TÌM CHÂN LÝ
Thích Thông Phương
---o0o---
I- CHÂN LÝ LÀ GÌ ?
Xưa nay chân lý là mục tiêu cho sự tìm kiếm
không dừng của người học đạo, nhưng người cảm nhận chân lý
thực sự thì không nhiều. Trước hết người học cần hiểu rõ
CHÂN LÝ LÀ GÌ? Theo định nghĩa thông thường, chân lý tức lẽ
thật không dời đổi, vượt suốt thờn gian và không gian, nghĩa
là luôn luôn đúng ở mọi lúc, mọi chỗ. Nói lẽ thật mà còn
thay đổi hoặc giới hạn chỗ nơi thì chưa đúng hẳn là chân lý.
Hoặc chân lý mà còn chia ra chân lý của anh, chân lý của tôi,
đó là còn mang những thành kiến, thì cũng chưa phải thật
chân lý trọn vẹn, vì nó không phải chân thật luôn luôn mà nó
chỉ chân thật ở chỗ này nhưng không chân thật ở chỗ kia nếu
chấp vào. Nếu chấp vào đó tức thường tranh cãi mãi. Như câu
chuyện bọn người mù sờ voi:
Có ông vua muốn thử xem chỗ nhận hiểu của những
người mù, bèn cho đem con voi đến trước sân và gọi một số
người mù đến bảo diễn tả con voi cho ông nghe. Bọn người mù
tranh nhau đến rờ con voi, người rờ trúng cái chân nói con
voi giống cây cột; người rờ trúng bụng nói con voi giống cái
lu, người rờ trúng đuôi nói con voi giống cây chổi, người rờ
trúng tai nói con voi giống cây quạt…, rồi cãi nhau inh ỏi.
Ông vua chỉ cười.
Người nào cũng chấp chỗ thấy của mình là chân lý
nhưng lại cãi nhau inh ỏi, thì quả tang chưa phải chân lý
thật sự. Theo nhà Phật, cho cái thấy của mình là chân lý, e
chưa phải, vì nó có mang cái “tôi” hạn hẹp trong đó. Đây là
điểm cần nhận định kỹ.
II- CHÂN LÝ Ở ĐÂU
Lâu nay những người học đạo thường đi tìm chân
lý nhưng tìm từ bên ngoài nên không bao giờ thấy thỏa mãn;
nếu có, chỉ thấy ở một khía cạnh nào đó chớ không trọn vẹn.
Trong khi chân lý lại vốn ở ngay nơi mình. Bởi nói là LÝ,
thì cái LÝ đó nó có biết gì? Chính Tâm mới biết rõ được LÝ,
mới là cái LÝ SỐNG. Mà tâm không chân thật, không sáng tỏ,
làm sao thấy được sáng tỏ, chân thật? Do đó, phải xoay lại
tự tâm, sáng tỏ tự tâm thì rõ chân lý. Đây là điểm trọng yếu
mà lâu nay người thường bỏ quên. Chẳng hạn tâm hư nguy, tâm
nhân ngã cao thấp hơn thua thì thấy gì cũng hư nguỵ, cao
thấp, hơn thua chứ gì! Như câu Phật nói: “Thiên thượng thiên
hạ, duy ngã độc tôn”, trên trời dưới đất, chỉ ta tôn nhất,
nếu đem tâm chấp ngã mà hiểu, sẽ cho là Phật quá ngã mạn, tự
thấy mình trên hết thiên hạ, không ai bằng. Đó là phỉ báng
Phật, không thấy được lẽ thật. Đâu biết rằng câu này ngầm
nhắc người giác ngộ một lẽ thật siêu việt thế gian, vượt qua
cái hư dối giả tạo. Đó là một ý nghĩa rất thâm thúy.
Trong nhà thiền có câu chuyện. Một hôm Tô Đông
Pha đến chùa Kim Sơn tham thiền với thiền sư Phật Ấn. Sau
giờ thiền ông hỏi Sư:
- Thiền sư! Ngài xem dáng tôi ngồi thế nào?
Thiền sư Phật Ấn đáp:
- Rất trang nghiêm giống một vị Phật.
Ông rất cao hứng. Thiền sư Phật Ấn hỏi lại ông:
- Học sĩ! Ông xem tư thế tôi ngồi như thế nào?
Tô Đông Pha lâu nay có dịp là đùa với Sư nên
liền đáp:
- Giống một cục cức trâu.
Thiền sư Phật Ấn nghe xong cũng rất cao hứng.
Nhưng Tô Đông Pha thấy Thiền sư bị mình dụ là cục cức trâu
mà không đáp lại, trong tâm cho là mình thắng Thiền sư Phật
Ấn nên gặp người liền nói:
- Hôm nay tôi thắng rồi!
Tin tức truyền đến tai cô em là Tô Tiểu Muội, cô
em mới hỏi ông:
- Này anh! Anh rốt ráo làm sao thắng được thiền
sư?
Tô Đông Pha hứng chí thuật lại cuộc đối đáp trên.
Tô Tiểu Muội thiên tư cũng rất thông minh hơn người, sau khi
cô nghe ông thuật lại xong, liền nghiêm mặt lại nói:
- Anh ơi, anh thua rồi! Trong tâm Thiền sư như
Phật, do đó Ngài xem anh như Phật; trái lại, trong tâm anh
giống cức trâu, do đó anh mới xem Ngài giống cức trâu.
Tô Đông Pha liền ú ớ mới biết công phu về Thiền
của mình còn thua xa Thiền sư Phật Ấn.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Câu chuyện thật có nhiều ý nghĩa. Thiền sư Phật
Ấn ngồi thiền mà giống cục cức trâu sao? Rõ ràng bởi tâm ông
Tô Đông Pha còn xen niệm hơn thua trong đó mà thành ra có
cái thấy ấy. Muốn hạ thấp người, không ngờ tâm mình đã lộ
tướng thấp kém trước. Gọi đó là chân lý được sao? Muốn thấu
chân lý phải biết xoay lại chính mình, tìm ngay trong chính
mình. Kinh nghiệm của Đức Phật, ban đầu Ngài theo học với
các vị thầy tiếng tăm nhưng cuối cùng đều không thỏa mãn,
đành từ giã hết, đến ngồi thiền định dưới cội Tất-bát-la, tự
soi lại mình mà tự giác ngộ, thấy tột lẽ thật của thế gian
và xuất thế gian.
Kinh Hoa Nghiêm nói, có một quyển Kinh chép đủ
mọi việc trong thế giới tam thiên đại thiên, tức trong vũ
trụ này, được nhét trong hạt bụi. Người có trí thấy được,
bèn đập hạt bụi lấy quyển kinh ra, liền hiểu thấu mọi việc.
Quyển kinh đó, chỉ cho những lẽ thật, hạt bụi
chỉ cho thân tâm này. Ngay thân tâm này khéo đập ra , lấy
quyển kinh kia, liền thấu rõ những lẽ thật trong thế gian.
Cho nên chân lý của thế gian đã nhét sẵn trong thâm tâm mỗi
chúng ta đây thôi, khỏi phải tìm đâu xa.
Một câu chuyện Thiền của Nhật Bản: Có bà nọ đến
nghe Thiền sư Bạch Ẩn thuyết giảng rằng: “Tâm tịnh thì cõi
nước thanh tịnh, đức Phật trong mỗi chúng sinh: Một khi Đức
Phật xuất hiện, mọi vật trên thế gian đều chiếu ánh quang
minh. Nếu ai muốn nhận được đều này, phải phản quan tự kỷ,
đến chỗ nhất tâm bất loạn. Vì tâm tịnh tức độ tịnh, thì làm
sao để trang nghiêm tịnh độ? Vì Phật vốn sẵn trong mỗi chúng
sinh thì tướng tốt và vẻ đẹp của Phật là gì?
Nghe xong, bà nghĩ: “Điều đó không quá khó”. Trở
về nhà bà bắt đầu quán chiếu suốt ngày đêm đeo đuổi mãi
trong tâm dù ngủ hay thức.
Rồi một hôm, khi đang rửa nồi, bà thình lình tỏ
ngộ. Ném cái nồi qua bên, bà đến gặp Bạch Ẩn và nói:
- Tôi bổng gặp đức Phật trong thân tôi. Mọi vật
rạng ngời ánh sáng. Thật kỳ diệu! Kỳ diệu!
Bà rất vui sướng. Chợt Bạch Ẩn bảo:
- Bà nói như thế, nhưng còn cái hầm phân thì sao?
Nó có chiếu sáng không?
Bà liền bước lên và đấm vào Bạch Ẩn, nói:
- Ông già này chưa ngộ.
Bạch Ẩn cười to.
Trong đây cho thấy, tâm sáng thì thấy cái gì
cũng sáng, thấy hầm phân cũng sáng, nhìn tất cả đều sáng
ngời. Xét lại mình, tại sao có khi mình thấy huynh đệ cùng
tu hành, cùng chung lý tưởng với nhau, lại không sáng? Thấy
ghét người này, thành kiến với người kia đó là do đâu? Cần
nhìn lại tâm mình lúc đó thì rõ ngay lẽ thật!
Một Thiền sư hiệu Thủy Lại đến hỏi Mã Tổ Đạo
Nhất
- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ sang?
Mã Tổ đạp ngay ngực té nhào. Sư bỗng nhiên đại
ngộ, đứng dậy vỗ tay cười to, nói: “Lạ thay! Trăm ngàn tam
muội, vô lượng diệu nghĩa chỉ ở trên đầu sợi lông thấu tột
tất cả cội nguồn”.
Tức ngay một niệm hiện tiền đây, sáng tỏ lên, là
thấu tất cả mọi ý nghĩ nhiệm mầu. Chân lý chính ở ngay trong
đó, lo suy tìm, moi móc, chia chẻ chữ nghĩa hẳn không thể
thấy.
III- TÂM THỂ LÀ CHÂN LÝ TRÊN HẾT
Dù cho người học đạo hiểu lý này, lý nọ cao siêu
đến đâu, cũng chỉ là cái LÝ BỊ HIỂU, chưa phải bản thân chân
lý. Nếu rời ngoài tâm mà có, đó cũng là LÝ CHẾT, có nghĩa gì?
Người học bám vào đó, là bám vào cái chết, đâu thể vội hài
lòng! Chính “tâm thể” mới là lý rốt ráo trên hết. Người tu
không tỏ ngộ tâm thể, là chưa đạt đến rốt ráo chân thật.
Trong Huyết Mạch Luận, Tổ sư đã nói: “Nếu thấy bản tánh thì
mười hai bộ kinh thảy là văn tự suông; ngàn bộ kinh, muôn
quyền luận chỉ làm sáng tỏ tâm. Ngay lời nói khế hợp thì
Giáo (Kinh điển) sẽ dùng vào đâu?” Nghĩa là, nhận ra bản
tánh hay tỏ ngộ tâm thể chính mình, đó là gốc của tất cả
kinh luận, là cội nguồn của hết thảy giáo lý. Chẳng rõ cội
nguồn này mà đi tìm theo ngọn ngành bên ngoài, là đi theo
chân lý chết, khó đạt đến viên mãn.
Vua Lương Võ Đế từng hỏi Tổ Bồ Đề Đạt Ma:
- Thế nào là thánh đế đệ nhất nghĩa?
Tổ Đạt Ma đáp:
- Rỗng thênh không Thánh.
Hỏi thánh đế đệ nhất nghĩa, tức hỏi đến lý rốt
ráo cùng tột. Song, nếu có một cái lý rốt ráo gì đó cho ông
hiểu, tức còn có một cái ở trên đó để hiểu lại nó, vậy đâu
còn là rốt ráo? Cho nên Tổ Đạt Ma đáp thẳng: “Rỗng thênh
không Thánh”, tức không có một chút gì là Thánh, là cao tột
để cho ông bám hiểu. Đây là Tổ đánh thẳng vào ngay vào chỗ
ông vừa hỏi, khỏi đi tìm thánh đế ở đâu khác, khỏi phải nghĩ
ngợi thêm gì!
Một cuộc đối đáp giữa Đại đức Uẩn Quang và Thiền
sư Tuệ Hải càng làm sáng tỏ thêm việc này. Đại đức hỏi nhiều
việc, cuối cùng hỏi:
- Hư không hay sinh linh tri chăng? Chân tâm
duyên thiện ác chăng? Người tham dục là đạo chăng? Người
chấp phải quấy, về sau tâm thông chăng? Người xúc cảnh sinh
tình, tâm có định chăng? Người trụ chỗ yên lặng, có huệ
chăng? Người ôm lòng khinh người, có ngã chăng? Người chấp
không chấp có, có trí chăng? Người tầm văn thủ chứng, người
khổ hạnh cầu Phật, người lìa tâm cầu Phật, người chấp tâm là
Phật, trí này hợp đạo chăng? Thỉnh thiền sư mỗi mỗi vì đáp:
Thiền sư Tuệ Hải đáp:
- Hư không chẳng sinh linh tri. Chân tâm chẳng
duyên thiện ác. Người chìm sâu trong tham dục, căn cơ cạn.
Người phải quấy lăng xăng, là chưa thông. Người xúc cảnh
sinh tâm, là ít định. Người yên lặng quên hết là huệ chìm.
Người khinh người cao mạn, là ngã mạn. Người chấp không chấp
có, đều ngu. Người tầm văn thủ chứng, thêm kẹt. Người khổ
hạnh cầu Phật, là mê. Người lìa tâm cầu Phật, là ngoại đạo;
chấp tâm là Phật, là ma.
Đại đức Uẩn Quang hỏi:
- Nếu như thế thì rốt ráo không thể có gì?
Thiền sư Tuệ Hải đáp:
- Rốt ráo là Đại đức, chẳng phải rốt ráo không
thể có.
Tức là, khi sạch hết mọi chỗ bám chấp từ bên
ngoài, không còn chỗ để tâm duyên đến, còn lại đó là chính
mình. Đó là chỗ rốt ráo cuối tột của tất cả Lý. Lẽ thật sáng
ngời như vậy, không ai đặt ra cả. Người học đạo tìm chân lý
là tìm trở lại ngay chỗ này, chớ nhọc chạy lăng xăng tìm cầu
ở bên ngoài, phí công nhiều.
IV- LÌA NIỆM PHÂN BIỆT, DÁM NHẬN SỰ THẬT
Bởi chân lý rốt ráo là ở ngay nơi mình, trong
chính mình nên không thuộc đối tượng hiểu biết. Chính vì vậy,
dù cố đem tâm phân biệt cũng đâu thể thành! Đâu thể đến! Do
đó, trong nhà Thiền thường cảnh tỉnh người học đạo đối với
tâm này. Như chuyện thiền tăng Văn Đạo với Thiền sư Tuệ Huân:
Văn Đạo nghe tiếng Thiền sư Tuệ Huân nên trèo
non lội suối đến trước hang động sư ở, thành khẩn thưa:
- Văn Đạo con vốn ngưỡng mộ cao phong của thầy,
một bề đến đây gần gũi theo hầu, xin thầy từ bi chỉ dạy!
Nhân lúc đó trời tối, Thiền sư Tuệ Huân bảo:
- Trời tối rồi, hãy ở đây ngủ một đêm.
Hôm sau, khi Văn Đạo thức dậy thì Thiền sư Tuệ
Huân đã dậy trước, nấu cháo xong. Đến lúc ăn, trong động
không có gì khác, thuận tay sư lấy cái sọ khô múc đầy cháo
đưa cho Văn Đạo. Văn Đạo do dự không biết nên nhận hay không.
Sư liền bảo:
- Ông không có tâm đạo, chẳng phải chân chính vì
pháp mà đến. Ông còn đem vọng tình nhơ sạch và yêu ghét mà
tiếp vật, làm sao có thể được đạo?
Đây là Thiền sư muốn đánh thức ông tăng, học đạo
chân thật phải quên tâm phân biệt theo tình chấp ngã ấy.
Phân biệt theo tình chấp ngã thì thấy theo tình yêu ghét,
hay dở, hơn thua, nghe nói chuyện vuốt theo bản ngã là thích;
trái lại, thì tự ái không muốn nghe. Học đạo như thế thì làm
sao học được lẽ thật. Học lẽ thật thì phải dám nhìn sự thật,
chấp nhận sự thật.
Tấm gương học đạo của tướng quốc Đỗ Hồng Tiệm
đời Đường. Ông đến hỏi Thiền sư Vô Trụ:
- Đệ tử tánh thức cạn cợn, trước đây nhân công
việc rảnh rỗi có soạn bản sớ giải về Luận Đại Thừa Khởi Tín
gồm hai quyển, có thể gọi là Phật pháp chăng?
Thiền sư Vô Trụ đáp:
- Xét về việc viết sớ giải đều là dùng thức tâm
nghĩ xét, phân biệt, có tạo tác, khởi tâm động niệm mới có
thể làm thành. Theo lời văn của bản luận ấy có nói: “Phải
biết tất cả pháp từ xưa đến nay lìa tướng ngôn thuyết, lìa
tướng danh dự, lìa tướng tâm duyên, rốt ráo bình đẳng không
có đổi khác; vì chỉ có một tâm nên gọi là chân như”. Nay
tướng công kẹt tướng ngôn thuyết, kẹt tướng danh tự, kẹt
tướng tâm duyên, đã kẹt các thứ tướng, làm sao là Phật pháp?
Ông liền thưa:
- Đệ tử từng hỏi các bậc Đại đức trong triều,
các Ngài đều tán thán đệ tử là chẳng thể nghĩ bàn. Phải biết
những vị ấy thuận theo nhân tình. Nay thầy từ lý mà giải nói
phù hợp với pháp tâm địa, thật là chân lý không thể nghĩ bàn!
Tâm học đạo của ông tướng quốc Đỗ Hồng Tiệm quả
là cao quý, dám nhận sự thật trái ngược với nhân tình, không
vì những lời khen cho vui; xét lại người xuất gia cũng không
dễ làm. Chính đó mới thực sự là học lẽ thật, đến với chân lý.
V- TÓM KẾT
Người học đạo chân chính, phải biết xoay lại
chính mình, đó là điểm thiết yếu. Đây cũng là gốc của mọi
pháp tu.
Muốn thể nhận chân lý, phải quên cái ta. Nói
hay, nói giỏi đến đâu mà lộ bày tướng ngã quá nặng, còn tự
kiêu ngã mạn quá to, cũng là biểu lộ tướng vô minh, cần tự
xét lại!
Đoạn nhân duyên vị tăng với Thiền sư Duy Khoan
là chỗ mỗi người học đạo phải luôn nghiệm kỹ:
Ông tăng hỏi sư:
- Đạo ở đâu?
Sư đáp:
- Đạo ở trước mắt.
Tăng hỏi:
- Sao con chẳng thấy?
Sư đáp:
- Vì ông còn có ngã.
Tăng hỏi:
Con có ngã nên con chẳng thấy, Hòa thượng thấy
chăng?
Sư đáp:
- Có ông, có ta cũng chẳng thấy luôn.
Tăng hỏi:
- Không con, không Hòa thượng lại thấy chăng?
Sư đáp:
- Không ông, không ta còn ai cần thấy?
Rõ ràng, hễ thấy biết mà còn có mang cái “tôi”
xen vào là nhìn sự vật méo mó ngay. Một lời nói hay mà do
người mình không ưa nói ra thì sao? Mình cũng bịt tai, quay
lưng không muốn nghe chứ gì? Vậy là tại nó không đúng, hay
tại cái gì?
Sạch hết tướng ta, tướng người, ngay đó chân lý
hiện tiền, còn muốn thấy gì nữa? Còn có lý để thấy, là còn
mang chút bóng dáng tướng ngã trong đó!
Mong rằng tất cả người học đạo đều sáng tỏ trở
lại chân lý nơi mình. Đó là nguồn sống vĩnh hằng không bao
giờ mất. Thật còn gì vui sướng hơn!
Thích Thông Phương
(Thiền Viện Thường Chiếu)
07-23-2008 07:23:12