TẤT CẢ ĐỀU LÀ LẼ ĐƯƠNG NHIÊN
LỜI GIẢI ĐÁP CHO CON NGƯỜI
Quản Lí Học Tối Cao
Hạnh Huệ soạn dịch từ Tinh Vân Bách Ngữ
---o0o---
Bí quyết của quản lí – Ở chỗ nên đem trái tim
của chính mình quản lí trước đã.
Điều rất trọng yếu là để trong tâm của mình có
sự tồn tại của kẻ khác, có lợi ích của đại chúng, có một
trái tim từ bi nhu hoà.
Diệu Mục sau khi tốt nghiệp Phật Học Viện ra, bị
thường trụ phái tới chùa Tây Lai ở Lạc-sam-cơ (Mĩ) làm tri
khách. Một hôm, tôi khoản đãi khách ở Tây Lai Tự, có một
chút ý kiến đối với quá trình…, tôi hỏi cô:
- Cô được giáo dục ở đâu?
Cô nói:
- Trước khi con học ở Tùng Lâm Học Viện Phật
Quang Sơn, con học ngành Quản lí ở Hương Cảng.
Tôi nghe xong, bảo cô ta:
- Quản lí học mà con đã học ở quá khứ đều là học
để quản việc, quản người. Điều đó không đủ, nay con cuối
cùng nên cần học tập đem mình ra quản lí, mới là quản lí học
tối cao.
Hôm nay chính là lúc mà môn Quản lí học phổ cập khắp nơi,
luận về chủng loại thật không kể xiết. Có Xí nghiệp quản lí,
Nhân tánh quản lí, Dân chủ quản lí, Phân tầng quản lí cho
đến Quản lí tiệm ăn, Quản lí bệnh viện, Quản lí hành chánh,
Quản lí thương khố… Nhưng đối với việc quản lí chính mình
thế nào, quản lí nội tâm ra sao, thì rất ít khoá trình thiết
lập như thế!
Năm 1996, tôi lập ra Học Viện Quản Lí Nam Hoa,
cùng các Đại học ở Đài Loan cùng lúc tham gia chiêu sinh
liên hợp. Sau khi nghiên cứu, tôi thầm thầm cảm nhận Phật
giáo kì thực là một môn Quản lí học rộng lớn tinh thâm.
Như một cuốn kinh A-Di-Đà, chính là "Quản lí
học" của Phật A-di-đà, ở trong thế giới Tây phương Cực lạc
của Ngài, không những hưởng hoàn cảnh tự nhiên ưu mĩ, đền
đài lầu các tráng lệ, vui chơi nhàn nhã thanh tịnh, sinh
hoạt quần sanh dung hoà, mà chẳng có bị chính trị bức hại,
chẳng có sự quấy nhiễu của người ác, không có cảnh kinh tế
khốn cùng, không có sự chiếm hữu nam nữ, không có sự cố giao
thông, không có ô nhiễm sinh thái, không có chuyện cơm áo
phiền người, không có già bệnh làm chướng ngại, không có
giới hạn chủng tộc, không có đối địch oan gia. Phật A-di-đà
đem cư dân của thế giới Cực lạc quản lí thành "Chư thượng
thiện nhân câu hội nhất xứ". Có thể nói Phật A-di-đà là một
chuyên gia Quản lí tối cao, vì Ngài có thể cung cấp an toàn
cho người, an tâm cho người và an thích cho người.
Một cuốn Phổ Môn Phẩm là Quản lí học rất hay của
Bồ Tát Quán Thế Âm. Bồ Tát Quán Thế Âm vì muốn đem chúng
sanh trong thế giới của Ngài quản lí cho tốt, do đó trước
hết cứu khổ cứu nạn, để chúng sanh được không lo không sợ.
Ví dụ như anh có cái ham muốn, Ngài bố thí hỉ xả giúp đỡ
anh. Anh có sân giận, Ngài đem từ bi đến giáo hoá anh. Anh
ngu si, Ngài dùng trí huệ đến dẫn dắt anh. Anh nghi ngờ tật
đố, Ngài ban lòng tin đến nhiếp thọ anh. Người cầu sanh con
trai, Ngài giúp cho sanh con trai phước đức trí huệ. Người
cầu sanh con gái, Ngài có thể giúp được con gái đoan chánh
đẹp đẽ. Nếu như anh là quân nhân, Ngài nói về pháp quân nhân
cho anh. Nếu anh là nhân sĩ công thương, Ngài giảng quản lí
công thương với anh. Ngay dù anh là đồng nam hay đồng nữ,
Ngài cũng biết đem giáo dục đồng nam đồng nữ bố thí cho anh…
Vì Bồ Tát Quán Thế Âm khéo tùy loài ứng hoá, xem căn cơ mà
thuyết pháp, do đó Ngài đi thẳng vào trong tâm từng người,
mà người tin Ngài cũng đem chỗ đẹp nhất trong gia đình mình
để dâng lên Ngài, với lòng vui vẻ chân thành kính phục mà
tiếp nhận tín ngưỡng và lãnh đạo của Ngài.
Do đây mà xét, chúng ta có thể biết được, các
loại Quản lí học của Phật A-di-đà và Bồ Tát Quán Thế Âm,
đúng là hợp với Quản lí chính mình, Quản lí tự tánh, Quản lí
tự giác, Quản lí tự tri.
Do Phật A-di-đà và Bồ Tát Quán Thế Âm cấp cho
chúng ta cách thức quản lí cho nên Phật giáo được phát triển
cách quản lí của các loại tông phái, cách quản lí của tòng
lâm tự viện, cách quản lí của giới luật Tăng đoàn, cách quản
lí của Tổ sư đại đức… có thể nói là nội dung rất nhiều, thật
là tốt đẹp, thậm chí việc "quản lí chính mình"… Vì thế, Phật
giáo đối với xã hội ngày nay đều có cống hiến rất lớn.
Ba mươi năm trước, lúc tôi thăm viếng Nhật Bản
thấy đoàn thể xí nghiệp công thương của Nhật Bản, từng đội
từng đội, từng đoàn từng đoàn, đều đến các đại Tự viện tập
họp thụ huấn, nghe gọi là »huấn luyện trước khi nhận chức«,
là vì công ty hàng hiệu muốn giáo dục công nhân có tư tưởng
và tập quán sinh hoạt tốt đẹp. Do đó trước khi chính thức
công tác, họ được đưa đến tự viện để tiếp nhận huấn luyện
"Quản lí của Phật giáo". Đương thời trong tự viện của Nhật
Bản, Pháp sư xuất gia phụ trách hành chánh đều dùng phương
thức "Quản lí làm người", "Quản lí công tác" dốc túi truyền
trao. Lúc ấy tôi nhận ra phương diện quản lí tại xã hội,
Phật giáo nên đưa ra một ít cống hiến.
Trên thế gian, quản lí vật phẩm tương đối dễ
dàng, vì vật phẩm chẳng biết nêu ý kiến, cũng không biết
chống đối kháng cự anh. Anh xếp đặt thế nào, nó phát huy
công dụng thế ấy. Nói đến quản lí sự tình, sự tình lại cũng
quản lí được rất tốt, vì sự tình có nguyên tắc nhất định.
Nếu như có thể đem sự nặng nhẹ, hoãn gấp của sự tình nắm bắt
thoả đáng, sự tốt xấu, được mất của sự tình cân nhắc rõ ràng
thì quản lí cũng chẳng khó.
Quản lí khó nhất là người, vì tính người là cái
riêng tư. Người có rất nhiều phiền não, rất nhiều ý kiến,
điều trọng yếu nhất là đối diện với tư tưởng bất đồng, thói
quen bất đồng, cách nhìn bất đồng, học lực bất đồng, tư cách
bất đồng, nơi chốn bất đồng, tuổi tác bất đồng… Làm sao ở
trong sai biệt nhiều như thế mà thống nhiếp họ lại được,
trên sự thực rất khó khăn.
Người, rất khó quản lí; kì thật, cái khó quản lí
hơn chính là cặp mắt của chính mình. Anh muốn quản lí nó
không phải lễ thì chớ nhìn, có lúc nó vẫn chẳng nghe lời.
Hai lỗ tai, anh muốn quản lí nó phi lễ thì chớ nghe, nó vẫn
ưa nghe trộm điều riêng tư của người khác. Một cái miệng,
anh muốn quản lí nó không được nói bậy, nó khăng khăng hoạ
tùng khẩu xuất, gây bao phiền phức. Một cái tay, anh muốn
quản lí nó, chẳng phải vật của mình thì không được lấy,
nhưng người ham thích một ít tiện nghi đều chẳng kể đến hậu
quả… Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân đều chẳng thể nghe theo mệnh
lệnh của chính mình, lại làm sao quản lí người khác, quản lí
sự tình nào khác ư?
Kì thực, quản lí mắt, tai, mũi, lưỡi, thân là
cái có hình có tướng, tính ra lại quản lí tốt, nếu như quản
lí nội tâm của chính mình, đây là khó lại càng khó hơn.
Trong tâm có vô minh riêng của mình, phiền não tà kiến, như
kiêu mạn, tật đố, phẫn hận, chấp trước… như sóng mòi đánh vỗ
không dừng. Nếu như chính mình thiếu sót đại nguyện, đại
lực, đại trí, đại bi thì làm sao có thể quản lí được nội tâm
của chính mình?
Phiền não chiếm ngự trong tâm tuy khó quản lí,
ngay một niệm tình chấp trong tâm cũng chẳng dễ quản lí, có
người bỏ thân để thành tựu nhân, liều chết để thủ nghĩa. Có
thể nói là đem tâm ý tình chấp của chính mình phát huy đến
cực điểm. Có người yêu nước yêu dân, yêu nhà, yêu người, dù
cho thế nào cũng chấp chặt chẳng bỏ, cũng lại có thể được xã
hội tiếp nhận. Nhưng, lại có một số người, tâm họ giống như
khỉ cứng đầu, ngựa trở chứng xâm phạm lúa mạ của người. Rốt
cuộc, chính mình bị hại rất sâu.
Một cá nhân định đem chính mình quản lí cho tốt,
thì phải quản lí sự tình hiện tại thật nhiều. Ví dụ như tư
tưởng của mình muốn quản lí tốt, tâm niệm của mình muốn quản
lí tốt, oai nghi của mình muốn quản lí tốt, lời nói của mình
muốn quản lí tốt; bất cứ chỗ nào quản lí chẳng tốt, đều đem
đến cho chúng ta ít nhiều tai ương, vô nghĩa.
Bình thường có người khen ngợi tôi, bảo tôi đồ
chúng môn hạ đông, tự viện nhiều chẳng biết làm sao quản lí?
Kì thực tôi biết chính mình chẳng có phép tắc »quản lí«ù gì.
Giống như tôi quản lí tự viện, cửa nẻo chẳng đóng, như Đại
Hùng Bảo Điện, Đại Bi Điện, Hội Nghị Thất, Khách Đường, Giáo
Thất… đều mở toang cả ngày để đại chúng tùy lúc đều có thể
đến chiêm ngưỡng, sử dụng. Tôi quản lí vật chất, chẳng thích
xây nhà kho, tôi biết vật phẩm là làm ra để cấp cho mọi
người dùng, tốt nhất có thể dùng cho hết, đồ vật một khi
chất vào kho, không có người xem đến, thường thường bỏ quên
nhiều năm, đợi đến lúc muốn dùng đã lên meo lên mốc, không
đáng tiếc sao!
Tôi quản lí tiền, cũng chẳng thích cất chỗ bí
mật. Ba mươi năm trước khi ở chùa Thọ Sơn, tôi đem tiền để
nơi cố định, để học sinh đồ chúng ai cần bao nhiêu thì lấy,
tôi nhận ra đây mới là đạo công bình. Tôi quản lí "người" đề
xướng pháp trị, nhân trị cho đến lấy vô vi mà trị. Tôi biết
được quản lí tốt nhất, kì thực là quản lí nội tâm của chính
mình. Tâm trị thì thân trị, thân trị thì tất cả đều trị.
Có một đoạn nói líu lưỡi của dân gian: "Có một
miếu Thành Hoàng, bên Đông có một Quản phán quan ngồi, bên
Tây có Phan phán quan ngồi. Phan phán quan bên Tây muốn quản
Quản phán quan bên Đông, Quản phán quan bên Đông muốn quản
Phan phán quan bên Tây, rốt cuộc là cần Quản phán quan bên
Đông đến quản Phan phán quan bên Tây, lại là Phan phán quan
bên Tây đến quản Quản phán quan bên Đông". Đó là phán quan
mà kia đây cũng chẳng phục nhau, anh muốn quản tôi, tôi muốn
quản anh, hỗ tương chẳng trọng nể nhau, khăng khăng chẳng
bỏ, bèn rất khó làm cụ Thành Hoàng.
Có thể thấy, hễ có cách định quản lí đối phương,
bèn có sự phân biệt đối lập, ngược lại càng khó quản lí.
Trong thiền môn có một chuyện rất thú vị, có thể
cùng câu chuyện líu lo trên kia đối nhau. Có một tín đồ đến
tự viện tìm Trụ trì giảng pháp. Trụ trì gọi một vị sư già
bên cạnh nói:
- Ông mau pha trà!
Không bao lâu, Trụ trì lại gọi ông ta:
- Ông mau đi dọn một mâm trái cây!
Cùng tín đồ giảng xong, Trụ trì lại kêu vị sư
già, nói:
- Ông tiếp khách chơi nhen! Tôi có việc phải đi
trước!
Trụ trì đi rồi, tín đồ rất lạ lùng hỏi thiền sư
già:
- Vị trụ trì này là gì của Thầy?
Thiền sư già đáp:
- Là đồ đệ của tôi!
Tín đồ rất bất mãn, nói:
- Đã là đồ đệ của Thầy, tại sao có thể sai Thầy
rót nước?
Lão thiền sư đáp:
- Ông ta chỉ kêu tôi rót nước, đâu có kêu tôi
đun trà, đun trà mới khó chứ.
- Ông ta lại kêu Thầy dọn trái cây!
- Ông ta rất từ bi đó! Chỉ có kêu tôi dọn trái
cây, chẳng có kêu tôi trồng trái cây, trồng trái cây khó
hơn.
- Ông ta tự mình đi trước, lại gọi Thầy đến tiếp
tôi!
- Ông ta tuổi trẻ, hữu dụng hơn. Tôi già rồi do
đó làm một chút việc lặt vặt.
Kì thực, trong tự viện này Lão thiền sư mới đúng
là người hiểu được "Quản lí tam-muội". Do Sư có thể nhìn
toàn đại cuộc, buông bỏ thân mình, thấu suốt nhân duyên quan
hệ giữa con người, nhân đây để toàn thể tự viện được hoà hợp
không tranh giành.
Có xét "Nhân hoà vi quý" nên tôi một mực chủ
trương "Tập thể sáng tác", tôi biết được phương thức quản lí
tối thượng thừa, phải là nhường cho mọi người tự động tự
phát, khẳng định vai trò diễn xuất của đây kia, hỗ tương hợp
tác, cùng chung phấn phát đột phá. Tôi cũng ra sức đề xướng
tinh thần "Đồng thể cộng sinh", tôi biết được nguyên lí quản
lí cao minh nhất là phải nên để cả đoàn thể có thể sản sinh
ý thức chung đầy đủ, trên dưới một lòng. Tuy nhiên, một tay
tôi sáng lập Phật Quang Sơn, nhưng tôi đều triệu tập hội
nghị để thay thế mình đưa ra mệnh lệnh. Dù tôi là Sư ông, Sư
phụ của bao nhiêu người, nhưng tôi thà nguyện để mọi người
bàn bạc nghiên cứu, cũng chẳng chịu phủ quyết cắt đứt ý kiến
của người khác. Đương nhiên, trong đó cũng từng gặp rất
nhiều quấy nhiễu không cần thiết. Ví dụ như một số thì muốn
mau chóng thực hành nghị án, nhưng vì sự bảo thủ của người
chủ sự mà trễ mất thời cơ, đến nỗi về sau phải nỗ lực và
tiền bạc gấp bội. Nhưng vì tôn trọng cách nhìn của người
khác cũng có sự tất yếu của nó. Cho nên tôi bằng lòng gánh
mọi hậu quả.
Ba mươi năm nay, vì để điều đình ý kiến của các
đơn vị, vì để điều hoà cách nhìn bất đồng của các vị chủ
quản, đều có mở hội nghị bất hoàn (chẳng hoàn hảo). Nhưng
nghĩ đến có thể cấp cho người ít nhiều lợi ích, cho người
bao nhiêu phương tiện, cho người ít nhiều học tập thì tất cả
cay đắng biến thành không có.
Quá khứ từng nghe qua chuyện của một bà nội trợ,
khiến tôi cảm niệm rất nhiều.
Có một bà mẹ đã qua bảy mươi tuổi. Người nhà bí
mật bàn với nhau chúc thọ bà thế nào. Nghĩ cả nửa ngày mà
chẳng biết bà thích cái gì nhất. Cuối cùng một chú bé nói:
- Tôi biết, mẹ thích nhất là ăn cơm thừa mỗi bữa
của chúng ta.
Mọi người ngẫm nghĩ thì thật đúng như thế. Rồi
đến một ngày, con cái đem thức ăn thừa trong tủ lạnh thanh
lọc lại rồi nấu một nồi, nói:
- Mẹ ơi! Hôm nay là ngày sinh nhật của mẹ, chúng
con nấu thức ăn thừa mà mẹ thích nhất để dâng mẹ.
Người mẹ này nghe xong, vừa khóc vừa nói:
- Đúng rồi, ta rất thích thức ăn thừa, mấy mươi
năm nay món mà các con không thích, ta đều thầm thầm vui vẻ
chịu đựng.
Từ xưa đến nay, đàn ông phần nhiều gọi vợ mình
là nội nhân, chuyết hình, thậm chí là tiện nội…, kì thực vợ
hiền mẹ tốt mới là người chủ đạo mặt trong của gia đình, là
nhân vật hạch tâm cả trong lẫn ngoài. Tôi đem cách quản lí
là nhận hi sinh, chịu cống hiến, không so đo, không sợ khổ
này gọi là "Triết học thức ăn thừa" để dạy dỗ đồ chúng. Nếu
xem cổ kim trong ngoài, các bậc danh tướng lương thần khéo
việc quản lí không phải là đều nhân vì có loại mĩ đức quan
tâm, gánh vác, do đó có thể đủ sức thắng địch đó sao? Như
Ngô Khởi lãnh quân, chẳng những cùng binh sĩ ngủ chung
giường, ăn chung bàn mà lại hỏi han ấm lạnh, hút máu mủ, do
đó quan binh đều chịu ông, vì ông ta nhảy vào dầu sôi lửa
bỏng không hề từ nan. Lí Quảng dẫn binh, lúc đói khát phát
hiện suối nước, không đợi sĩ tốt uống hết, ắt không đến gần
nước, không đợi sĩ tốt ăn hết, ắt chẳng nuốt cơm. Do đó, mọi
người đều yêu thích ông ta, góp sức liều mình, vào sanh ra
tử.
Nhân đây, chỗ nói quản lí không nhất định là
ngồi tuốt trên cao, ra lệnh phát hiệu mà nên thâm nhập quần
chúng, đem tinh thần đoàn đội ra dẫn dắt.
Hơn ba mươi năm trước, tôi mới xây Học Viện Phật
Giáo, ngay việc ban đất, tôi cũng đích thân thuyết minh ý
nghĩa, và dẫn đầu trước tiên, khuân ngói gánh nước. Hôm nay
sau ba mươi năm, định số đồ chúng giúp tôi làm việc cả muôn
ngàn, nhưng tôi chẳng những chưa hề dùng miệng ra lệnh cho
người làm, mà thường chủ động vì đồ chúng giải quyết vấn đề.
Thường nghe nói đồ chúng nọ ở phía Bắc bận rộn, tôi bèn vì
họ chủ trì hội nghị ở phía Nam. Thường thường biết đồ chúng
kia ngay tại chủ trì hội báo, nhất thời không cách kết thúc,
tôi bèn vì họ dạy thế giáo thư. Tôi biết được: Quản lí tốt
nhất, là chính mình trước hết cùng đối phương thiết lập quan
niệm "sống chết có nhau", mới có thể phát huy lực lượng toàn
thể lớn nhất.
Có một số người quản lí, khéo dùng mưu lược tạo
mâu thuẫn giữa mình người. Nhưng một khi bị người lột trần,
không dễ được thuộc hạ tôn trọng. Có một số người làm quản
lí, thích dùng kế sách để thăm dò sự trung thành của người
khác. Nhưng một khi bị người biết rõ, thì không thể được đối
phương tin phục. Chỗ nói "Nghi người thì đừng dùng, dùng
người thì đừng nghi". Phương thức quản lí tốt nhất là đem
lòng mình để đo lường tình người, dùng trao quyền thay thế
can thiệp. Như tiên sinh Cung Bằng Trình với tôi chẳng hề
quen biết, chỉ nhân nghe nói về tài hoa của ông, lập tức
đang ở trong toa xe chạy vùn vụt trên đường cao tốc, trước
hết dùng điện thoại mời ông giữ chức Hiệu trưởng. Ông ta
ngạc nhiên một trận, nghe nói tôi muốn xây dựng một Đại học
Tinh Trí thuộc toàn dân, liền bằng lòng. Từ đây nhiều năm
sau, công việc nhà trường tôi chưa hề nhúng tay can thiệp.
Nam Hoa, từ khi ông lãnh đạo, ngày càng tiếng tăm. Trước
mắt, tiên sinh Trần Thần làm Hiệu trưởng Đại Học Tây Lai,
quá khứ là Hiệu trưởng trường Sư phạm Hoa Liên, sau khi giao
phó việc trường cho ông rồi, cũng rất ít hỏi qua, việc
trường Đại Học Tây Lai dưới sự phát triển của ông, cũng càng
ngày càng vươn lên vùn vụt.
Trên thế gian, có một số cha mẹ bảo con cái:
- Con xem! Con nhà họ Trương sát vách hay quá,
thành tích tốt như thế, đâu giống như con!
Kết quả, đứa con bị nói không chỗ nào được, chỉ
có tự sa ngã. Trên xã hội, một số vị chủ quản cứ trách móc
thuộc hạ không bằng người khác. Người nói cố nhiên là "Tiếc
rằng chưa thành tài", nhưng không nghĩ đến lối suy nghĩ của
người nghe thế nào, căn khí thế nào thì cũng uổng phí tâm
cơ. Mỗi cá nhân tư cách bất nhất, mỗi người có diệu dụng,
chỉ cần ông khéo lãnh đạo, thì quân lính bại trận cũng có
thể thành kiện tướng dũng sĩ. Điều trọng yếu nhất chính là
ông có thể nhìn ra chỗ sở trường, ưu điểm của họ hay không,
để ban lời khích lệ thích đáng? Ông có khả năng nhìn ra mấu
chốt sai lầm của họ để hướng dẫn cho đích xác. Nhất là ông
có khả năng không làm tổn hoại sự tôn nghiêm của họ hay
không, để cho cuộc đời họ được đến chỗ trưởng thành? Như
thiền sư Bàn Khuê dùng tâm yêu thương từ bi làm cảm động kẻ
quen thói ăn cắp không đổi tánh xấu. Thiền sư Tiên Nhai dùng
cách chẳng nói rõ để dạy Sa-di ngang ngược quấy rối. Có thể
xem Cao tăng Đại đức nhiều đời quản lí tòng lâm mười phương
có trí huệ khéo léo tiếp dẫn các loại Tăng chúng.
Quá khứ từng có cậu bé chẳng biết viết một chữ
được đưa đến Phật Quang Sơn, mọi người đều bực mình sự ngu
độn của chú, tôi dùng phương thức chơi đùa để dạy chú, từ từ
cuối cùng chú khai mở trí huệ. Lúc Đại Hùng Bảo Điện mới lạc
thành, mặt trong đường dây điện của 14800 cái đèn nhỏ đều do
một mình chú ta bao biện. Lại, có một cô gái đương xuân
Ma-đăng-già, mỗi lần đến núi đều đánh phấn trang điểm lộng
lẫy. Lúc ấy, không biết bao nhiêu người phản đối tôi nhận cô
ta làm đệ tử xuất gia. Nhưng sau cô ta ở cửa Phật hun đúc,
chẳng những siêng năng gắng sức mà lại làm hết bổn phận,
được mọi người khen ngợi. Do đó, nói đến quản lí, kì thật là
ở chỗ khảo nghiệm tâm mình có bao nhiêu từ bi, trí huệ.
Lúc tín đồ cùng tôi nói chuyện, thường lạ lùng
nói:
- Thầy nói trúng tâm sự con rồi!
Đây là vì từ hơn bốn mươi năm qua tôi hoằng pháp
cho đến giờ thường ở trước thính chúng tín đồ tìm hiểu xem
họ làm nghề gì, ôm tâm trạng gì, ta cần giảng gì cho họ, để
họ hoan hỉ, để họ cảm động, do ta có thể dụng tâm vì người
mà nghĩ đến. Do đó về sau lúc quản lí người đông, tôi mới có
thể ứng phó ung dung.
Lúc tôi tiếp tục mở Học Viện Quản Lí Nam Hoa,
từng sửa đổi thiết kế nơi chốn của một toà lầu. Việc xong,
có nhiều người nói sửa thật là hay. Họ hỏi tôi có biết xem
phong thuỷ địa lí hay không? Kì thật tâm thì có tâm lí,
người thì có lí của người, tình thì có lí của tình, vật thì
có vật lí, địa thì đương nhiên cũng có địa lí. Quá khứ lúc
tôi học ở Phật Học Viện, mỗi lần lên Phật điện, tôi biết cần
mau mau đến vị trí nào, vì tôi thích đánh pháp khí, dù cho
không có khai bảng của tôi, tôi vẫn nghĩ có cơ hội bổ sung.
Mỗi lần đến trai đường, tôi cũng biết nên ngồi chỗ nào, vì
tôi ăn nhiều, muốn tìm một nơi mà hành đường dễ thấy, sẽ
châm thêm thức ăn cho tôi. Mỗi lần đến giáo thất, tôi cũng
biết nên đến vị trí nào, vì quá khứ tự viện không có tiền
đốt đèn dầu, chỉ có chính mình mau mắn chọn chỗ ánh sáng tốt
nhất. Mỗi lần cùng Sư trưởng nói chuyện, tôi cũng biết nên
đến đứng ở đâu, vì tôi muốn khiến họ để ý, có thể cho tôi cơ
hội học tập được nhiều. Về sau, hễ sắp đặt hình thức đội
ngũ, kiến trúc xa gần, cao thấp, sự tình trình tự mau chậm…
Tôi đều có thể nắm bắt chuẩn xác. Đây là vì tôi có thể dụng
tâm đem "không gian" của mình quản lí được đích đáng.
Tôi thường đến trước một khắc để đón tiếp khách
muốn đến tại cổng, để đối phương kinh ngạc vui mừng không
thôi. Có người hỏi tôi có thần thông không? Kì thực, là vì
từ nhỏ tôi đã huấn luyện chính mình cần có quan niệm thời
gian. Như thế nào là năm phút, thế nào là mười phút, từ chỗ
này đến chỗ nọ cần bao nhiêu thời khắc, làm một việc gì tốn
bao nhiêu thời gian, trong tâm tôi đều rõ ràng phân minh, do
đó tất cả sự vật đương nhiên cũng đủ có thể quản lí đúng
mức.
Mồng một Tết mỗi năm, tôi có thể ước lượng được
năm nay mùa Xuân đại khái có bao nhiêu người lên núi. Tại
chỗ kia, đợi trên một, hai ngày, tôi cũng có thể biết ở đó
hương đèn nhiều ít. Đồ chúng lấy làm kinh lạ, kì thật tôi
không có mảy may công năng đặc dị, chỉ là vì tôi có tâm lưu
ý lưu lượng xe lớn nhỏ, tôi chịu chủ động hiểu rõ nhân văn
kinh tế mỗi địa phương. Do tâm tôi có khái niệm số chữ, do
đó lúc quản lí tự viện, bất kể hành chánh, tài vụ, công
trình, tổng vụ… đương nhiên đủ có thể dự tính việc mà lập,
mọi mặt đều đến nơi đến chốn.
Do đó, diệu quyết quản lí, ở chỗ đem một trái
tim của mình trước tiên quản lí tốt, để trong tâm mình có
quan niệm thời gian, có tầng lớp không gian, có thống kê chữ
số, có nguyên tắc làm việc. Điều trọng yếu nhất là để cho
trong tâm có sự tồn tại của người khác, có lợi ích của đại
chúng, đủ có thể đem tâm chính mình quản lí được từ bi nhu
hoà, đem tâm của chính mình quản lí được ta người nhất như,
mới tính tu học phần Quản lí học tối cao được hoàn mãn.
Bị Lãnh Đạo Học
Hoa hồng phải có lá xanh kề cận, trăng sáng phải
có các ngôi sao tô điểm thêm, đem chính mình dung nhập người
khác, nhập khắp trong đại ngã, cũng là thành tựu chính mình
trong tự kỉ rộng lớn.
Rất gần đây, những sách vở về lãnh đạo học,
thống ngự học, thống soái học, chủ quản học đầy dẫy ở các
tiệm sách, rất phù hợp với quan niệm của người Trung Quốc
"Thà làm đầu gà hơn làm đuôi trâu". Kì thực theo sự lịch
duyệt một đời của tôi mà nói thì bị người lãnh đạo mới là
một môn học trọng yếu, hơn nữa người có thể bị người lãnh
đạo, tương lai mới có thể làm tốt vai trò lãnh đạo. Tôi cảm
nhận sâu xa rằng lãnh đạo người khác cố nhiên rất khó làm
cho tốt, nhưng có thể khéo bị người lãnh đạo cũng chẳng phải
là việc dễ. Do đó, ngay lúc mắt thấy mọi người khao khát làm
người lãnh đạo, tôi chẳng đừng được mà phải vội kêu to lên:
Làm một người bị lãnh đạo thành công mới là một môn học
trọng yếu nhất.
Tôi từ nhỏ xuất gia, cứ mong có thể có một vị
lãnh đạo để cho tôi theo học hỏi bắt chước, lúc đó đại sư
Thái Hư nhận thấy Phật giáo Trung Quốc chứa chất những tệ
hại rất sâu, do đó cực lực đẩy mạnh sự cải cách giáo chế,
giáo lí, giáo sản. Lòng từ bi và nguyện lực của Ngài, học
vấn và sự hàm dưỡng của Ngài, nhiệt tình đam mê vì đạo của
Ngài, sự dũng mãnh gánh vác của Ngài… đâu đâu cũng đều trở
thành đối tượng rất đáng ngưỡng mộ trong tâm mắt của bao
nhiêu Tăng-già thanh niên. Tuy tôi chỉ đích thân nhận lời
dạy dỗ một hai lần, nhưng tâm thường hướng về Ngài, thậm chí
thường nghĩ, nếu như ngày nào đó được hết lòng phục vụ cho
Ngài, dù cho vào dầu sôi lửa bỏng cũng chẳng từ nan.
Năm 1964, tôi thật chẳng dễ dàng gì khi được Sư
phụ là Thượng nhân Chí Khai cho phép chuẩn bị trở về nhà.
Đây là lần đầu tiên kể từ khi xuất gia, tôi được về thăm
thân thuộc. Đúng lúc mừng chưa kịp dứt thì tin tức truyền
đến đại sư Thái Hư đề xướng tổ chức "Ban Huấn Luyện Nhân
Viên Hội Vụ lần thứ I của Hội Phật Giáo Trung Quốc", tôi lập
tức bỏ ngay kế hoạch về quê, tranh thủ tham gia, trở thành
một trong những hồi ức khó quên suốt đời tôi.
Trung Quốc Phật Giáo Hội chính ngay lúc dự trù
tổ chức Đại hội lần thứ I, thì đại sư Thái Hư viên tịch tại
Thượng Hải, tin buồn làm kinh động toàn thể giới Phật giáo,
hai chúng Tăng tục đều đau xót khôn tả, tôi cũng như sét
đánh giữa trời quang, suốt ngày mất hồn lạc vía, cảm thấy
tiền đồ một trời mù mịt, giống như mặt trời mặt trăng không
ánh sáng, mặt đất một màu đen tối, chẳng biết đi đâu, đến
đâu? Vì đây không phải là một tổn thất riêng cá nhân tôi, mà
cũng vì tương lai của Phật giáo Trung Quốc mà lo lắng. Về
sau tôi nghĩ đến bạn đồng học là pháp sư Trí Dũng là người
viết hay nói giỏi, văn võ song toàn, bèn một lòng tìm theo,
và nhiều lần gởi thơ muốn đem chức Hiệu trưởng trường Quốc
Tiểu ở Nghi Hưng giao cho Sư, mời mau đến lãnh đạo. Sau này
vì một cơ duyên nọ, chúng tôi chia tay rời khỏi Nghi Hưng.
Lúc vừa đến chùa Hoa Tạng ở Nam Kinh, tôi cũng ủng hộ Sư làm
trụ trì và tự nguyện làm phó, tiếp nhận lãnh đạo, hết lòng
hết dạ tận trung, cùng vì phục hưng Phật giáo mà gắng sức.
Năm 1949, chúng tôi giao ước với nhau chia ra để
gắng sức, hi vọng nhân ở chân trời góc biển này, chia đèn vì
đạo. Về sau Sư từ Nam Kinh lại trở về Nghi Hưng, tôi từ Đại
Lục đến Đài Loan, từ đây quan san cách trở, chẳng có một
chút âm hơi. Trong lòng tôi vẫn mong có một vị đại đức để
tôi theo bên cạnh, vâng theo sự lãnh đạo, do đó tôi quan sát
rất lâu, chuẩn bị chọn Chúa để thường theo. Trong lúc tìm
tìm kiếm kiếm, tôi phát hiện chỉ toàn có đại đức giỏi về
nghiên cứu giáo lí, có đại đức rành về phân tích thời thế,
có đại đức khéo về phê bình chính luận, có người ngồi yên ở
địa vị vinh hiển trên cao, nhưng đều chưa thể hoài bão lí
niệm chấn hưng Phật giáo. Ngoài lúc mịt mù vô chủ ra, tôi
càng thêm khát vọng có thể xuất hiện một vị không có lập
trường chủ quan tự lợi, mà là bậc Cao tăng đại đức chân
chính quan tâm đến toàn bộ Phật giáo để làm đối tượng cho
mình y chỉ.
Năm 1955, đoàn tuyên truyền Đại Tạng Kinh Hoàn
Đảo Hoằng Pháp thành lập, tôi đảm nhiệm lãnh đội đi theo
Pháp sư đoàn trưởng là Nam Đình bố giáo khắp nơi. Nắm giữ
phận thuộc hạ gánh vác lo lắng lao nhọc cần phải có thái độ
vâng lời, chỉ là pháp sư Nam Đình có tánh bảo thủ, thường ra
chỉ thị cho tôi kiểu này không làm được, lối kia không thể
làm, do đó tuy thời gian hợp tác chưa hề phát sanh tranh
chấp, nhưng trong lòng tôi thầm lấy làm tiếc. Tôi tự thuỷ
chí chung chưa hề có vẻ mặt không vui, tôi vui mừng vì may
mà chính mình có thể tiếp nhận sự lãnh đạo của người khác.
Năm 1963, tôi và pháp sư Bạch Thánh tổ chức đoàn
phỏng vấn đầu tiên của hội Phật giáo Trung Quốc đến phỏng
vấn các nước trên thế giới, từng nhiều lần suy nghĩ đóng vai
trò trợ lí tốt, đâu dè thân làm Phát ngôn nhân mà tôi lại
không được phát ngôn. Tôi có thứ cảm giác không được người
tôn trọng, tuy người khác không tôn trọng tôi như thế, nhưng
tôi vẫn muốn tôn trọng người khác, cuối cùng mới được kết
cuộc viên mãn.
Bốn mươi năm trước, thấy rằng Thánh giáo không
được sáng sủa, phần lớn Phật tử theo tập quán cũ chỉ nghĩ
hướng bên ngoài cầu phước, chẳng biết chính mình phải thực
tiễn, tôi cũng từng một phen vì người biên tập tạp chí Nhân
Sinh, vì người giúp công tác in ấn phát hành in ảnh Đại Tạng
Kinh, hi vọng nhờ đây thúc đẩy sự nghiệp văn hoá Phật giáo,
nhưng người chủ sự chỉ nghĩ việc giữ sự thành công, cùng với
lí niệm khai mở của tôi không cách gì phù hợp, tuy tôi không
vừa lòng tác phong lãnh đạo ấy trước sau nhiều năm, đến khi
tôi bảo với ông ta xin rút lui, ông ta vẫn khăng khăng không
bỏ, nói rằng tôi rất thích hợp theo ông ta công tác. Đây có
thể chứng minh một điểm là tôi hiểu cách để người lãnh đạo
mình.
Cho dù việc đời không cách gì trọn vẹn như mình
mong ước, tôi lại mười phần tận lực làm tốt công tác trợ tá.
Tôi từng thân cận Lão Hoà thượng Diệu Quả là Lí sự trưởng
Hội Phật giáo ba nơi Tân Trúc, Đào Viên, Miêu Lật, làm trợ
lí cho Ngài. Trong ký ức, các loại kế hoạch tôi đã dự định,
các thứ công văn hồi đáp, chưa từng thấy Ngài động thêm một
chữ, các loại sự hạng kiến nghị, các thứ hoạt động xếp đặt
chỗ tùng sự, cho đến hội khách, phiên dịch cũng chưa từng
thấy Ngài phủ quyết. Chẳng những như thế, vào thời đại giao
thông bất tiện lúc ấy, lại nhờ ơn Ngài đích thân đem tôi
trèo non lội suối, chu du các khu vực của khách mời, như núi
Sư Đầu Trúc Nam, chùa Pháp Vân ở Đại Hồ, Sư Thiện Đường ở
Trúc Đông, chùa Triều Âm ở Quan Tây, cho đến Bình Trấn,
Dương Mai, còn có rất nhiều đạo tràng Tân Trúc, Miêu Lật,
đều cảm tạ lòng từ bi hướng dẫn của Ngài cho tôi kết nhiều
nhân duyên. Nhớ một hôm, trời rất nắng, Ngài đem tặng tôi
một cái mũ kiểu Nã Phá Luân để che nắng. Mãi đến hôm nay,
tôi vẫn xét không thấu huyền cơ trong lòng Lão Hoà thượng.
Tôi cũng từng làm trợ biên Từ Hàng Pháp Sư Toàn
Tập, và nhiều lần đến thăm viếng pháp sư Từ Hàng, được Ngài
từ bi che chở, tiếp đãi thân thiết. Ngài tuy là bậc trưởng
bối của tôi, nhưng mỗi lần viết thơ đều gọi tôi là Vân đệ,
có thể nói vô cùng thương mến. Bất hạnh là lúc sáu mươi
tuổi, đúng như người ta nói: "Thuyền từ dừng lúc hải triều
xuống về đêm". Tôi vì chưa thể được gần gũi lâu dài, được
Ngài lãnh đạo, đến nay nghĩ lại, rất tiếc mình duyên mỏng.
Do mấy lần chưa thể được người lãnh đạo trường
kì như nguyện, chỗ nói "Trong đất Thục không có đại tướng,
Liêu Hoá làm tiên phong", dưới tình huống bất đắc dĩ, tôi bị
thanh niên Phật tử từ từ đẩy lên địa vị người lãnh đạo. Từ
năm 1953 về sau, tôi đều đảm nhiệm những chức vụ trụ trì,
hội trưởng, hiệu trưởng, viện trưởng, sở trưởng… lại càng
thể hội ra "Bị người lãnh đạo là điều may mắn, lãnh đạo
người khác là điều cay đắng".
Một con đường đi này, tôi tuy chưa từng kiếm
được người lãnh đạo vừa tầm mắt mình, nhưng nhân vì tôi cam
chịu tùy duyên, bị người lãnh đạo, chẳng những ngộ ra một
phương pháp lãnh đạo, lại thầm thầm cảm được câu "Chim hay
lựa cây mà đậu, trung thần chọn chúa mà hầu", thật là lời
chí lí vang dội, càng lâu càng mới.
Nói cách khác, một người bị lãnh đạo đúng đắn
nếu như kiếm được danh chúa, ắt có thể vui lòng tùng phục,
buông hết dục vọng "thượng, trung, tiền" (thỉnh khách ngồi
địa vị trên, chụp ảnh ngồi ở giữa, đi đường đi đằng trước),
dẹp hết kiến chấp riêng mình, luôn luôn nhớ đứng vai trò phụ
tá giỏi, không những chẳng nên phê bình người lãnh đạo, lại
không nên bán đứng người lãnh đạo để cầu vinh cho chính
mình. Một người thuộc hàng con cháu bị người lãnh đạo, không
được lợi dụng danh tiếng của người lãnh đạo, mà phải nên
khéo thể hội lí niệm của người lãnh đạo, siêng năng chấp
hành chỉ thị của người lãnh đạo. Lạc Nghị thời đại Xuân Thu
nói: "Quân tử tuyệt giao, không nói ra tiếng ác, trung thần
bỏ nước, chẳng trong sạch thanh danh của mình". Như Lưu
Dung ngay thẳng không dua nịnh, tận trung giữ chức; Hoà Thân
thì khôn ngoan xảo quyệt, chỉ lo tự lợi. Hai loại người bị
lãnh đạo mà hình thái bất đồng, kết quả người trước lưu
tiếng thơm trăm đời, người sau để tiếng thối vạn năm, thật
đủ cho người đời sau suy nghĩ sâu xa mà chọn lựa.
Đối với đồ chúng, tôi chẳng tự cho mình ở chỗ
người lãnh đạo, mà đều nương dùng lời khéo dẫn dụ, quán xét
căn cơ để dạy dỗ. Đại đa số đệ tử đều cam tâm tình nguyện,
hết lòng phục tùng lãnh đạo, trên cương vị công tác siêng
năng tinh tấn, nhưng cũng có một số đệ tử bề ngoài thì thuận
theo, trong lòng lại còn kiến chấp sâu dày. Đối với loại
người này, tôi cũng chỉ đành giả điếc giả câm, nhịn đau mà
nhìn họ chịu vấp váp về sau hối hận biết vậy chẳng làm. Có
lúc, tôi cũng để cho một số đệ tử gặp được cơ hội làm người
quản lí cho tôi, để họ trong lòng cao hứng một chút. Do đó,
có lúc đi đường, nghe thiện ý của họ muốn tôi tiến tới, lui
sau, tôi đều tuân thủ hết, có lúc ăn cơm, nghe họ hảo tâm
muốn tôi ăn món này món nọ, tôi cũng đều nghe lời… cho đến
lúc khai hội, đệ tử đưa ra ý kiến hay, tôi đều "tùng thiện
như lưu". Lúc làm việc, đồ chúng có kế sách tốt, tôi cũng
tùy hỉ tiếp nạp. Cũng cho là vì tôi có sẵn tính cách "bị
người lãnh đạo" này, do đó có thể dung hợp ở chung với đệ
tử, hoà hợp không ngăn cách.
Đến như Phật Quang Hội do tôi thiết lập, hội
trưởng, cán bộ… của các địa phương, các phân hội phần nhiều
là những vị tinh anh trong xã hội, có sự nghiệp thành đạt,
mọi người ở dưới sự tín ngưỡng Phật giáo nhân gian của
Phật-đà mà đoàn kết hợp tác, do đó tôi đối với việc lãnh đạo
họ cũng chỉ giới hạn ở sự chỉ điểm trên tín ngưỡng, ngoài ra
như những vấn đề tình cảm, sự nghiệp, hữu nghị, hôn nhân,
tôi đều né tránh khỏi can dự. Do nhận rõ ranh giới kia đây,
do đó có thể tụ họp cùng hiểu biết, phát huy lực lượng.
Trong tùng lâm, trụ trì tuy quý vì làm chủ một
chùa, nhưng hễ tiến ra đạo tràng đều phải tuân thủ quy củ
khách đường, việc trước tiên phải báo cho tri khách xếp chỗ,
sư huynh xuất gia trước dù cho tuổi tác già cả, cũng phải
tuân theo luân lí công tác, phục tùng sư đệ có cấp bậc cao
hơn lãnh đạo làm việc. Đây chính là Trưởng lão của giới Phật
giáo, người đảm nhiệm và người bị lãnh đạo, lấy pháp chế làm
sự tôn trọng, không kể danh vị, nhìn khắp cổ kim, có thể nói
là rất hợp với luân lí công tác, rất hợp với nghệ thuật làm
người.
Xem kinh điển, Bồ Tát Quán Thế Âm vốn đã chứng
ngộ Phật quả trước vô lượng kiếp, tên Chánh Pháp Minh Như
Lai, lại cam chịu cỡi ngược thuyền từ, tiếp nhận sự lãnh đạo
của Phật A-di-đà, tại thế gian theo tiếng cầu xin mà cứu
khổ, do đó uế độ Ta-bà được có quang minh. Bồ Tát Di-lặc và
Phật Thích-ca vốn là đạo hữu đồng tham học, nhưng do người
trước thích làm Bồ Tát bổ xứ, tiếp nhận sự lãnh đạo của
người sau, khiến cho Phật tử đời sau có may mắn được độ toàn
bộ ở ba hội Long Hoa. Chư Phật Bồ Tát còn như thế, chúng ta
là phàm phu tục tử càng nên buông hết quan niệm tôn ti lớn
nhỏ, lấy hạnh phúc của chúng sanh, an lạc của thế giới làm
trọng.
Xem lại sử sách, Chu Công phò tá Chu Thành
Vương, người sau chẳng những khen ngợi lòng nhân từ yêu dân
của Thành Vương, mà đối với sự liêm chính hiền đạt của Chu
Công càng thêm thán phục. Nguỵ Trưng phụ bật Đường Thái
Tông, người sau chẳng những ca ngợi Thái Tông biết nhận lời
hay, mà còn cảm động không thôi vì lòng tận trung với nước
của Nguỵ Trưng. Như Gia Cát Khổng Minh phò tá A Đẩu ngu
muội, cha của A Đẩu là Lưu Bị tuy chỉ rõ Gia Cát Lượng có
thể thay người khác, nhưng Gia Cát Lượng vẫn một lòng vì
chúa, cúc cung tận tuỵ đến chết mới thôi. Lưu Bá Ôn giúp
Minh Thái Tổ được thiên hạ, lại cam chịu làm một mưu thần
dưới trướng, cống hiến kế sách hay…, những chuyện này đều
thành những giai thoại đẹp đẽ, truyền tụng đến nay. Nhân
đây, người bị lãnh đạo tuy bề mặt địa vị hơi thấp, nhưng chỉ
cần chịu ẩn giấu tài năng, hàm dưỡng nhân cách, giữ vững
cương vị, hết lòng phụ giúp, đến khi thành tựu, cũng đủ được
khen ngợi bằng với người lãnh đạo. Tại Trung Quốc thường gọi
vợ là hiền nội trợ, thời đại nam nữ bình quyền ngày nay,
hiển lộ người nữ bị thấp một bậc, nhưng suy cho kỹ, trên
thực tế trong một gia đình nếu như không có mẹ, vợ thì làm
sao thành nhà? Do đó một người hiền nội trợ chân chánh phải
đủ điều kiện hiền huệ, cần lao, đảm đang, thân thiện. Tại Âu
Mĩ, bên cạnh nhân vật trọng yếu đều có rất nhiều trợ lí giúp
họ thu xếp công việc, xã hội Trung Quốc một bề gọi là bí
thư. Bất kể là trợ lí cũng tốt, bí thư cũng tốt, so với yếu
nhân, dường như đều ở địa vị bị lãnh đạo thấp kém, nhưng tất
cả việc quan trọng nếu không có sự thúc đẩy của trợ lí, bí
thư thì không cách gì xong việc.
Do đó thân làm một thuộc hạ bị người lãnh đạo,
trừ điều kiện phải xem trước ngó sau, kế hoạch công việc đầy
đủ, giao tiếp dung hoà với người, siêng năng chịu khó ra,
lại cần phải có đức tính tốt đẹp như trung thành không đổi
dạ, thông đạt tình lí, biết tiến lùi, không vượt quá phận
mình. Kỵ nhất là chỉ thấy lợi gần, dối trên gạt dưới, tiếp
đón phan duyên, cong queo tà vạy. Chỗ nói "Thế sự thông đạt
đều học hỏi", nhân gian có chỗ nào không phải là tấm gương
cho chúng ta học tập. Anh xem, hoa hồng cần phải có lá xanh
kề cận, mới có thể hiển lộ vẽ mĩ cảm hoàn chỉnh, trăng sáng
cũng cần có những ngôi sao tô điểm, mới có thể biểu hiện sự
mĩ lệ giữa trời đêm. Bị lãnh đạo là một môn học vấn lớn
nhất, người bị lãnh đạo có thể làm được đúng quy củ trong
chức vụ của mình, đem chính mình dung nhập người khác, nhập
vào khắp trong Đại ngã, cũng là thành tựu chính mình trong
tự kỉ rộng lớn.