CHÀO EM, CON CHIM NHỎ
Hạnh Chi
---o0o---
Có lẽ tôi được sanh ra ở cung di, nên từ bé đã
phải thay đổi chỗ ở luôn. Mới mười tuổi cha mẹ tôi đã phải
dắt díu đàn con dời nơi chôn nhau cắt rốn là đất Thăng Long,
xa quê nội Hà Đông, quê ngoại Hà Nam thuộc miền Bắc để vào
Nam lánh nạn Cộng Sản. Vào tới trong Nam thì ôi thôi, chẳng
thể kể hết đã lang thang những đâu vì cha tôi phục vụ nơi
nào thì gia đình tạm cư những trại gia binh nơi đó. Mỗi lần
dời đổi, chỉ người lớn là bận rộn, mệt nhọc chứ mấy chị em
tôi còn bé, càng được tới nhiều chỗ lạ, càng náo nức, vui vẻ!
Hạt lúa miền Nam nuôi chúng tôi lớn khôn dần và
cái “cung di” vẫn theo tôi như bóng với hình, mà thành tích
hãi hùng nhất là nó đã bứng tôi ra khỏi Quê Hương từ hơn ba
mươi ba năm nay! Nơi xứ người, tôi tiếp tục xê dịch từ đông
sang tây, từ nam lên bắc!
- Lại dọn nhà nữa hả?
Cuối tuần qua, sư-tỷ tôi la lên như vậy khi sau
thời tu buổi trưa, tôi bảo: “Chiều nay em về sớm để dọn nhà!”
Nói cho oai chứ có nhà đâu mà dọn! Chỉ là ôm một
thùng kinh sách, gom dăm bộ áo nâu, áo lam tới một nơi tạm
trú khác, nơi mà tôi gọi là “những điểm-tạm li ti trong
cõi-tạm Ta Bà!”
Căn phòng nhỏ nhất trong tòa nhà hai tầng nhưng vẫn là khá
rộng với tôi, một kẻ hành trang đã nhẹ tênh, nhẹ hẫng.
Đêm đầu tiên nơi ở mới, tôi ngồi thiền rất khuya
nên sau khi xả thiền là đi thẳng vào giấc ngủ; mà hình như
đã từ lâu lắm tôi mới có thể không trằn trọc trước khi ngủ
như thế!
Tôi bị đánh thức bởi tiếng chim lảnh lót, ngay
trước cửa sổ. Căn phòng chỉ có một cửa sổ duy nhất nên nương
theo âm thanh, tôi biết chắc con chim nào đó đang đậu ngay
trên bờ tường hông nhà. Trời mới tờ mờ sáng, ẩm hơi sương và
tĩnh lặng hương nguyệt cầm của vầng trăng non còn lửng lơ
trên mây bạc. Trong không gian của đêm chưa qua, ngày chưa
tới đó, chỉ có một con chim nhỏ đậu trên bờ tường dài, đang
hướng mỏ vào khung cửa nhỏ của người khách trọ xa lạ. Phải,
tôi mới dọn tới chiều qua nên còn hoàn toàn xa lạ với nơi
này. Vậy mà con chim nhỏ đã đến thăm. Cửa sổ chưa có màn nên
cả hai thấy rõ nhau. Tôi ghé sát vào khung lưới, cảm động và
thân ái nói:
- Chào em, con chim nhỏ.
Bất ngờ thấy tôi, con chim không sợ hãi bay đi
như lẽ thường; trái lại, nó nhẩy nhót như vui mừng rồi lại
cất tiếng hót.
Cám ơn em, tình bạn đầu tiên nơi xóm lạ. Này con
chim nhỏ, em tên gì? Em không phải Bạch Hạc, Khổng Tước, Anh
Võ, Xá Lợi, Ca Lăng Tần Già, nhưng tiếng hót của em sáng nay
như dư âm tiếng khánh sau thời công phu khuya, trầm hùng lời
tụng Thủ Lăng Nghiêm:
“… Án, a na lệ, tỳ xá đề, bệ ra bạc xà ra đà
rị, bàn đà bàn đà nể, bạt xà ra bán ni phấn. Hổ hồng, đô lô
ung phấn, ta bà ha.”
Xem nào, em có cái đuôi dài hơn Sẻ, mình thon
gọn như Sáo nhưng bộ lông điểm xanh biếc lẫn với mầu xám tro,
hài hòa như cát và biển. Em có phải là Yến không? Mà thôi,
tên em là gì cũng đâu có làm thay đổi quà tặng đẹp đẽ em vừa
mang đến cho tôi. Đó là tiếng hót đầu ngày, tinh khôi và
thơm ngát. Em đâu có cần hỏi tôi là ai? từ đâu đến? mà em
hoan hỷ tới thăm, có lẽ vì hương trầm tỏa nhẹ từ trang kinh
Bát Nhã tôi tụng đêm qua còn thoảng bên song cửa. Nếu đúng
thế, em quả là một hành giả tín tâm và nhạy bén. Em đó, con
chim nhỏ giữa bao la trời đất mà thể hiện biết bao an nhiên,
tự tại, như những loài chim ở cõi Tịnh Độ do thần lực của
Đức Phật A Di Đà muốn cho tiếng pháp luân lưu khắp chỗ mà
biến hóa làm ra như thế.
Em nói gì? A`, em nhắc tôi cõi Tịnh Độ đâu xa,
cõi Tịnh Độ ngay nơi tâm mình. Vâng, đúng thế đó em. Trên
đường kinh hành, phút giây nào tâm người an trú được trong
chánh niệm, gạn lọc mọi phiền não khổ đau thì phút giây ấy
hành giả đang bước những bước chân trên Tịnh Độ. Tôi cũng
từng được hưởng những phút giây mầu nhiệm đó nhưng thú thực
với em, có lẽ vì định lực còn yếu, chánh niệm chẳng giữ được
lâu nên vọng tưởng lại dắt tôi từ cõi-tịnh xuống cõi-động!
Chẳng phải riêng tôi đâu, mà bao hành giả đang miệt mài trên
đường thiên lý kia cũng như vậy, nên chúng tôi mới phải tu.
Tu là cải, là sửa. Tiếp tục cải sửa, miễn đừng thối tâm thì
cũng có ngày tâm-phàm-phu cảm động tới Chư Phật.
Điều gì làm tôi tin chắc thế ư? Nhiều điều đơn
giản lắm! chẳng hạn như sự hiện hữu của em sáng nay. Có tình
cờ không, khi em đến bên khung cửa của căn phòng bỏ trống đã
lâu và cất tiếng hót lảnh lót? Không đâu em! Không tình cờ
đâu. Trong thầm lặng kỳ diệu, em đã biết tôi và tôi đã biết
em. Đừng cần chi lời giải thích của hý luận thế gian, mà
chính em và tôi đang cảm nhận được nhau. Em ơi, đó là tương
quan của lý duyên khởi, cái này có vì cái kia có, tôi hiện
hiện cho em hiện diện. Chắc em cũng thuộc những câu này
trong kinh Tạp-A-Hàm:
“Nhược thử hữu tức bỉ hữu
Nhược thử vô tức bỉ vô
Nhược thử sinh tức bỉ sinh
Nhược thử diệt tức bỉ diệt”
Khi ý niệm về sinh diệt đạt tới không sinh không
diệt thì ta sẽ vượt khỏi khái niệm của không gian và thời
gian. Vì sao hả? Vì không hẳn Nhân có trước mới sanh Quả. Em
có nghe sự tranh luận về con gà có trước quả trứng hay quả
trứng có trước con gà không? Theo em thì sao, với trường hợp
Mẹ và Con? Làm sao được là Mẹ nếu không có sự xuất hiện của
Con? bởi vì, phút Con chào đời mới có người được gọi là Mẹ;
cho nên Mẹ và Con là chung-sinh, là co-arising, là nương vào
nhau mà có mặt.
Tôi cũng đang nương vào em mà có mặt, như những
cọng lau mềm, nương nhau mà đứng vững trước gió. Rồi chúng
ta cũng chuyển hóa, gió cũng chuyển hóa, vạn hữu đều thầm
lặng chuyển hóa; nhưng em ơi, chỉ những ai nhận diện được sự
kỳ diệu của phút giây hiện tại mới hưởng được niềm an lạc,
hạnh phúc. Em nhìn kìa, trên bầu trời cao, mây đang bay la
đà từng cụm, trắng có, hồng có, xanh có … nhưng này, mây
đang xuống thấp, không còn trắng, hồng hay xanh nữa mà mây
đang chuyển mầu xám. Cả bầu trời chỉ còn là mây xám; rồi mây
xám nhẹ nhàng trôi và lặng lẽ biến mất, nhường không gian ẩm
đục cho mưa! Em ơi, hãy đến sát khung cửa này mà núp dưới
mái hiên kẻo ướt! Em thấy gì không, mưa đang rơi từng hạt,
mưa không kết thành cụm và bay la đà như mây, dù mưa này
chính là từ mây chuyển hóa. Những gì chuyển hóa sẽ không còn
hình dạng cũ, nghĩa là không còn Tướng nữa mà đã thành Vô
Tướng.
Cũng quán sát như vậy về những người thân mà thế
nhân thường sai lầm, quen nhận là “người thân của ta” nên
khi những người thân đó mất đi, hay xa ta, hay phụ bạc ta,
thì ta đau buồn vì ta kẹt vào tướng Mất. Sở dĩ ta kẹt vào
tướng Mất vì trước đó ta đã để ta kẹt vào tướng Còn; trong
khi bản chất của ta và người thân, chẳng khác chi mây, cùng
là vô tướng, vô sinh, bất diệt mà thôi.
Nếu hiểu được như thế, ta sẽ an nhiên tự tại vì
ta không kẹt vào Còn hay Mất nữa.
Mưa tạnh rồi đó. Em lại bay lên bờ tường, líu lo
cám ơn tôi. Không, tôi phải cám ơn em mới đúng chứ vì em vừa
cho tôi cảm giác ấm áp ở nơi chốn còn nhiều xa lạ này. Nhưng
xa rồi sẽ gần, lạnh rồi sẽ ấm như tinh thần cuộc nói chuyện
ngắn ngủi chúng ta vừa trao đổi với nhau. Vạn hữu quanh ta
không ngừng chuyển hóa từng sát na. Và chỉ sát na hiện tại
ta mới có thể thực sự nắm bắt. Hạnh phúc hay khổ đau do ta
tự nhận diện ở sát na này mà thôi. Rồi hiện tại sẽ thành quá
khứ; Và quá khứ là chấm dứt hay khởi đầu của vị lai???
Em ơi, hỡi con chim nhỏ trong buổi sáng mưa bay,
đừng băn khoăn những điều mà khi xưa Đức Phật từng im lặng.
Hãy cất tiếng hót đi em, vì tình yêu đích thực phải là hạnh
phúc. Tình yêu phải là tiếng cười, tiếng hát. Tình yêu không
thể là giọt lệ. Nếu người nói thương ta mà người làm ta khóc
thì có thể chính người cũng đang khóc cùng ta. Sự đau khổ đó
không phải là Tình Yêu mà là niềm bi thiết từ lòng vị kỷ,
biến đối tượng thành điều “mình muốn” mà cứ ngỡ là điều
“chúng ta muốn”. Những bước chân đi tìm hạnh phúc trong
đời-thường của nhân gian thường là gốc rễ của khổ đau khi
cất bước như thế.
Em không chờ tôi biết vỗ cánh tung bay giữa
không gian lồng lộng; tôi cũng không chờ em biết “ngồi yên”
trong ánh nến lung linh, nhưng phút giây hiện tại này, em và
tôi đang cùng rất hạnh phúc, hạnh phúc hơn bất cứ ai đang
ngụp lặn trong tiền rừng bạc bể vì hạnh phúc của tôi và em
là hạnh phúc của quảng-hiệp-tự-tại-vô-ngại, tức là sự an
bình của lớn, nhỏ, dung nhiếp nhau mà không đòi hỏi hoặc làm
trở ngại nhau. Em và tôi vẫn an trú trong môi trường và vị
trí của riêng mình, đồng thời vẫn hòa nhập vào nhau để cho
nhau niềm vui, như cả đại dương nằm trong vỏ ốc, như hạt cải
ôm trọn mặt trời.
Đó là tinh thần “nhất đa vô ngại” mà chúng ta
vừa vô tình đồng cảm nhận, là cánh cửa thứ ba trong mười
cánh cửa mầu nhiệm của kinh Kim Sư Tử Chương. Đây là một
kinh thâm diệu mà sa-môn Pháp Tạng đời nhà Đường đã giảng
giải và khai ngộ cho Hoàng hậu Võ tắc Thiên. Kinh Kim Sư Tử
Chương gồm mười phần mà Thập Huyền Môn (Mười cánh cửa mầu
nhiệm) nằm ở phần thứ bẩy.
Nếu còn đủ duyên với nhau, biết đâu chúng ta
chẳng có dịp cùng dọ dẫm đi tìm chìa khóa những cánh cửa còn
lại.
Này em, khoan đã, đừng vội bay, chờ tôi thả qua
khung cửa tặng em mấy câu thơ này nhé!
“Rừng xưa lá trúc nhẹ lay
Về trong hơi thở hôm nay nhiệm mầu
Tâm an, ý lạc là đâu?
Ngay trong hơi thở lắng sâu hiển bày”(=)
Giữa bầu trời bát ngát sương mai, con chim nhỏ
nhập đàn với bầy chim vừa vỗ cánh ở phương Đông. Phút chốc,
không gian bao la rộn ràng âm thanh hợp tấu của bầy di điểu:
“Thanh thanh túy trúc
Tận thị pháp thân
Uất uất hoàng hoa
Vô phi Bát-nhã” (*)
Trúc biếc xanh xanh
Đâu cũng là pháp thân
Hoa vàng rậm rạp
Đâu cũng là Bát-nhã … (+)
Hạnh Chi
(Độc-Cư-Am – Mùa Trăng 2008)
(+)TT Tuệ Sỹ dịch
(=) Thơ ht