Ý NGHĨA CHỮ XẢ TRONG ĐẠO PHẬT
---o0o---
Xả là một trong 4 pháp Vô lượng tâm: Từ bi hỷ và
xả. 4 trạng thái tâm này là kết quả của quá trình tu tập 37
phẩm trợ đạo. Nói một cách khác, nó là kết quả của hành giả
sau khi đã thành tựu giới định và tuệ. Tức là sau khi thấy
rõ thực tướng của các pháp là vô thường, khổ, không và vô
ngã, từ đó trạng thái hỷ xả của tâm mới xuất hiện, do vậy
khái niệm xả trong đạo Phật không mang ý nghĩa bình thường,
nó luôn luôn liên hệ với trí tuệ. Có nghĩa là nếu không có
trí tuệ thì trạng thái xả ấy không phải là loại xả trong đạo
Phật, dù là đạo Phật thuộc Thượng toạ bộ hay Phật giáo Đại
thừa.
Sự khác biệt về quan niệm ‘xả’ giữa hai phái chỉ
là sự khác biệt về cách mô tả về trí tuệ. Theo Thượng toạ bộ
cho rằng, trí tuệ (pa??a) chỉ xuật hiện khi nào có sự phân
biệt, so sánh đối tượng, kết quả của sự phân biệt, nó cho
chúng ta có sự nhận thức đúng về sự vật, cái đó là trí tuệ;
Ngược lại, Đại thừa mô tả về trí tuệ bằng từ ngữ pra-jnparmit,
pra là trước, trước khi; jn
là nhận thức và parmita
là đến bờ bên kia, tức là giác ngộ, từ này bổ nghĩa cho khái
niệm jn,
có nghĩa là sự nhận thức của bậc đã giải thoát, không phải
là kẻ phàm phu. Như vậy từ pra-jnparmit
là sự nhận thức trước khi có sự so sánh phân biệt về đối
tượng. Có thể nói đây là cách giải thíc không đồng giữa hai
trường phái về tuệ giác của Phật. Thế nhưng dù gì đi nữa, cả
hai khái niệm này đều cùng có chung nguồn gốc, xuất phát từ
sự hiểu biết, là trí tuệ. Do vậy, khái niệm ‘xả’ trong Phật
giáo không đồng nghĩa với khái niệm ‘vô tri’ hay trạng thái
'xả thọ' trong 3 thọ, là trạng thái vô tri vô giác, cũng như
thái độ dửng dưng, vô trách nhiệm của con người. Đây chính
là sự dị biệt về nhận thức luận giữa Phật giáo Tiểu thừa và
Đại thừa.
Từ ý nghĩa này, nó gợi ý cho chúng ta hiểu rằng,
khái niệm ‘xả’ trong Phật giáo nhấn mạnh hai điểm là sự xả
bỏ hay chấp nhận sự chuyển biến của sự vật thuộc về vật chất
và tư tưởg thuộc về tinh thần. Chỉ có sự chấp nhận này mới
mang lại cho chúng ta cuộc sống an vui và hạnh phúc, thoát
khỏi sự mâu thuẫn giữa nhận thức và thực tại. Với thái độ
chấp nhận như vậy, đó là biểu thị tâm tư giải thoát không
còn sự chấp trước, thoát khỏi sự dao động khấy nhiễu của 6
trần. Đây chính là nội dung và ý nghĩa của chữ xả mà chúng
ta sẽ thảo luận trong bài viết này.
1- Mối quan hệ giữa xả và trí tuệ
Theo tryuền thống kinh tạng Pàli hay Àgama mô
tả, khái niệm ‘xả’ là một trong ‘Bốn vô lượng tâm’: Từ, bi,
hỷ và xả. 4 pháp vô lượng tâm này không nằm trong 37 phẩm
trợ đạo: 4 niệm xứ, 4 chánh cần, 4 như ý túc, 5 căn, 5 lực,
7 bồ đề phần và 8 chánh đạo[1]. 37 phẩm trợ đạo là những
phương pháp tu tập của Phật giáo Nguyên thủy, 4 vô lượng tâm
là kết quả của sự tu tập 37 phẩm trợ đạo đó. Liên quan đến
quan điểm này trong “Kinh Trung Bộ” (Majjhima-Nikàya) 'Kinh
Bát Thành' (Atthakanàgara-sutta)[2] ghi rằng, sau khi vị Tỷ
kheo đoạn trừ 5 triền cái, thành tựu 4 thiền, tâm được giải
thoát. Lúc bấy giờ tâm của vị Tỷ kheo ấy liền xuất hiện lòng
từ bi hỷ xả đối với mọi loài chúng sanh. Như vậy, tâm xả này
phải có liên hệ đến trí tuệ hay nói một cách khác, trạng
thái tâm xả này phải do giới định tuệ hình thành, không phải
do tâm ngu muội, không có giới định và tuệ. Cái gì do giới
định tuệ tạo thành thì cái ấy được gọi là Phật pháp, và
ngược lại cái gì không do 3 yếu tố này hình thành thì cái ấy
không thể gọi là Phật pháp. Cũng vậy, loại xả nào do trí tuệ
tạo thành thì xả ấy có liên hệ với Phật pháp. Ngược lại loại
xả nào do vô tri vô minh tạo thành thì loại xả ấy không liên
hệ với Phật pháp.
Thế thì giữa xả và trí tuệ có mối liên hệ như
thế nào ? Liên quan câu hỏi này, trước hết chúng ta căn cứ
kinh điển Pàli, "Kinh Trung Bộ" tập 1, 'Kinh Tất Cả Lậu
Hoặc' (Sabbàsava-sutta) đức Phật giải thích như sau:
Này các Tỷ-kheo, Ta giảng sự diệt tận các lậu
hoặc cho người biết, cho người thấy, không phải cho người
không biết, cho người không thấy. Và này các Tỷ-kheo, thế
nào là sự diệt tận các lậu hoặc cho người biết, cho người
thấy: có như lý tác ý và không như lý tác ý. Này các
Tỷ-kheo, do không như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh được
sanh khởi, và các lậu hoặc đã sanh được tăng trưởng. Này các
Tỷ-kheo, do như lý tác ý, các lậu hoặc chưa sanh không sanh
khởi, và các lậu hoặc đã sanh được trừ diệt.[3]
Ở đây, từ ‘lậu hoặc’ tức chỉ cho những phiền não
hay là những loại khổ đau trong đời sống của con người. Trên
thật tế, khổ đau có nhiều loại, nhưng không ngoài hai loại
chính là khổ đau về thể xác và khổ đau về tinh thần. Loại
khổ đau về thể xác là loại khổ đau tự nhiên không ai tránh
khỏi, dù chúng ta có tu hay không tu, giàu hay nghèo...thì
vẫn phải chịu loại khổ đau này, như hiện tượng bịnh hoạn là
một điển hình cụ thể. Là con người không ai có thể tránh
khỏi nổi khổ đau này, mục đích giáo dục của Phật giáo không
nhằm giải quyết nổi khổ đau này, vấn đề chính mà Phật giáo
muốn giải quyết chính là những loại khổ đau về tinh thần.
Qua nội dung và ý nghĩa chính của bài kinh này,
đức Phật chỉ cho chúng ta thấy rõ nguyên nhân khổ đau là
‘thiếu sự hiểu biết’, như vậy nếu chúng ta muốn trừ diệt
những nổi khổ đau này, phải lấy sự hiểu biết đoạn trừ, đó là
lý do tại sao đức Phật nói đoạn kinh này:
Ta giảng sự diệt tận các lậu hoặc cho người biết, cho người
thấy, không phải cho người không biết, cho người không thấy.
Thế nào gọi là thấy và biết ? ở đây đức Phật gọi
người thấy và biết là người có ‘như lý tác ý’ và gọi người
không biết không thấy là người ‘không như lý tác ý’. Ý nghĩa
của từ ‘như lý tác ý’ là đạo lý hay bản thân của sự vật như
thế nào thì chúng ta suy nghĩ như thế ấy, không phải sự suy
nghĩ xuất phát từ sự tưởng tượng, mang tính mơ hồ không có
thật. Như vậy cái gì xuất phát từ ‘không như lý tác ý’ thì
cái ấy sanh đau khổ; Ngược lại cái gì được hướng dẫn bỡi
‘như lý tác ý’ thì cái ấy sẽ mang lại hạnh phúc và an lạc.
Tại sao hành vi nào có ‘như lý tác ý’ lại mang lại hạnh phúc
an lạc ? vì ‘như lý tác ý’ chính là vai trò của trí tuệ.
việc gì được trí tuệ phán xét thì việc ấy được rõ ràng. Việc
gì mà chúng ta thấu rõ yếu tố sanh và diệt của nó, khi sự
việc ấy sanh diệt, người đó không bao giờ có thái độ nuối
tiếc hay giận hờn khi sự kiện ấy sanh hay diệt. Thái độ
không nuối tiếc, chính là tâm xả trong 4 vô lượng tâm, là
trạng thái xả của sự giải thoát, tâm này chỉ xuất hiện khi
nào có trí tuệ. Cũng vậy, "Bát Nhã Tâm Kinh" thuộc hệ kinh
điển Phật giáo Đại Thừa cũng cùng chung quan điểm cho rằng:
Bồ tát Quán Tự Tại bằng trí tuệ thấy rõ bản chất
của 5 uẩn là không, nhờ vậy mà không còn bất cứ loại đau khổ
nào.
Nội dung và ý nghĩa của câu kinh này nhấn mạnh,
nhờ trí tuệ quán chiếu thấy được bản chất của 5 uẩn
(pa?ca-skandha) là không, do thấy rõ 5 uẩn (Sắc, thọ tưởng,
hành thức) là không, cho nên không còn chấp thủ 5 uẩn, cho
nên, đoạn trừ tất cả phiền não. Phiền não chỉ được đoạn trừ,
khi có trí tuệ xuất hiện, khi trí tuệ thì tâm xả mới xuất
hiện. Từ ý nghĩa này, nó gợi ý cho chúng ta nhận thức rằng,
tâm xả luôn luôn liên hệ đến trí tuệ, hay nói một cách khác
tâm xả là kết quả của trí tuệ, tuệ là nhân của xả, xả là quả
của tuệ, nhờ trí tuệ mà thấy rõ thực tướng các pháp. Đây là
ý nghĩa chữ xả trong Phật giáo, không nên hiểu chữ xả liên
hệ đến vô minh.
2- Xả là sự chấp nhận sự chuyển biến của sự
vật
Nguồn gốc của khổ đau là vô minh. Vô minh thể
hiện bằng hai loại tâm, thứ nhất là tham lam với những đối
tượng khả ái; thứ hai là lòng sân hận với những đối tượng
bất khả ái. Tham mà không được cho nên khổ, ghét mà cứ xuất
hiện trước mắt cho nên khổ. Nói một cách khác hai loại khổ
này là do sự ‘chấp trước’ mà có. Thế nào gọi là chấp trước ?
chấp trước là sự không chấp nhận thật tại không ưu thích, có
nghĩa là thật tại là như thế mà chúng ta không muốn nó như
thế, muốn nó tồn tại theo sự suy nghĩ chủ quan của mình, sự
không chấp nhận này được gọi là chấp trước. Ví dụ người yêu
của mình không còn thương yêu mình nữa, cô ta đã ra đi, thế
nhưng như ý thức không chấp nhận sự kiện này, do vậy khổ
sanh. Sự khổ đau này do không chấp nhận thực tại mà có, nếu
chúng ta chấp nhận thì khổ không sanh. Như vậy khái niệm
không chấp trước của Phật giáo mang ý nghĩa khuyên chúng ta
nên chấp nhận sự thật, mặc dù sự thật đó có ảnh hưởng xấu
với chúng ta, vì thật tại là như thế chúng ta phải suy nghĩ
và hành động như thế, không thể suy nghĩ khác đi đước. Đây
chính là ý nghĩa của câu ‘như lý tác ý’ mà đức Phật đã dạy.
Từ ý nghĩa này, nó gợi ý cho chúng ta hiểu rằng, không chấp
trước không có nghĩa là không nên phân biệt hình tướng đúng
sai, nam nữ, thiện ác…như chúng ta thường dùng trong cuộc
sống, chúng ta cần thận trọng khi sử dụng những khái niệm
này trong kinh điển của Phật giáo Đại thừa, vì bản thân
những khái niệm này đều mang ý nghĩa đặc trưng riêng của nó,
chúng ta không nên tách nó ra khỏi bối cảnh của nó mà lý
giải, hoặc vay mượn một loại ngôn ngữ khái niệm khác giải
thích về nó, vì điều đó dễ sanh sự ngộ nhận. Nói một cách
khác, chúng ta không nên vay mượn bất cứ một khái niệm triết
học nào hay bất cứ khái niệm trong tôn giáo nào để thay thế
hay giải thích khái niệm trong Phật học, vì Phật học không
tương đồng với khái niệm của triết học hay tôn giáo, đây là
điều mà người làm công tác nghiên cứu Phật học cần chú ý.
Từ ý nghĩa của khái niệm xả mà chúng ta vừa
trình bày trên, nếu chúng ta một cách nghiêm túc nghiên cứu
về khái niệm xả được mô tả trong các kinh điển của Phật giáo
thì chúng ta thấy khái niệm xả tâm được mô tả dưới hai góc
độ, một là xả đối với vật chất và hai là xả đối với mặt tri
kiến hay quan niệm. Trong phần này chúng ta chúng ta tìm
hiểu trạng thái xả tâm đối với vật chất.
Như chúng ta đã biết, pháp mà đức Phật chứng ngộ
dưới cội cây Bồ đề là giáo lý Duyên khởipratìya- samutpàda).
Giáo lý này cho chúng ta nhận thức rằng, sự hình thành mọi
sự mọi vật trên thế gian này là đều do nhiều nhân nhiều
duyên kết họp lại mà thành, trong đó ngay cả con người chúng
ta cũng thế, là một tập thể bao gồm sắc (rùpa), thọ
(vedanà), tưởng (samj?a), hành (samskàra) và thức (vij?àna)
hay gọi là ngũ uẩn (pa?ca-skandha). vì bản chất của các pháp
là duyên khởi, cho nên đặc tính của nó là vô thường. Vì đặc
tính của các pháp là vô thường cho nên nó cũng vận hành theo
quy luật tự nhiên của nó, cái gì vận hành theo quy luật tự
nhiên thì nó không thể tùy thuộc vào ý chí của chúng ta, đó
là lý do tại sao đức Phật gọi các pháp là vô ngã (anàtman).
Như vậy là sự mâu thuẫn giữa nhận thức và sự hiện hữu của sự
vật, vì ý thức chúng ta mong muốn sự vật như thế này, nhưng
trên thực tế sự vật lại vận hành như thế khác. Như chúng ta
muốn người thân của ta không già bịnh và chết, nhưng không
một người thân nào của chúng ta không trải qua hiện trạng
này. Sự mâu thuẫn này dẫn đến sự khổ đau, vì chúng ta không
chấp nhận sự vật vô thường. Đây chính là điểm mà đức Phật
khuyên chúng ta nên nhìn thẳng vào bản chất của con người,
để chúng ta hiểu được nó, tránh khỏi sự khổ đau. Như rất
nhiều kinh trong kinh điển A hàm hay Nikàya đức Phật đã
trình bày. Ví dụ ‘Kinh Tạp A hàm” Kinh số 33 đức Phật đã
phân tích thân ngũ uẩn như sau:
Sắc không phải là ngã. Nếu sắc là ngã thì không
thể có bịnh, khổ sanh nơi sắc, và cũng không nên đối với sắc
ước muốn khiến nó như thế này, hay không muốn khiến nó như
thế kia, vì sắc là vô ngã, cho nên có bịnh, khổ sanh ra nơi
sắc, và cũng được muốn khiến đối với sắc là như vậy, hay
đừng là như vậy. Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như
vậy.
- Này các Tỷ kheo, ý thầy nghĩ thế nào, sắc là
thường hay vô thường ?
- Tỷ kheo bạch Phật: Vô thường, bạch Thế Tôn.
- Này các Tỷ kheo, nếu là vô thường, có phải là
khổ không ?
- Bạch đức Thế Tôn, là khổ.
- Này các Tỷ kheo, nếu sắc là vô thường, là khổ.
Là pháp biến dịch. Như vậy vị đa văn thánh đệ tử có nên ở
trong đó thấy là ngã, khác ngã, hoặc ngã ở trong nhau chăng
?
- Tỷ kheo bạch Phật: Không nên bạch Thế Tôn.
Đối với thọ, tưởng, hành, thức cũng quán như
vậy.”[4]
Qua đoạn văn vừa dẫn trên cho ta nhận thức rằng,
cái mà chúng ta gọi là ‘thân của ta’. Thật ra thân đó được
kết họp bỡi 5 yếu tố mà thành, tức là sắc, thọ, tưởng, hành
và thức. Điều đó đồng nghĩa là thân này do duyên khởi mà
sanh, khi nó không còn đủ duyên thì nó phải vận hành theo
luật tự nhiên của nó là ‘chuyển biến’ từ thanh xuân cho đến
già hay từ già cho đến chết, bất cứ ai với thân thể là con
người thì phải chịu qui luật chung này, không ai thoát khỏi,
dù cho có tu hay không tu, dù cho là phàm phu hay thánh
nhân. Đây là định luật vận hành của con người hay vũ trụ.
Thế nhưng phàm phu chúng sanh không rõ về định luật này, cho
nên có thái độ không chấp nhận định luật vô thường chuyển
biến này, do vậy mà sanh khổ. Nguyên nhân nổi khổ này phát
sinh chính là thật tại thì chuyển biến mà ý thức thì muốn nó
không chuyển biến, chính sự mâu thuẫn giữa sự nhận thức và
thực tại cho nên phát sanh khổ. Như vậy chúng ta muốn chấm
dứt nổi khổ này chỉ có cách duy nhất là chấp nhận qui luật
vô thường này. Đây chính là ý nghĩa mà đức Phật khuyên chúng
ta nên nhận thức một cách rõ ràng rằng, sắc, thọ, tưởng,
hành và thức là vô thường, cái gì vô thường là khổ, do vậy
chúng ta không nên chấp trước nó là tôi, là của tôi, là tự
ngã của tôi. Sự chấp nhận sự vô thường chuyển biến của mọi
sự mọi vật và ngay cả con người chính là tâm xả, trạng thái
tâm xả này xuất hiện chỉ khi nào chúng ta nhận thức đúng đắn
về bản chất của con người. Đây cũng chính là ý nghĩa của
câu: ‘Khi Bồ tát Quán Tự Tại thực hành sâu xa tuệ quán, liền
thấy 5 uẩn đều không cho nên không còn đau khổ.’ Có nghĩa là
do vì thấy rõ thật tướng của 5 uẩn là vô thường, nhờ vậy mà
không còn chấp 5 uẩn là thật có, vì không chấp thủ cho nên
khổ không do đâu mà sanh. Ở đây, thái độ không chấp thủ là
tâm xả trong bốn vô lượng tâm hay loại xả cõi thiền thứ 4
trong bốn thiền.
3- Xả là sự chấp nhận sự biến đổi về tư
tưởng
Loại khổ thứ hai là loại khổ về tư tưởng. Loại
khổ này được xuất hiện do sự cố chấp về mặt tư tưởng, có
nghĩa là quan điểm tư tưởng không đúng hoặc không còn phù
họp với thực tế nữa, nhưng vẫn khư khư cố chấp cho nó là
đúng, giữ vững lập trường quan điểm tư tưởng của mình, chính
sự cố chấp này đã tạo thành nổi khổ không những cho chính
mình mà còn gây nổi khổ cho kẻ khác, nếu như quan điểm đó có
liên quan đến người khác. Ở đây chúng ta có thể đơn cử một
ví dụ đơn giản và dễ hiểu mà trong cuộc sống chúng ta thường
gặp. Ví dụ như quan điển về việc hôn nhân cho rằng, cha mẹ
đặt đâu con ngồi đó. Ở xã hội ngày nay, nhất là những xã hội
của những nước Âu Mỹ, nếu như cha làm mẹ nào vẫn còn giữ
quan điểm này, bắt con cái phải chấp nhận tuân lệnh cha mẹ,
điều đó không những chính người ấy chuốt lấy phiền não khổ
đau mà còn làm cho người con khổ đau nữa, không những thế mà
còn trái với luật pháp Vì sao ? Vì quan niệm hôn nhân của
thời đại ngày nay, hoàn toàn không còn giống như thời đại
của cha ông chúng ta trước đây. Đôi nam nữ cần phải có thời
gian tối thiểu để tìm hiểu lẫn nhau về tánh tình, quan niệm
sống, quan niệm gia đình, chủng tộc, tôn giáo…, trước khi
chấp nhận cưới nhau. Điều đó trái hẳn với quan niệm hôn nhân
với ngày xưa, cha mẹ cưới gả cho ai thì con pải chấp nhận.
Bất cứ quan niệm nào không còn giá trị trong cuộc sống, có
nghĩa là nó đã bị đào thải ra khỏi xã hội, nếu như ai đó vẫn
cố chấp thì sẽ bị xã hội cô lập. Như vậy người đó tự chuốt
lấy khổ đau và phiền muộn. Thái độ cố chấp này bắt nguồn từ
sự thiếu tri thức, trong Phật pháp gọi là thiếu trí tuệ, do
vì thiếu trí tuệ cho nên người ấy không chịu sửa đổi nhận
thức sai lầm của mình, cho nên sanh đau khổ. Hành vi không
chịu sửa sai chính là thái độ cố chấp, vì cố chấp cho nên
không xả bỏ pháp bất thiện, quan điểm bất chính.
Liên quan đến khái niệm xả về quan điểm tư
tưởng, chúng ta thấy trong kinh điển Phật giáo có khá nhiều
kinh được đề cập. Trước nhất là “Kinh Tạp A hàm” Kinh số
262, đức Phật dạy rằng:
Người thế gian điên đảo nương vào hai bên: hoặc
‘có’ hoặc ‘không’. Họ bám lấy các cảnh giới, tâm liền chấp
trước. Này Ca Chiên Diên…lúc cái khổ này sanh là khổ sanh,
lúc cái khổ này diệt là khổ diệt. Đối với điều này không
nghi, không mê lầm, không do người khác mà có thể tự biết.
Đó gọi là chánh kiến mà Như Lai đã nói. Vì cớ sao ? Này Ca
Chiên Diên ai hay chánh quán như thật về thế gian tập thì
không sanh kiến chấp cho thế gian là ‘không’, ai hay chánh
quán như thật về thế gian diệt, thì không sanh kiến chấp cho
thế gian là ‘có’. Này Ca Chiên Diên, Như Lai xa lìa nhị
biên, nói trung đạo, nghĩa là: Cái này có cho nên cái kia
có, cái này sanh cho nên cái kia sanh. Nghĩa là duyên vô
minh có hành, cho đến sanh, già, bệnh, chết, ưu, bi, khổ,
não tập. Cái này không cho nên cái kia không, cái này diệt
cho nên cái kia diệt, nghĩa là vô minh diệt thì hành
diệt….khổ não diệt.[5]
Qua đoạn kinh trên, đức Phật cho chúng ta nhận
thức, đức Phật không chủ trương cuộc đời này là thật có hay
thật không, vì ‘có’ hay ‘không’ là hai khái niệm tương đối,
đứng từ hai góc độ ‘sanh’ hay ‘diệt’ khác nhau của cùng một
sự kiện. Nếu ta đứng từ góc độ sự vật đang trong quá trình
hình thành thì chúng ta không thể gọi nó là ‘không’, vì nó
đang hình thành có nghĩa là nó đang hiện hữu; Ngược lại, nếu
chúng ta đứng từ góc độ sự vật đang trong quá trình biến
hoại thì chúng ta không thể gọi sự vật là ‘có’, vì nó đang
chuyển biến từ có đến không. Nếu chúng ta không đứng từ hai
góc độ này nhìn về sự vật thì sự vật ấy không thể gọi là có
hay không, là sanh hay diệt, vì có hay không, sanh hay diệt
chỉ là một hiện tượng trong quá trình tồn tại của sự vật. Do
vậy chúng ta không thề gọi nó là không hay có. Đây chính là
ý nghĩa của câu:
Ai hay chánh quán như thật về thế gian tập thì
không sanh kiến chấp cho thế gian là ‘không’, ai hay chánh
quán như thật về thế gian diệt, thì không sanh kiến chấp
cho thế gian là ‘có’.
Có và không là hai mặt của một vấn đề, lìa có
không có khái niệm ‘không’, lìa không cũng không có khái
niệm ‘có’, bất tức cũng bất ly. Cái khổ của chúng sanh là
đứng bên này hay bên kia, một là ‘có’ hai là ‘không’. Mang
quan điểm là ‘có’, khi thấy sự vật biến hoại, tạo thành tâm
lý hốt hoảng, sợ chúng không còn, do vậy lo âu phiền muộn
cũng theo đó mà sanh; Khi có quan điểm là ‘không’ thì lại
cho rằng, không có nhân không có quả, không có thiện cũng
không có ác, không có tội cũng không có phước. Từ quan niệm
sai lầm này đã dẫn đến cá nhân chủ nghĩa, có tư tưởng tận
hưởng dục lạc, không sợ tội phước. Đây là nguyên nhân của
mọi khổ đau cho con người. Muốn thoát khỏi sự khổ đau này,
con người cần phải từ bỏ những quan điểm sai lầm hay không
còn phù họp với cuộc sống. Sự từ bỏ này chính là ý nghĩa
khái niệm ‘xả’ trong đạo Phật.
Từ ý nghĩa của đoạn kinh vừa dẫn, nó cũng gợi ý
cho chúng ta hiểu rằng, xả không mang ý nghĩa cái gì cũng xả
bỏ, ngay cả những nhu cầu cần thiết của đời sống hằng ngày
của con người. Đức Phật dạy chúng ta biết hỷ xả là sự xả bỏ
họp lý, tức là cái gì không còn giá trị, không liên hệ với
cuộc sống chúng ta nữa, hay nói đúng hơn nó không giúp ích
cho ta trong sự nghiệp đoạn trừ phiền não, thành đạt an lạc
và hạnh phúc thì cái ấy cần phải xả bỏ, cho dù cái ấy được
mệnh danh là gì đi nữa. Như trong “Kinh Kim Cang” nói rằng:
“Chánh pháp còn phải bỏ đi huống là phi pháp”. Câu kinh này
là một chứng minh cụ thể cho chúng ta thấy rằng, tinh thần
xả trong đạo Phật rất khách quan, nói lên tính trong sáng,
tôn trọng sự thật của đạo Phật. Dù đó là những lời giảng dạy
của Phật, nhưng khi nó không còn thiết thực liên quan giúp
ích cho sự giác ngộ và giải thoát nữa thì lời kinh đó chúng
ta cũng cần phải bỏ đi, không nên nắm giữ.
Để tránh trường họp ngộ nhận về ý nghĩa của câu
kinh này, chúng ta cần giải tìm hiểu nguồn gốc và ý nghĩa
của nó như thế nào. Thật ra câu kinh này được xuất phát từ
‘Kinh Ví Dụ Con Rắn’ (Alaggadùpamasutta) trong “Kinh Trung
Bộ” với nội dung và ý nghĩa như sau:
Này các Tỷ kheo, Ta sẽ giảng pháp cho các ông,
ví như chiếc bè để vượt qua, không phải để giữ lấy. Hãy nghe
và khéo tác ý…
Này các Tỷ kheo, ví như có người đi trên con
đường lớn dài, đến vùng nước rộng, bờ bên này nguy hiểm và
hãi hùng, bờ bên kia an ổn và không kinh hãi, nhưng không có
thuyền để vượt qua hay không có cầu bắc qua từ bờ bên này
đến bờ bên kia…Chư Tỷ kheo rồi người đó thâu góp có, cây,
nhành, lá kết thành chiếc be, và dựa trên chiếc bè này, tinh
tấn dùng tay chân vượt qua bờ bên kia một cách an toàn. Khi
đến bờ bên kia rồi, người đó suy nghĩ: Chiếc bè này lợi ích
nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này, ta tinh tấn dùng tay chân
qua bờ bên kia một các an toàn. Nay ta hãy đội chiếc bè này
trên đầu hay vác nó trên vai, và đi đến chỗ nào ta muốn. Chư
Tỷ kheo, nếu người đó làm như vậy có đúng không?
- Bạch Thế Tôn, không.
- Chư Tỷ kheo, người đó phải làm thế nào cho
đúng sở dụng của chiếc bè? Ở đây, chư Tỷ kheo, người đó sau
khi vượt qua bờ bên kia, có thể suy nghĩ: Chiếc bè này lợi
ích nhiều cho ta, nhờ chiếc bè này mà ta qua được bờ bên kia
một cách an toàn. Nay ta kéo chiếc bè này lên bờ đất khô,
hay nhận chìm xuống nước và đi đến chỗ nào ta muốn. Chư Tỷ
kheo, làm như vậy, người đó làm đúng sở dụng chiếc bè ấy.
Cũng vậy này Tỷ kheo, ta thuyết pháp như chiếc be để vượt
qua, không phải để nắm giữ lấy. Chư Tỷ kheo, các ông cần
hiểu ví dụ chiếc bè…Chánh pháp còn phải bỏ đi, huống là phi
pháp.”[6]
Qua nội dung và ý nghĩa của đoạn kinh vừa dẫn
trên, nó gợi ý cho chúng ta hiểu về ý nghĩa của khái niệm xả
rằng, trước hết đức Phật khẳng định giáo pháp của ngài nói
ra giống như chiếc bè để vượt qua sông, không phải để nắm
giữ. Có nghĩa là lời của ngài giảng dạy chỉ mang tính đối
cơ, giúp cho hành giả đạt đến sự giải thoát, khi hành giả
căn cơ chưa đủ, không thể lãnh hội giáo pháp của ngài thì
không nên lấy đó làm phương pháp tu tập, hoặc là hình thức
mà ngài giảng dạy không còn phù họp với con người và xã hội
ngày nay, thì chúng ta cũng chỉ nên học tập tinh thần giảng
dạy, không nên bám lấy hình thức giảng dạy tạo thành chướng
ngại cho con đường tu tập, tìm cầu sự giải thoát giác ngộ,
hoặc giả khi chúng ta đã thành đạt giải thoát, cũng không
nên bám lấy chấp chặt vào lời giảng dạy. Đây chính là ý
nghĩa của câu: Ta thuyết giảng giáo pháp như chiếc bè để
vượt qua, không phải để nắm giữ. Từ đó đức Phật đi đến kết
luận: ‘Chánh pháp còn phải bỏ đi huống là phi pháp’. Lời dạy
này có phải chăng đức Phật khuyên chúng ta nên buông xả tất
cả ngay cả lời Phật dạy không ? Nếu chúng ta không nắm rõ ý
nghĩa của tinh thần xả của kinh này, rất dễ dàng rơi vào sự
ngộ nhận, dẫn đến hành động sai lầm, phát ngôn bừa bãi,
thiện ác bất phân, đúng sai như một, não loạn tâm người, ảnh
hưởng xấu đến cuộc sống của đạo Phật.
Thế thì xả như thế nào mới đúng tinh thần đức
Phật dạy ? Nếu chúng ta căn cứ vào đoạn kinh vừa dẫn, nó cho
chúng ta một ý nghĩa khá rõ ràng. Tỷ kheo cảm thấy bờ bên
này là nguy hiểm khổ đau, bờ bên kia thì an toàn và hạnh
phúc. Điều đó xác định niềm tin và sự hiểu biết về chánh
pháp, tất nhiên thấy rõ cuộc đời là khổ đau và cuộc sống
xuất gia tu tập là giải thoát. Thứ đến, tư mình lấy cỏ, cây,
cành, lá kết thành chiếc bè và sau đó tự mình chèo qua sông.
Lời dạy này mang ý nghĩa chúng ta có được giác ngộ giải
thoát hay không là do sự nổ lực tu tập của chính mình, không
phải ai cho, cũng không phải chỉ ngồi đó cầu nguyện. Lại một
điểm nữa, trong kinh xác định vị tỷ kheo đã đến bờ bên kia
(paramita), đến bờ giải thoát, nhưng thái độ khác nhau về
chiếc bè. Trường họp thứ nhất Tỷ kheo sau khi qua sông vì
lòng tri ân, cho nên cứ ôm giữ chiếc bè, không chịu buông bỏ
chiếc, để được giải thoát; Trường họp thứ hai, Tỷ kheo sau
khi đến bờ bên kia, bỏ chiếc bè tại dòng sông và tự do đi
nơi nào mình muốn. Trong hai trường hợp này, đức Phật chê
trách trường họp thứ nhất có thái độ nắm giữ, không xả bỏ,
và tán đồng trường họp thứ hai là người đã làm đúng với cách
sử dụng chiếc bè, thực thi tinh thần xả bỏ đúng lúc. Giáo
pháp của Phật cũng thế, nó có giá trị giúp chúng sanh hiểu
rõ đâu là thiện đâu là bất thiện, đâu là hạnh phúc đâu là
khổ đau, để cho chúng sanh hiểu rõ tránh làm việc bất thiện,
ngược lại làm việc thiện, ngỏ hầu thành đạt sự giác ngộ và
giải thoát, nó không phải là những vật chỉ để cho chúng ta
kính lễ đọc tụng hằng ngày mà ý nghĩa trong đó chúng ta
không hề hay biết; Giới luật của Phật nhằm giúp cho thân tâm
thanh tịnh, đời sống hòa vui, không phải là những giới điều
để chúng ta phiền trách người khác, hay để tụng đọc vào mỗi
nửa tháng.
Như vậy, tinh thần xả trong đạo Phật được xác
định, khi đã đến bờ bên kia muốn được tự do đi lại thì nên
quên thuyền, nhưng khi chưa đến thì thuyền vẫn là phương
tiện tốt cho ta qua sông. Cũng vậy, người đã được giác ngộ
không nên vì hình thức giáo dục trong kinh điển mà bận lòng,
chướng ngại sự giải thoát, nhưng nếu như chúng ta chưa giác
ngộ, lời Phật dạy kinh sách vẫn là kim chỉ nam để hướng dẫn
chúng sanh đến bờ giải thoát. Đến được bờ sông bên kia chỉ
nhờ thuyền bè, cũng vậy chúng sanh muốn vào cảnh giải thoát
của chư Phật không thể không nương vào Phật pháp. Như vậy,
khi nào chúng ta đã giác ngộ thì lúc ấy chúng ta mới có thể
xả bỏ chánh pháp để được giải thoát, nhưng khi chưa giác ngộ
lời Phật dạy nó luôn luôn là chiếc bè tốt để cho chúng ta
đến bờ giác.
4- Kết luận
Nếu như 37 phẩm trợ đạo là những phương pháp tu
tập trong Phật giáo Thượng tọa bộ thì kết quả của việc tu
tập đó là 4 vô lượng tâm — từ, bi, hỷ và xả. Nói cách khác,
lòng từ bi hỷ xả trong Phật giáo phải được huấn luyện ngang
qua quá trình tu tập của giới định và tuệ. Từ, bi, hỷ, xả mà
không được trí tuệ hướng dẫn, nó đồng nghĩa với lòng thương
yêu và sự xả bỏ của kẻ vô minh phàm phu.
Tinh thần ‘xả’ trong đạo Phật là thái độ ‘xả’
luôn luôn gắn liền với trí tuệ, gắn liền với ‘như lý tác ý’,
là trạng thái thấy biết đúng như sự thật, lúc bây giờ tâm xả
mới bắt đầu xuất hiện, vì nó đã thấy được bản chất của các
pháp, cho nên không còn chấp trước nữa. Thái độ không còn
chấp trước là thái độ xả trong Phật giáo, không mang ý nghĩa
bình thường mà chúng ta thường sử dụng.
Có hai loại xả: Một là xả về mặt vật thể và hai
là xả về mặt tri kiến. Xả về mặt vật thể là xả bỏ hay chấp
nhận sự biến hoại tự nhiên của các vật thể, như sự đau bịnh
và tử vong của con người, hay sự hoại diệt của cái mà chúng
ta thường gọi là vật sở hữu. Xả chỉ xuất hiện khi nào chúng
ta thấy rõ bản thân của mọi vật là vô thường vì sự hiện hữu
của chúng do duyên khởi. Khi nào chúng ta như thật tuệ tri
như vậy, chúng ta mới chấp nhận sự biến đổi của chúng. Sự
chấp nhận biến đổi là ý nghĩa của chữ xả trong đạo Phật.
Kế đến, xả về mặt tri kiến là sự chấp nhận sửa
đổi quan niệm sai lầm của mình. Quan điểm sai lầm được xuất
hiện từ sự tư duy không chính xác, trong kinh điển thường
dùng là ‘không như lý tác ý’, do đó hình thành quan điểm
không đúng, nó là nguyên nhân của mọi khổ đau. Trong cuộc
sống sinh hoạt hằng ngày của chúng ta thường vấp phải lỗi
lầm này, từ việc làm ăn cho đến tôn giáo tín ngưỡng, chúng
ta cố chấp không chịu sửa sai cho nên chúng ta khổ. Muốn
chấm dứt sự khổ đau này, chúng ta cần phải có trí tuệ, tư
duy chín chắn và khách quan, từ đó chúng ta mới sửa đổi
những sai lầm của mình. Thái độ chấp nhận sửa đổi quan điểm
sai lầm là tinh thần xả trong đạo Phật.
Taipei, ngày 06/09/2005
SÁCH THAM KHẢO
1- HT Thiện Siêu và Thanh Từ dịch, "Kinh Tạp A
hàm" tập 2, Viện NCPHVN Ấn hành 1994.
2- HT. Thiện Siêu và Thanh Từ dịch, “Kinh Tạp
A hàm” tập 1, Viện NCPHVN ấn hành 1993.
3- HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập 1,
Viện NCPHVN ấn hành 1992.
4- HT Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập 2,
Viện NCPHVN ấn hành 2000.
[1] HT Thiện Siêu và Thanh Từ dịch, "Kinh Tạp A
hàm" tập 2, Viện NCPHVN Ấn hành 1994, trang 598.
[2] HT Minh Châu dịch, "Kinh Trung Bộ" tập 2,
Viện NCPHVN ấn hành 2000, trang 29~37.
[3] HT Minh Châu dịch, "Kinh Trung Bộ" tập 1,
Viện NCPHVN ấn hành 1992, trang 19~20.
[4] HT. Thiện Siêu và ThanhTừ dịch, “Kinh Tạp
A hàm” tập 1, Viện NCPHVN ấn hành 1993, trang 68~69.
[5] HT. Thiện Siêu và Thanh Từ dịch, “Kinh Tạp A
hàm” tập 1, Viện NCPHVN ấn hành 1993, trang 511~512.
[6] HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập 1,
Viện NCPHVN ấn hành 1992, trạng~307,
09-29-2008 10:23:45