ĐÓA SEN NGÀN CÁNH
THIỀN TRONG TỊNH ĐỘ
Nhã Lan Thư
---o0o---
Sáng nay trên những con đường còn băng giá
Tôi chợt thấy mùa xuân trên vạn cánh sen hồng
tía…
Tôi say sưa ngắm nhìn cảnh tượng sáng ngời trứơc
mắt tôi, những cành cây trơ trụi của mùa đông bây giờ đã
khóac lên mình những hoa lá trắng mềm mại. Cả cảnh vật như
chìm trong mầu sáng tinh khôi của mùa đông băng giá. Trong
giây phút đó mọi vât dường như ngừng lại, như từ vô thủy
chưa bao giờ thay đổi. Dù thực hay mộng ảo, giửa cỏi này hay
cỏi kia có gì khác không? Giòng tâm tư tôi không ngừng tại
đó, vẩn cuồn cuộn, vẩn trôi chẩy như từ kiếp nào, giửa bờ
thực hư đó, theo thói quen của cuộc sống hiện tại tôi đưa
tay nhấn nút, bổng lời đối đáp giữa Jhon Blofeld và thiền sư
Hư Vân vang lên (xin nghe đoạn này trong cuốn
Ngọc
Sáng Trong Hoa Sen, phóng tác bởi Nguyên Phong).
Tôi xin giản lược dưới đây:
Bạch hòa thượng thiền tông chủ trương giáo ngoại
biệt truyền bất lập văn tự. Vậy chùa này tu thiền sao còn
dạy tu Tịnh Độ.
Hòa thượng Hư Vân:
Tại sao lại không? chúng tôi có dạy tu Thiền, tu
Tịnh Độ, cầu siêu, sám hối...
Jhon: Như vậy có mâu thuẩn không? Một trung tâm
dạy Thiền lại tu Tịnh Độ.
Hòa thượng bật cười thích thú trước câu hỏi của
Jhon:
Mâu thuẩn hả. Không đâu. Đức Phật dạy bốn vạn
tám nghìn pháp môn không ngoài mục đích cúu khổ.
Ngài mỉm cười:
Này thí chủ sao lại chấp trước phân biệt, khi đã
hiểu và vượt lên đối đãi nhị nguyên thì tâm Phật và chúng
sanh là một, vì tâm Phật và chúng sanh vốn không hai. Khi
những người dân quê hiền lành chất phác đến nghe ta giảng
pháp, phải chăng ta sẽ giảng cho họ những gì, về thực tại vô
ngã, về tánh không, hay đối đãi nhị nguyên...thì họ không
thể hiểu, đều là những danh từ trống rổng, những điều này có
ích lợi gì với họ. Nhưng nếu ta nói về hạnh nguyện tiếp dẫn
của đức phật A Di Đà và cỏi tây phương cực lạc của ngài thì
họ sẽ hiểu, sẽ tin và phát tâm tín nguyện mong được sinh về
cỏỉ đó. Họ sẽ suốt ngày trìniệm hồng danh của ngài khi đi
cầy, đi cấy, khi làm ruộng, khi nghỉ ngơi, khi tưới nước,
khi gặt lúa… Họ sẻ trì niệm cho tới khi nhất tâm bất loạn
thì cái ảo ảnh nhị nguyên của vô minh, cái tâm phân biệt có
chúng sanh có chư phật sẻ chấm dứt, họ sẽ chứng ngộ được
thực tại mầu nhiệm ngay. Điều ngưòi ta gọi là tha lực tiếp
dẩn của Đức Phật A Di Đà, gọi là thiển, hay gọi là nhất tâm
bất loạn thì điều này có khác biệt gì đâu. Cái khả năng
giải thóat mà người ta cho rằng vốn ở bên ngoài tức là tha
lực thực ra vẩn ở bên trong tức là tự lực lúc nào cũng sẳn
có kia mà. Đến khi đó tôi bắt đầu hiểu được ý ngài.
Trên đây là đọan đối thoại giửa một thiền sư
Trung Hoa và một học gỉa Tây Phương vào đầu thế kỷ thứ hai
mươi đã rọi sáng trong tâm tư tôi những vướng mắc vào ngôn
từ của đối đãi nhị nguyên, những rắc rối của triết lý trưù
tượng đối với sự đơn thuần nơi con ngươì chất phác của đất.
Đạo phật của hương trầm thơm ngát chốn đền đài vua chúa chói
ngời vàng son gìơ đây đã ngang hàng với những người nông dân
tay lấm chân bùn, những con người nơi chốn quê mùa dân dã
hàng ngày vật lộn với cuộc mưu sinh tầm thường, đã nhờ một
lão sư giầy cỏ aó nâu đạm bạc điểm ra mà giờ đây giửa Thiền
và Tịnh Độ là một. Thật vui mừng thật hạnh phúc khi lão sư
Hư Vân nhẹ nhàng tuyên nói: nhờ niềm tin thành kính vào danh
hiệu Đức Phật A Di Đà mà những con người muôn đời nghèo khó
từ vật chất đến tinh thần đã bước vào hào quang của lý Bát
Nhã bát ngát mênh mông. Niềm hy vọng mà Như Lai đã đem đến
cho xứ Ấn với muôn đời giai cấp, và lúc này đây lại nở tung
ra tại đất nước Trung Hoa của những cao nhân ẩn sỉ đầy minh
triết.
Đạo Phật từ ngàn xưa đã là một đạo của nghành xã
hội học tân tiến vì dân nhất, đâu đợi ngày nay nơi xã hội
phương tây qua nhiều cuộc cách mạng đẫm máu mới tìm thấy.
Đạo Phật đã đặt nơi con người lòng thương xót vô cùng tận,
cho những con người chưa từng được nghe được hiểu những gì
cao xa đẹp đẻ như ngọc vàng lóng lánh nơi đền đài kia, giờ
đây đã hóa thân như áng mây nơi đồng nội, như bông sen nơi
hồ nhỏ thơm hương của đạo lành. Trong lúc đó tôi chợt nhớ
đến ngừơi bạn da đen, bà ta là một người da đen nhỏ nhắn
luôn nở nụ cười an lạc. Khỏang mấy năm trước, việc làm
chuyển tôi tới một khu học chính khác, chuyện đầu tiên là
tôi phải liên lạc với chuyên viên phụ trách về học vấn cho
những trẻ em mà gia đình nghèo nhất xứ sở này. Những trẻ em
không có bố và mẹ thì bị tước quyền vì lạm dụng những chất
độc của ma túy. Tôi đinh ninh người tôi gặp sẻ là một con
người to lớn, giọng nói ồm ồm và luôn căng thẳng vì hàng
ngày phải đối diện với rất nhiều nổi khổ niềm đau tới từ
những hòan cảnh khác nhau. Nhưng khi cánh cửa gổ nặng nề mở
ra, trước mặt tôi là một người đàn bà đen trung niên, cặp
mắt sáng nhưng đầy thân thiện. Sau khi duyệt qua hồ sơ của
những trẻ em cần giúp bà nhẹ nhàng cám ơn sự hợp tác của tôi
và không quên chúc tôi một ngày đầy an lạc. Sau nhiều lần
làm việc, bà đã thân với tôi hơn, bà bắt đầu hỏi thăm tôi về
gia đình và sau cùng là tôn giáo của tôi. Tôi cho bà biết
tôi là một phật tử, ngay lập tức bà vui mừng đưa tay ra nắm
lấy tay tôi và cho biết bà cũng là một phật tử. Thật là một
sự ngạc nhiên, tôi chưa bao giờ biết ở giửa một thành phố xô
bồ nhiều sắc dân, nhiều tôn giáo như Tin Lành, Thiên Chúa
Giáo, Hồi Giáo này tôi lại gặp một người ngoại quốc đi đạo
Phật. Tôi hỏi thăm vì nhân duyên gì mà bà trở thành Phật tử,
bà kể cho tôi là gần bốn mươi năm trước khi bà còn là sinh
viên của một trường đại học ở Boston thì bà quen một người
bạn Nhật. Vẻ điềm đạm, nét an lạc, sự quan tâm đến người và
vật của người sinh viên ấy đã khiến bà ta tò mò vào thư viện
trưòng tìm đọc về đông phương và nền minh triết cổ xưa. Sau
cùng bà ta tìm qua Nhật học và trở nên một phật tử. Bà cho
tôi biết bà đã qua những thiền viện và lối sống tỉnh lặng
gần như tách rời cuộc sống của những vị thiền sư vốn ít lời
nhưng khi nói thì như sấm sét đánh qua. Có lẻ lối thiền ở
những tu viện đâỳ kỷ luật không phù hợp và thêm vào đó là
văn hóa dị biệt và ngôn ngữ bất đồng, cho nên có một thời
gian bà không theo một giáo phái naò. Sau này vì một cơ
duyên bà theo môn phái của Soka Gakai, đây là một trường
phái mới của đạo phật Nichiren, một đạo phật nhập thế của
Nhật sau Đệ Nhị Thế Chiến. Bà ta mời tôi tham dự một khóa
lể hai tuần sau. Vào chủ nhật sau đó, tôi tìm đường tới
trung tâm của Soka Gakai, đó là một trung tâm lớn như trường
học. Bà ta đưa tôi vào thiền đường, nơi đây trang hoàng
giản dị rất sáng với nhiều cửa kính, chính giửa là một trang
thờ hình chử nhật với hai cánh cửa mầu vàng kim sáng ánh.
Khi người chủ tế và tín hửu tới đầy đủ, thì hai thanh niên
người da đen mặc âu phục trắng, đeo găng tay trắng thành
kính mở cánh cửa ra sau ba hồi chuông đánh ngân dài. Tôi
thấy những dòng chử Phạn viết rất đẹp ở khung kính trang thờ.
Vị chủ tế bắt đầu có lẻ vài câu kinh bằng Phạn ngữ và sau đó
bằng phiên âm Nhật ngữ, mọi người cùng cất tiếng tụng với âm
thanh trầm bổng, điều khá thich thú là mọi người đều có
những chuổi đá mầu khác nhau đan giửa hai bàn tay và liên
tục kéo vào kéo ra tạo nên những âm thanh lanh canh. Khỏang
nửa giờ tụng kinh, vị chủ lể đánh ba hồi chuông dài, sau khi
toàn thể tín hửu đã tụng niệm danh hiệu chư phật. Thì lần
nửa hai ngươì thanh niên thành kính đóng cửa trang thờ lại.
Tiếp đó là chiếu phim ngắn về hoạt động của giáo hội tại
Nhật và khắp các phân viện trên thế giới, rất quy mô và rất
cập nhật hóa. Trên màn ảnh lớn, các vị tôn đức đọc lời nhắn
nhủ và những bài thơ dầy khích lệ. Cuối cùng là giây phút
mọi người nắm tay và chúc tụng nhau, vị chủ lể mời các tín
hửu lên chia sẻ những khó khăn họ gặp phải và lý do đưa họ
tới môn phái Phật giáo nầy. Các tín hửu mầu da đen hay trắng
đứng lên chia sẻ cảm nghỉ của họ bằng một câu kinh ngắn, bài
thơ nhỏ, bằng sự giúp đở người cơ hàn. Một số người Mỷ tìm
đến đạo Phật vì sự cô đơn của một xả hội dường như mở rộng
nhưng thật ra đã khép kín với họ khi nghèo đói đến, khi tuổi
gìa, và những thất bại trong đời sống. Tôi ngồi im lắng
nghe những người gìa cũng như trẻ nói lên tâm sự của họ. Đạo
Phật ở đây rất giản dị, không nói đến kinh điển hay giảng lý
thuyết cao, chỉ là những nâng đở về mặt tinh thần, một vài
buổi thiền học đơn giản, nhưng chủ yếu là sự động viên khích
lệ và sự nhắc nhở cuộc đời đầy bất tòan nhưng con người
không cho phép sự tuyệt vọng nẩy mầm vì xung quanh họ có
những đóa sen ngủ sắc sẻ ban tặng đến họ vì một giáo lý cao
cả đả một lần nẩy mầm ở phương đông giờ đang gởi huơng theo
gió và những cánh hoa mầu nhiệm đó từ từ nở ra tại đây. Tôi
thật sự cảm động nhìn những người đạo hửu nầy, sau đó người
bạn tôi hỏi tôi nghỉ sao về một đường lối phật giáo mới khác
với thiền tại phương đông. Lúc bấy giờ tôi khá bối rối, tôi
không biết nói sao để cho người bạn đó hiểu Phật giáo không
phải chỉ là Thiền Tông (Zen), qúa xa vời với đời thường,
rất là hào nhoáng với giới trí thức trẻ (giới yipy) của châu
âu hay đa số là dân da trắng. Ờ phương tây Phật giáo đang
được yêu chuộng như là một lối sống đầy mới mẻ, cao cấp và
hiện đại của những con người thành công trên mọi lảnh vực và
đồng thời đầy minh triết. Người Mỹ phần nhiều thích những
gì mới và sáng tạo (new and creative), trực phá
(directness), và gợi sự suy nghĩ trái biệt (intrigue).
Tôi muốn diển tả cho bà ta hiểu về một đạo Phật
nâu sòng của những làng quê nơi xứ Việt, một đạo Phật bình
dị rất đời thường giản dị như Tấm Cám, như Bụt hiện ra giúp
kẻ khốn cùng, như cầu siêu độ sanh, như sự cầu mong của
người nghèo thóat khỏi cùng khổ, như lý nhân quả phạt ác
thưởng thiện v..v..và v..v.. Nhưng có một cái gì đó vẩn
không hoàn chỉnh, vẩn không rỏ nét cho người bạn vốn vì mầu
da mà cha ông bị bắt từ một xứ sở xa xôi bên đại lục Phi
Châu lưu lạc đến Tân Thế Giới, rồi bao thế hệ bị bạc đải
mãi cho đến ngày nay nhờ một vỹ nhân người da đen là ông
Luther King tranh đấu cho quyền làm người bình đẳng (Amrerica’s
civil rights movement), một người đã thấm nhuần tinh thần
tranh đấu bất bạo động của thánh Ghandi.
Sáng nay nhờ thực tại mầu nhiệm của cảnh đông
trắng tinh khôi, nhờ lời chỉ dạy của thiền sư Hư Vân, tôi đã
tìm được câu giải thích cho người bạn dễ mến này. Tôi muốn
nói lại ý của lão sư Hư Vân như ngài đã từng dạy:
Đạo Phật như đoá sen nghìn cánh, cho dù pháp môn
nào, tông phái nào, chẳng qua là giúp đưa người vượt trầm
luân tại cỏi đời này, độ người thoát khổ tại giây phút này.
Lời đáp chỉ giản dị như thế. Thiền của đời thường chỉ đơn
giản như thế.
Ngay tại phút đó, thiền và tịnh độ như đã từng
chưa bao giờ phân biệt đả thể nhập làm một. Trong thiền có
độ, trong độ có thiền.
Tôi ngừng xe lại bên vệ đường, chắp tay trong
cõi lòng thành kính. Sáng ngời đóa sen ngàn cánh với những
sắc màu lung linh đang bừng nở giữa cõi người tại đây, tại
quê hương tôi, tại những nơi khác nhau, và trong trùng trùng
thế giới hoa tạng của kinh hoa nghiêm,và bừng lên mầu nhiệm
giũa vô vàn chúng sinh vô tình và hửu tình.
Nam Mô A Di Đà Phật.
Nhã Lan Thư
02-13-2009 06:46:23