắc tướng đều mang vẻ thiêng liêng. Bạn có thể nghe bản chất của mọi âm thanh là âm thanh của lời chú man tra. Mọi niệm đều được hiểu là trò chơi của tánh giác thanh tịnh. Bạn cũng có thể xem những hiển hiện trong đời sống hằng ngày  như là mộng, ảo giác, không có tự tánh chân thật. Ở mức tu tập này không còn có sự phân biệt giữa thiền quán và cách hành xử. Kinh nghiệm thiền quán được đưa vào thể cách mà hành giả cảm nhận những hiển hiện của đời sống hằng ngày, và vào cách hành xử lúc bình thường. Điều này có nghĩa là những vọng niệm được dùng để làm hiển lộ con đường hành đạo hơn là làm ngăn trở nó. Khi sự chấp thủ chấm dứt, niệm sẽ khởi lên như một ảo giác để tô điểm cho con đường hành đạo. Nếu,  bạn có thể còn nghĩ là vọng niệm làm hại bạn, đem lại đau khổ hay vấn đề khó khăn, bạn chỉ cần đi vào vọng niệm và nhận ra bản chất vọng niệm là  trống không , thì nó sẽ tan mất. Nếu bạn theo đuổi niệm, và như vậy cho phép nó kiểm soát tâm, thì bạn sẽ mất tri kiến (cái thấy về con đường đạo). Bằng không, nếu bạn chú tâm vào niệm, bạn sẽ thấy bản chất nó là không, và nó sẽ tan mất, giống như ngọn sóng nổi lên trên mặt biển, rồi biến mất vào trong biển. Không có gì sai quấy với một vọng niệm khởi lên, khi bạn nhận thức là nó khởi lên từ   tánh giác thanh tịnh, và tan vào tánh giác. Khi bạn có thể nhận ra những vọng niệm là không có gì khác hơn  sự phô bày của chính tánh giác, trống không và không có thực thể, bạn sẽ để vọng niệm đi và nhìn chúng  tan vào lại cái nguồn trống không của chúng. Tóm lại, bạn phải cẩn thận, trong khi thực tập về hành xử như hành đạo, đừng để bị sự xao lãng quấy phá và bị thói quen chấp thủ khuất phục.  Là hành giả, bạn nên thực tập như một dòng sông trôi chảy, đều đặn, không ngừng. 
Bước thứ tư và là bước cuối là cách đạt được thành quả sau cùng. Đạt đạo  là nhận ra bản thể của tánh giác ban sơ, thanh tịnh, vốn có  của mình, thoát khỏi mọi phiền toái, lầm lẫn. Kinh nghiệm này vốn là kết quả của tri kiến, thiền quán,  và hành xử, là kinh nghiệm của giác ngộ, hay là giải thoát cứu cánh vượt ra khỏi vòng luân hồi hỗn mang. Nếu sự tu tập của bạn kiên mãnh, thì ngay cả trước khi chết, bạn nhận ra được bản tánh của tâm, và thể hiện nó qua thực hành  bốn bước kể trên, bạn sẽ được giải thoát. Bằng không, giải thoát sẽ đến vào lúc bạn chết, hay trong trạng thái bardo. Nhờ ở phúc lạc khi hoàn thành việc tu tập này, chắc chắn là sự giải thoát sẽ đến vào một trong những thời điểm trên. Điều đòi hỏi bắt buộc  là phải có lòng tin mạnh mẽ vào vị thầy chủ yếu của mình, vị thầy   dẫn đưa  bạn vào bản tánh của tâm, để bạn nhận ra được bản tánh của chính mình. Đây là những lời giảng dạy cốt yếu để thành công trong việc tu tập này. Mục tiêu tối hậu của tĩnh lặng, trí tuệ, Đại Thủ ấn, mahasandhi, cũng không khác gì điều đó.
--o0o--