SỨC MẠNH CỦA LÒNG TỪ BI
Hạnh Chi
---o0o---
Đại-đế Nã-Phá-Luân của nước Pháp, người từng làm
rung chuyển đất trời, sụp đổ lâu đài, thành quách mỗi khi
đoàn chiến mã của ông băng qua, nhưng ở lúc cuối đời, đã để
lại câu nói:
“Có hai sức mạnh trên thế giới. Đó là sức
mạnh của thanh gươm và sức mạnh của tấm lòng. Nhưng chung
cuộc, bao giờ tấm lòng cũng đánh bại thanh gươm.”
Hai hình ảnh tương phản đó, là sự hủy diệt và
hàn gắn, sự tàn ác và lòng từ-bi.
Sức mạnh của tấm lòng chính là lòng từ-bi. Với sức mạnh này,
thanh gươm sẽ bị tấm lòng bẻ gẫy!
Nhân gian đời-thường, sau bao kinh nghiệm chìm
nổi, thịnh suy, cuối cùng cũng phải nhận rằng, những gì
tưởng là tột đỉnh của lẽ sống, thực ra chỉ là vô thường mà
những vết thương trầm thống đó, chỉ có lòng từ bi mới chuyển
hóa và trị liệu được.
Lòng từ bi theo lời Phật dạy, chẳng phải chỉ đối
với người sống mà còn với kẻ chết. Những oan hồn uổng tử vất
vưởng ba nẻo sáu đường biết trông cậy vào đâu để mong giải
thoát và tìm đường tái sinh kiếp khác! Nhờ lòng hiếu thảo
của Đại hiếu Mục Kiền Liên muốn báo hiếu cứu mẹ thoát khỏi
địa ngục mà Đức Phật đã dạy Kinh Vu Lan bồn, cách tứ sự cúng
dường cùng việc thí thực cô hồn trong rằm tháng bẩy. Bao hồn
oan lang thang đói khát đã nương sức từ bi, trông chờ ngày
tháng đó mà có bát cháo no lòng; và quan trọng hơn cả là nhờ
công đức hồi hướng chí thành của người cúng thí mà có cơ may
gặp duyên lành được giải thoát.
Đây là hình thức
chung cho đại chúng, mỗi năm mới cúng một lần. Nhưng vì biết
được sự khát khao trông đợi của biết bao oan hồn uổng tử,
tuy khuất mày khuất mặt nhưng đau đớn luôn phảng phất, mênh
mang trời đất nên có nhiều tự viện vẫn thành tâm thí thực
mỗi ngày, hoặc mỗi tuần.
- Tôi thấy được điều này ở chùa Phật Tổ.
Hàng tuần, chúng tôi có hai ngày tu niệm Phật
thường xuyên là thứ bẩy và chủ nhật. Những Phật tử ở xa, đến
từ chiều thứ sáu, nghỉ đêm tại chùa cho đến hoàn mãn lúc 5
giờ chiều chủ nhật. Sau khi hoàn mãn, quý thầy cô trong chùa
thường sắp một bàn dài, trước cửa chánh điện, bầy trái cây,
bánh kẹo, chè, cháo, để cúng cô hồn. Những Phật tử dự khóa
tu đều hoan hỷ ở lại góp lời trì tụng. Mỗi chiều chủ nhật,
cư dân địa phương quanh chùa lại nghe tiếng trống của thầy
Thường Giới, quyện cùng tiếng khánh, tiếng mõ của các sư-cô,
thiết tha mời gọi bao oan hồn gần xa hãy mau về thọ tài
hưởng thực, thính pháp văn kinh:
“Thần chú gia trì cam lồ thủy
Phổ thí hà sa chúng cô hồn
Nguyện giai bảo mãn xả xan tham
Tốc thoát U Minh sanh Tịnh Độ
Quy y Tam Bảo phát Bồ Đề
Cứu cánh đắc thành Vô Thượng Đạo
Công đức vô biên tận vị lai
Nhứt thiết cô hồn đồng pháp thực”
Mỗi lần tới đoạn này, chúng tôi đều vừa cất
tiếng tụng, vừa nhìn nhau vì cùng nhận được như có sự giao
cảm nhiệm mầu:
“Oai linh thần chú phi thường, nước mát biến
thành nước cam lộ, cúng thí vô số chúng cô hồn, cầu cho no
ấm hết xan tham, thoát khỏi U minh về Cõi Tịnh, quy y Tam
Bảo rõ Đạo Mầu, rốt ráo trọn nên bậc Vô Thượng, công đức
không lường ở vị lai, tất cả cô hồn đồng Pháp-thực”
Những ai từng dự lễ cúng cô hồn, dù phẩm vật
dâng cúng đơn sơ tới đâu nhưng với lời trì tụng chí thành
giữa làn khói hương nghi ngút đều cảm thấy ít nhiều bâng
khuâng của sự giao cảm âm dương cách biệt.
Tình cờ, tôi vừa đọc được một bài viết rõ nét về
sự chiêu cảm nhiệm mầu này, cho chúng ta niềm tin mạnh mẽ
hơn về một thế giới vô hình, tuy khoa học không chứng minh
được nhưng cũng không thể phủ nhận được.
Bài viết về dịp mới đây, tăng thân Làng Mai sang
thăm viếng
Viện
Phật Học Ứng Dụng Âu Châu
(VPHUDAU),
danh xưng tiếng Anh là European Institude of Applied Buddism
(EIAB), tại thành phố Waldbroel, Đức Quốc.
Tòa nhà này đã trải qua nhiều giai đoạn lịch sử
thịnh suy của nước Đức. Theo bài viết, năm 1895, tòa nhà
hoành tráng, mênh mông này từng là bệnh viện chính của thành
phố, với nhiều phân khoa, trong đó có sản khoa mà nhiều nhân
vật tiếng tăm đã từng chào đời tại đây. Nhưng sau đó, bệnh
viện này lại trở thành bệnh viện tâm thần và trung tâm nuôi
giữ trẻ khuyết tật. Đến năm 1938, chính phủ Đức đương thời
muốn trưng dụng làm Hàn Lâm Viện Quân Sự cho quân đội Đức
nên đã ra lệnh di chuyển toàn bộ hơn 700 trẻ khuyết tật và
những người tâm thần đi đâu, biệt tích!
Sau đó, tòa nhà được sửa sang nguy nga tráng lệ
cho một Hàn Lâm Viện bề thế, nhưng quân đội chưa được xử
dụng ngày nào thì Hitler thua trận! Ngôi nhà đương nhiên
thuộc về Bộ Quốc Phòng, nhưng chỉ thỉnh thoảng dùng làm nơi
tổ chức những khóa huấn luyện ngắn hạn cho các sỹ quan. Khi
bức tường ngăn cách Đông và Tây Bá Linh sụp đổ thì một lần
nữa, số mệnh tòa nhà nổi trôi theo lịch sử, bị bỏ trống lâu
năm, rồi cuối cùng, được giao cho Phòng Bất Động Sản của
quân đội để bán cho tư nhân.
Với sự nhiệm mầu gần như KHÔNG THỂ NGHĨ BÀN,
ngôi nhà đã được gợi ý thành Viện Phật Học Âu Châu dưới sự
lãnh đạo tinh thần của Sư Ông Làng Mai, tức Thiền sư Trừng
Quang Nhất Hạnh, thuộc thế hệ thứ 42 của Tông Lâm Tế và thế
hệ thứ 8 của phái Liễu Quán.
Những tiến trình sau sự gợi ý này đã tiến nhanh
ngoài dự tưởng của những người trong cuộc trên cả hai phương
diện, tinh thần và vật chất. Những thương lượng khởi đầu:
“Thôi, chúng tôi làm gì có tiền như thế mà mua nổi!”, tòa
nhà đã GẦN NHƯ TẶNG KHÔNG, để với thời gian kỷ lục, nay đã
thoát xác, thành Viện Phật Học Ứng Dụng Âu Châu.
Mới đây, sáng ngày 14 tháng 11 năm 2008, khi
thiền hành trong công viên, Sư Ông chợt thấy trên vườn hoa
dẫn vào cổng trước, một phiến đá rất đẹp, trên đó có gắn một
miếng đá nhỏ hơn, hình chữ nhật, ghi chi chít tiếng Đức. Sư
Ông đã bảo sư-chú Pháp Chu người Đức, dịch cho Sư Ông nghe.
Phiến đá ghi:
“Để tưởng niệm những người trong bệnh viện
cũ này tại Waldbroel, mà trong thời gian (Đức) Quốc Xã, bị
xem như là không đáng sống và bị lấy mất nhân cách và mạng
sống của họ qua cách ép buộc kết liễu đời mình và bị ép lấy
mất khả năng sinh con.”
Bên dưới có một tấm bia khác, ghi thêm chi tiết
về con số 700 bệnh nhân tâm thần và khuyết tật đã bị chở đi
biệt tích, ngày 14 tháng 11 năm 1938.
Với hai tấm bia ghi lại thảm kịch này, người sau
hiểu rằng hơn 700 nạn nhân thời đó đã bị bức tử!
Sư Ông Làng Mai và tăng đoàn đều giật mình sửng
sốt vì từ khi tiến hành thủ tục nhận tòa nhà này, dù đã đến
đây mấy lần nhưng chưa hề nhìn thấy phiến đá, cũng chưa nghe
ai nói về sự kiện này. Vậy mà, điều gì đã chờ đợi đến đúng
ngày 14 tháng 11 năm 2008, để bước chân thiền hành của vị
thiền-sư dừng lại trước phiến đá, ghi nhận được dấu mốc đúng
70 năm sau thảm kịch!
Nhận ra sự trùng hợp kỳ diệu này, chính vị
thiền-sư từng thản nhiên trước mọi sự, cũng phải rùng mình!
Thầy Pháp Ấn, vị đệ tử lớn của Sư Ông và cũng là
người sẽ chịu trách nhiệm điều hành
Phật Học
Viện Âu Châu trong giai đoạn đầu đã từng kể rằng,
tuần lễ mới về, thầy thường nằm mộng thấy nhiều trẻ em
khuyết tật khóc than, cầu cứu. Sáng ra, thầy có kể cho mọi
người nghe thì các sư cô đã lập đàn, cúng cháo, bánh kẹo;
thì một vài đêm sau đó, có sư cô đã nằm mộng thấy nhiều em
bé chạy nhảy, vui đùa, cùng nhau ăn bánh kẹo thỏa thích. Các
Thầy Cô nghĩ rằng, có lẽ chỉ vì thành tâm mà có biểu hiện
trong những giấc mơ thế thôi.
Nhưng, sau sự khám phá bất ngờ về tấm bia đá ghi
chứng tích thảm kịch này thì những dữ kiện đã kết hợp lại
với nhau, không gì là tình cờ nữa! Những oan hồn từ thế giới
vô hình đang cố gắng truyền đạt nỗi thống khổ của họ tới
những ai mà họ tin là có thể bám víu, có thể tin tưởng sẽ
cứu vớt họ được.
Thảm kịch xảy ra đã bẩy mươi năm. Suốt thời gian
đằng đẵng đó, nỗi oan khổ của hơn bẩy trăm oan hồn, hẳn vẫn
kêu khóc tức tưởi ngày đêm, nhưng vô vàn bi phẫn đó vẫn còn
nguyên vẹn! Bẩy mươi năm, bao nhiêu ngàn vạn bước chân đã đi
ngang, nhưng có lẽ không một tấm lòng nào đủ từ bi khiến
bước chân dừng lại! Hoặc có dừng lại, nhưng không đủ năng
lượng mẫn ái để cứu giúp!
Vậy thì, đây hẳn là thông điệp kỳ diệu của Chư
Phật, Chư Bồ Tát, Chư Thiên, Chư Tiên đã sắp đặt để tòa nhà
giam hãm bao oan khiên thống khổ này, nay được trở thành
Linh Địa, nơi sẽ hướng dẫn và dìu dắt chúng sanh chuyển hóa
và trị liệu thương tích cho nhau, để cùng lên đường giải
thoát, giác ngộ.
Sự khám phá trùng hợp, bất ngờ này không những
làm sững sờ dân chúng nước Đức mà còn khiến nhiều kẻ vô thần
phải hoảng sợ, nghĩ lại về nghiệp báo oan gia, khi vay trả
chưa xong thì nợ nần vẫn còn đó.
Lời khấn nguyện với các hương linh tại Waldbroel
mà Sư Ông Làng Mai đã soạn để các sư cô cúng tụng mỗi chiều,
thể hiện lòng Đại Từ Đại Bi mà Đức Thế Tôn đã truyền dạy
ngài Mục Kiền Liên khi xưa:
“Xin hương linh quý vị và các cháu lắng
nghe và chứng giám,
Bẩy mươi năm về trước, người ta đã đối xử rất tệ hại với
liệt vị. Nỗi khổ niềm đau rất lớn ấy, ít ai thấy được.
Ngày nay, Tăng thân đã tới, đã nghe và đã hiểu
tất cả những khổ đau, tủi nhục và uất ức ấy. Tăng thân đã đi
thiền hành, đã ngồi thiền, đã thở trong chánh niệm, đã trì
chú, tụng kinh, thí thực, để cầu, trên Chư Bụt, chư vị Bồ
Tát, chư vị Tổ Sư, xin quý Ngài hồi hướng công đức vĩ đại
của quý Ngài cho liệt vị và các cháu, để quí vị và các cháu
có cơ hội chuyển hóa, tái sanh ra dưới hính thức mới. Những
người đã làm khổ quí vị, họ cũng đã gánh chịu nhiều hậu quả
khổ đau. Xin quí vị mở lòng từ bi, tha thứ cho họ, để họ
cũng có cơ hội giải thoát và chuyển hóa.
Xin quí vị hộ trì cho Tăng thân và cho các thế
hệ hành giả kế tiếp để họ có thể biến nơi này thành một cơ
sở thực tập chuyển hóa và trị liệu, không những cho thành
phố Waldbroel mà cho cả nước Đức và cả toàn thế giới.”
- Lương tâm nhân loại ơi!
Với những huyền bí và mầu nhiệm của sự việc vừa
bất ngờ chứng nghiệm và giao cảm, trước sự chứng kiến khách
quan và đông đảo của mọi thành phần, chúng ta thử tưởng
tượng xem, nếu tòa nhà này, qua sự mua bán bình thường, lại
trở thành những địa điểm cung ứng thú vui dục lạc đời-thường,
thì bao oan hồn uổng tử kia biết bám víu vào đâu mà mong
ngày giải thoát!
ÁN TAM ĐÀ RA DÀ ĐÀ TA BÀ HA
Hạnh Chi
(Độc-Cư-Am, chớm Đông 2008)
12-12-2008 12:23:56