CHUYỂN HOÁ SANH THÂN THÀNH PHÁP THÂN
HT.Thích Trí Quảng
---o0o---
Giáo hội chúng ta quy định Tăng Ni mỗi năm phải
cấm túc an cư mới được một tuổi đạo; nhưng an cư có an cư
tập trung và an cư tại chỗ. An cư tập trung quan trọng hơn
đối với người xuất gia; vì nếu chỉ an cư tại chỗ sẽ không
học được những điều tốt đẹp của chúng bạn, cũng như không cọ
xát được thực tế cuộc sống. Vì vậy, mặc dù chúng ta tu hành
đã lâu nhưng nghiệp và phiền não vẫn tiềm ẩn trong tâm,
không phát hiện được. Có thể nói an cư tập trung vô cùng
quan trọng để chúng ta nương vào con mắt của đại chúng mà
quan sát nghiệp của chúng ta; nhờ đại chúng chỉ bảo chúng ta
mới sửa đổi được lỗi lầm.
Có thể lần đầu chúng ta an cư tập trung cảm thấy
bị ràng buộc, khó chịu; vì người dòm ngó làm "mình" mất tự
do. Nhưng thử nghĩ xem "mình" này là gì? "mình" này là
nghiệp, là phiền não, là ma ngũ ấm. Nếu nhận ngũ ấm ma và
phiền não là "mình" mà tu thì ngũ ẩm ma sẽ tăng trưởng,
nghĩa là chúng ta càng tu càng phiền não, càng bị nghiệp bức
bách mình nhiều hơn; cho đến mức độ quyết định cất am, cất
cốc tu một mình cho dễ. Nhưng cái dễ này sẽ giúp cho phiền
não và nghiệp của mình tăng trưởng; vì sống một mình, muốn
tụng kinh hay không tụng kinh cũng được, không muốn ngồi
thiền cũng không sao. Tu như vậy chỉ luẩn quẩn trong sinh tử
luân hồi.
Vì lợi ích của việc an cư tập trung, Thành hội
Phật giáo thành phố Hồ Chí Minh quyết định tất cả Tỳ kheo,
Tỳ kheo ni dù tu bao nhiêu lâu cũng phải có ít nhất mười lần
an cư tập trung, mới được tấn phong giáo phẩm. Thời xưa,
trong đạo chúng ta cũng có quy định mười hạ trở lên mới được
làm Hòa thượng, đó là mười hạ an cư tập trung.
Bắt đầu năm nay, Giáo hội chúng ta tổ chức an cư
tập trung cấp thành phố vâ cấp quận, huyện ít nhất Tăng Ni
phải có ba hạ an cư tập trung ở cấp thành phố. An cư tập
trung cấp thành phố quan trọng hơn ở quận huyện, vì an cư
tập trung cấp thành phố, chúng ta được tu học chung với
nhiều tu sĩ thuộc nhiều tự viện của các quận, huyện khác
nhau, chúng ta lần quen biết và kết bạn tâm giao với đại
chúng trong toàn thành phố và nhờ có sống chung mới có cơ
hội học hỏi, trao đổi, chúng ta mới có tầm nhìn và sự hiểu
biết rộng hơn, giúp cho chúng ta sau này dễ dàng hành đạo.
Theo kinh nghiệm riêng tôi, nhờ những mùa an cư
vào những năm còn ngồi ghế nhà trường ở Phật học đường Nam
Việt, mà tôi có thể trao đổi với những bạn đồng tu về sinh
hoạt từng vùng khác nhau, cho nên sau này tôi đến những nơi
đó hành đạo, đã biết được dân tình và những điểm đặc biệt
của vùng đó, lại thêm có bạn đồng học với mình năm xưa ở đó
thì việc hành đạo của tôi gặp nhiều thuận lợi hơn.
Năm nay Thành hội Phật giáo thành phố Hồ Chí
Minh tổ chức hai trường hạ an cư tập trung cấp thành phố,
một trường hạ dành cho chư Tăng và một trường hạ của chư Ni.
Ngoài ra, trong ba tháng an cư, mỗi tháng Thành hội Phật
giáo thành phố Hồ Chí Minh sẽ chọn thêm ba ngày thích hợp để
Tăng Ni thành phố về học tập trung. Khi mãn hạ, Thành hội
Phật giáo sẽ cấp chứng nhận cho những hành giả đã an cư tập
trung ở cấp thành phố.
Trở lại đề tài chúng ta học là kinh Pháp Hoa. Bộ
kinh Pháp Hoa được kiết tập và phiên dịch mà chúng ta thường
thọ trì, đọc tụng, gồm có 28 phẩm. Nương theo bộ kinh Pháp
Hoa bằng văn tự có giới hạn này, để lần mở ra cho chúng ta
thấy tổng quát những tinh ba Đức Phật chỉ dạy, mà ngài Trí
Giả gọi lâ Viên giáo .
Viên giáo có nghĩa là pháp cốt lõi của đạo Phật,
là sở đắc của Đức Phật Người tu phải đạt cho được phần cốt
lõi này và mỗi ngày chúng ta tụng kinh là để bóc lần cái vỏ
bên ngoài, mới đi vào phần cốt lõi bên trong quan trọng Kinh
Pháp Hoa được gọi là thuần Viên độc Diệu; còn kinh Hoa
Nghiêm là Viên giáo.
Trong kinh Pháp Hoa, Đức Phật nói rằng khi Ngài
thành đạo ở Bồ Đề Đạo Tràng, đạt đến đỉnh cao nhất là Vô
thượng Bồ đề, tức trí giác cao nhất, Ngài quán sát thấy rằng
không có người nào có thể tiếp thu sự hiểu biết mà Ngài đã
chứng đắc. Kinh Hoa Nghiêm diễn tả sự tuyệt phần này rằng
hàng Nhị thừa hiện hữu trong pháp hội giống như nguời điếc
có tai mà không nghe, như người mù có mắt mà không thấy. Ý
thức sâu sắc điều này để tự biết rằng trên bước đường tu,
khi chúng ta chưa đạt được quả vị của Nhị thừa, không phải
là Bích Chi Phật, không phải là La hán, tất nhiên chỗ ngộ
của mình còn cách Phật xa lắm. Có thể nói rằng dù chúng ta
có học và tu suốt đời cũng không hiểu được Phật. Thật vậy,
Đức Phật cũng khẳng định trong kinh Pháp Hoa rằng nếu tập
hợp tất cả Bích Chi Phật và A la hán nhiều vô số và suốt đời
tìm hiểu Vô thượng Bồ đề của Đức Phật thì cũng không hiểu
được gì. Còn chúng ta đọc vài lần tự cho là đã học, đã hiểu
kinh Pháp Hoa, thì chắc chắn là "Hiểu mà không hiểu", nghĩa
là ta hiểu văn tự, hiểu nghĩa của kinh, nhưng chưa hiểu được
Đức Phật. Phải thấy được Phật, mới hiểu được Phật.
Khi Đức Phật chứng quả Vô thượng Bồ đề là đạt
đến hiểu biết cao tột nhất về toàn thể Pháp giới, thì không
ai hiểu được sở đắc này của Phật, chỉ có hàng Bồ tát Nhứt
sanh bổ xứ, tức hàng Bồ tát từ thập địa trở lên là Đẳng giác
và Diệu giác Bồ tát mới tiếp cận được với sở đắc vô thượng
này của Phật.
Như vậy, từ A la hán cho đến hàng Bồ tát thập
địa trở xuống còn không hiểu được trí tuệ của Như Lai thì
làm sao hàng phàm phu chúng ta biết được. Vì không có đối
tượng để truyền trao trí giác, cho nên Đức Phật Thích Ca
muốn nhập Niết bàn. Không riêng gì Đức Phật Thích Ca, lịch
sử cho thấy ngay cả hàng A la hán, thậm chí những vị mới
chứng sơ quả Dự lưu mà các Ngài cũng muốn vào Niết bàn; vì
nói sở đắc của mình cho người khác nghe được rất khó. Mình
hiểu đã khó, mà làm cho người khác hiểu còn khó hơn . Bồ tát
còn kẹt trần sa hoặc và vô minh hoặc, nên độ chúng sinh rất
khó. Thật vậy, trên bước đường tu, sở đắc trong pháp Phật
làm cho mình sống rất an lạc, nhưng dấn thân hành đạo thì
phải chịu hết khổ này đến khổ khác. Đối với tôi, ngồi yên ở
chùa tu quả là dễ vô cùng, một ngày không ăn cũng không cần
và mình hoàn toàn tự do, muốn nhập thiền bao nhiêu lâu cũng
được, muốn đọc sách đến chừng nào tùy ý. Sống với nội tâm,
với tuệ giác của mình, cảm thấy thú vị lắm chứ. Những vị
chứng quả Dự lưu không còn lệ thuộc việc ăn uống, tức không
bị trạng thái đói khát hành hạ thân tâm, nên họ sống nội tâm
nhiều hơn là sống với bên ngoài và giáo hóa độ sinh, phải
tiếp xúc với Phật tử, khiến họ mất công suy nghĩ những việc
không đáng, làm động tâm. Vì vậy, đắc đạo rồi, nhiều vị
không muốn giáo hóa độ sinh.
Đức Phật đắc đạo, thấy biết cao tột mọi diễn
tiến của muôn loài, của cả vũ trụ bao la và Ngài cũng biểt
rõ tất cả mọi người trong tam giới này không thể học, không
thể hiểu được trí giác ấy, thì làm sao Ngài dạy; cho nên Đức
Phật Thích Ca muốn nhập Niết bàn. Bấy giờ mười phương Phật
xuất hiện để an ủi Ngài rằng chỗ ngộ của Phật Thích Ca đồng
với chỗ ngộ của chư Phật mười phương; nhưng có khác ở điểm
Đức Phật Thích Ca có thân tứ đại, còn chư Phật mười phương
đã xả thân tứ đại và vào Niết bàn rồi, thì làm sao các Ngài
giáo hóa được chúng sinh. Nói cho dễ hiểu, tôi có thân tứ
đại ngũ uẩn, dù nó gây khó dễ cho tôi, nhưng tôi còn đến đây
thuyết pháp, nhắc nhở quý vị tu hành được. Trong khi Sư bà
Huyền Học muốn xuất hiện ở đây để dạy dỗ quý vị cũng không
được, vì Sư bà không còn thân tứ đại ngũ uẩn nữa.
Chư Phật mười phương ở thế giới Thường Tịch
Quang, không hiện hữu trên cuộc đời này, nên các Ngài không
giáo hóa chúng ta được; ngoại trừ những người có căn lành
mới có niềm tin, nghĩ về Phật và đi tìm Phật, thì họ thấy
Phật. Thuở nhỏ, tôi xuất gia cũng nhờ căn lành, tuy chưa
thấy Phật, nhưng trong lòng tin Phật một cách sâu sắc, tôi
mới cố gắng đi từ chùa này sang chùa khác để tìm Phật.
Khi Đức Phật Thích Ca thành đạo ở Bồ Đề Đạo
Tràng là chuyển đổi được ngũ uẩn thân thành Pháp thân. Huyền
Giác Đại sư diễn tả ý này rằng huyễn hóa sanh thân tức Pháp
thân. Nghĩa là tu hành, phải chuyển đổi ngũ uẩn thân thành
pháp khí Đại thừa; nếu không thì giữ nguyên ngũ ấm ma, dù có
tu suốt đời cũng rơi vào thế giới ma, tức càng tu thì càng
tham lam, càng hung dữ thêm.
Chuyển hóa ngũ ấm thân thành Pháp thân bằng cách
nào và làm sao chúng ta biết được mình đã chuyền hóa?
Đức Phật dạy rằng phá được một phần vô minh,
phiền não, nghiệp chướng trần lao thì một phần Pháp thân
hiện ra. Vì phiền não, vô minh và nghiệp chướng trần lao cấu
tạo nên con người phàm phu tội lỗi; cho nên chúng ta phải
phá lần những hạt nhân xấu này để chuyển đổi và có hai cách
chuyển đổi. Một là chuyển đổi tâm trước và phần vật chất sẽ
thay đổi theo. Hai là chuyền đổi vật chất trước và tâm theo
đó thay đổi, phần nào dễ chuyển đổi, chúng ta làm trước.
Khi Đức Phật Thích Ca chứng được Pháp thân và
được chư Phật mười phương nhắc nhở phải sử dụng sanh thân để
tiếp cận, giáo hóa chúng sinh. Như vậy, Đức Phật Thích Ca có
sanh thân và Ngài đã chuyển đổi thành Pháp thân. Chuyển đổi
sanh thân thành Pháp thân nghĩa là gì?
Mọi người đều có sanh thân ngũ uẩn giống nhau,
nhưng khác nhau ở công phu tu hành để chuyển đổi sanh thân
thành Pháp thân. Trong ngũ uần sanh thân của chúng ta có
thân vật chất và phần tinh thần. Chúng ta tu trên thân ngữ
uẩn, nhưng từng bước chuyển đổi phần vật chất và tinh thần
trở thành Pháp thân.
Thật vậy khi chưa xuất gia, chúng ta cũng mang
thân này, nhưng cạo tóc, xuất gia và thọ giới rồi, thân vật
chất của chúng ta liền trở thành pháp khí Đại thừa, hay công
cụ của Đại thừa giúp chúng ta truyền giáo. Có thể trên thực
tế, quý thầy cô học chưa bằng ai, nhưng chắc chắn quý vị hơn
các cư sĩ tại gia ở chiếc áo tu hành và quan trọng hơn cả là
hơn người đời ở nếp sống phạm hạnh thanh tịnh. Với hình thức
và đời sống của người xuất gia, người ta biết rõ chúng ta là
người truyền bá Chánh pháp. Như vậy, chúng ta đã chuyển đổi
thân tứ đại của người thế tục bằng cách thay đổi chiếc áo
thế tục và cuộc sống thế tục thành chiếc y Phật và cuộc sống
tu hành phạm hạnh thanh tịnh. Tôi nhờ khoác áo Phật và sống
đời phạm hạnh thanh tịnh, nên tôi giảng dạy, người ta mới
nghe theo và thấy mình giống với Đức Phật hơn.
Và mặc áo Phật, phủi tóc theo Phật, sống trong
chốn già lam là tự khẳng định mình là đệ tử xuất gia của
Phật, chúng ta phải gánh lấy trách nhiệm rất lớn. Nếu ta làm
điều sai trái, sẽ gây ảnh hưởng không tốt cho đạo Phật; tội
lỗi này khó mà trả nổi. Vì vậy, người tu phải giữ giới luật,
thể hiện tứ oai nghi và sống phạm hạnh thanh tịnh.
Pháp thân Phật do Báo thân kết hợp mà thành, cho
nên chúng ta phát triển Báo thân bao nhiêu thì có được Pháp
thân bấy nhiêu. Báo thân là thân phước đức và trí tuệ, mà
phước đức là do phạm hạnh thanh tịnh tạo nên. Và khi chúng
ta thể hiện được cuộc sống phạm hạnh thanh tịnh, chúng ta
lại hiện tướng giải thoát, tác động cho người nghĩ rằng
chúng ta thay Phật thuyết pháp giáo hóa chúng sinh, họ
thuyết pháp giáo hóa chúng sinh, họ mới cung kính cúng dường.
Như vậy, do giữ giới mà thành đức và từ đức hạnh này thành
tựu, chúng ta đã chuyển đổi được một phần thân vật chất ngũ
uẩn thành Pháp thân.
Tuy nhiên, nếu do giữ giới và sống phạm hạnh
thanh tịnh mà đắc quả vị A la hán, Trí Giả gọi đó là độn căn
La hán. Chúng ta thấy có những vị tu hành tuy không có hiểu
biết nhiều, nhưng nhờ thành tựu giới đức, sống phạm hạnh, họ
được kính trọng Chúng ta nương những vị đức hạnh để rèn
luyện mình thành người đức hạnh là chúng ta mới có được một
nửa Báo thân mà thôi. Một nửa Báo thân còn lại là trí tưệ
cần được phát triển; nhưng muốn tăng trưởng trí tuệ phải tu
tập thiền quán.
Đạo đức do xây dựng bên ngoài và trí tuệ do nội
quán bên trong. Tu giới ban đầu tạo thành đức và tu định tuệ
tác động hỗ tuơng cho nhau. Có định sanh tuệ là tu từ nhân
hướng quả và có tưệ mới định là từ quả hướng nhân.
Như đã nói, đối với chúng phàm phu, khi vừa
thành đạo, Đức Phật Thích Ca nghĩ rằng Ngài không thể truyền
dạy cho họ trí giác vô thượng. Nhưng nhờ chư Phật mười
phương an ủi, Ngài mới nghĩ phương cách sử dụng phương tiện,
tức các pháp môn tu hành, để giúp cho chúng phàm phu phát
sinh trí tuệ và đạo đức.
Khởi đầu, từ Bỏ Đề Đạo Tràng đến Lộc Uyền, Đức
Phật lập giáo khai tông, Ngài chỉ dạy một pháp môn duy nhẩt
là Tứ Thánh đế, tức bốn chân lý. Trong Tứ Thánh đế, Khổ đế
và Tập đế chúng ta phải biết, đi tu quan trọng nhất chúng ta
phải làm là Đạo đế; còn Diệt đế chúng ta chưa chứng.
Đối với tất cả Tăng Ni xuất gia học đạo, Đạo đế
thu gọn là 37 trợ học đạo, Đạo đế thu gọn là 37 trợ đạo phẩm,
hay 37 phương tiện giúp chúng ta đắc Thánh quả; đó là giáo
pháp cốt lõi quan trọng ban đầu. Theo Trí Giả đại sư, 37 trợ
đạo phẩm cũng là kinh Pháp Hoa, nhưng là ẩn mật Pháp Hoa,
tức kinh Pháp Hoa tiềm ẩn trong 37 trợ đạo phẩm. Vì kinh
Pháp Hoa là Phật thừa, tiêu biểu cho tuệ giác vô thượng của
Đức Phật Thích Ca mà chúng ta không thề nào hiểu được; cho
nên Ngài phải sử dụng phương tiện huệ là 37 trợ đạo phẩm đề
dìu dắt chúng ta từng bước.
Như vậy, chúng ta học ẩn mật Pháp Hoa, nương
theo phương tiện huệ của Đức Phật là 37 trợ đạo phẩm của Đạo
đế khởi đầu là Tứ niệm xứ quán để dẫn dắt chúng ta vào đâu,
cần phải biết rõ.
Tứ niệm xứ quán gồm có quán thân bất tịnh, quán
thọ thị khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã, sẽ giúp
chúng ta đoạn trừ ái dục, hạn chế quan hệ với cuộc đời,
không chấp vào việc thế gian và quán pháp vô ngã, để cuối
cùng đi đến pháp Xả. Theo ngài Thế Thân, trong ba thọ là khổ
thọ, lạc thọ và xả thọ, lấy xả thọ làm pháp tu hành đề chúng
ta rời bỏ tâm chấp trước.
Thành tựu pháp Tứ niệm xứ quán, chúng ta sẽ
chứng được Hư không thân, sẽ đi vào cảnh giới Phật của hàng
Dự lưu. Hiểu như vậy, chúng ta nỗ lực thực hiện cho được
pháp quán vô ngã, luôn ý thức mọi việc trên thế gian này là
giả hợp mà thành, không có gì thật sự là ta, là của ta để
chứng được Hư không thân. Và khi thân chúng ta như hư không,
thì người có đánh mắng, mình trụ ở hư không, không trụ sắc
thân, chắc chắn sẽ được giải thoát. Nếu trụ sắc thân, thí dụ
như ta trụ trì chùa, khi chùa xuống cấp, hoặc bị chiếm giữ,
chúng ta liền sanh tâm chấp giữ, buồn khổ, đấu tranh, v.v...
Đức Phật dạy chúng ta bất trụ sắc sanh tâm, bất
trụ thanh, hương, vị xúc pháp sanh tâm, cho đến Ưng vô sở
trụ sanh tâm, nghĩa là hoàn toàn không có sự chấp thủ nào cả
mới được tự tại giải thoát thật sự. Đa số chúng ta khó thực
hiện điều này, vì chúng ta sợ mất của cải, cho đến sợ mất
thân mạng. Nhưng thử nghĩ xem tất cả mọi người đều phải chết,
tài sản mất trước và thân mạng mất sau; cần phải luôn giác
ngộ sự thật này.
Trên bước đường tu, đạt được Ưng vô sở trụ sanh
tâm là sanh được bốn tâm vô lượng, từ bi hỷ xả. Ai làm gì
tổn hại, mình tha thứ bỏ qua. Đối với tôi ai khinh chê, chửi
mắng, tôi lấy đó làm phương tiện hành đạo. Họ nói xấu, mình
có mình mới sợ; nếu mình không có lỗi thì họ phải nợ mình và
phải sợ mình.
Nếu tu thuần Tứ niệm xứ quán, trụ ở Không tâm,
hay Ưng vô sở trụ sanh tâm, tức sanh tâm ở chỗ không trụ
pháp, không trụ vật chất, nên đạt giải thoát. Đó là thành
tựu pháp Tứ niệm xứ quán, có tâm nhẹ nhàng như hư không, mới
phát triển pháp Tứ chánh cần là bốn việc siêng năng làm.
Trong thiền quán, chúng ta đã được an lạc, giải
thoát nhưng xả thiền, đi vào cuộc đời thì không giống trong
thiền định. Vì trong thiền định, chúng ta muốn sao được vậy,
mọi điều diễn ra hoàn toàn theo ý muốn chúng ta; còn ở thực
tế cuộc sống, đâu có việc gì cũng theo ý chúng ta, chúng ta
muốn mà không được, vì phải đối diện với nghiệp và phiền não
của người, của mình.
Nhờ đã thực tập Tứ niệm xứ quán vững vàng, chúng
ta đi vào đời và đối cảnh, mới biết để thực hiện đúng đắn
pháp Tứ chánh cần. Tâm xấu ác như ghét ganh, ty hiềm, hơn
thua, hại người, v.v... chưa sinh ra, chúng ta có thể tránh
mặt nguời để không cho tâm xấu này khởi lên. Tâm xấu ác đã
sinh ra, phải xóa ngay, bằng cách niệm Phật, hoặc dùng pháp
khác để quán tưởng. Trên bước đường tu, cần phải cọ xát với
thực tế mới phát huy được pháp hành, mới tạo được công đức.
Điều thiện đã sinh ra, nói cụ thể là càm tình tốt đẹp của
người đành cho ta vì ta đã giúp đỡ họ, thì cần phát triển
thiện cảm này. Điều tốt chưa sinh, chưa làm tốt cho người,
nên cố gắng gieo trồng hạt giống lành này.
Phải nói rằng nhờ có trí tuệ chúng ta mới nhận
ra điều thiện đề phát huy và điều xấu đề từ bỏ. Như vậy, có
trí tuệ là thiện và không có trí tuệ là ác. Và cuối cùng
Phật dạy rằng tịnh là thiện và động là ác. Tâm chúng ta vọng
động thì dù có làm việc tốt cũng thuộc vọng tâm, nên có tạo
được phước thì càng ở trong vòng nghiệp và quả báo. Thí dụ
xây chùa cho người tu, mình được phước; nhưng nếu đầu tư
công sức vào việc này, mình cũng phải tính toán, đối phó, lo
lắng, buồn phiền...; tâm đâu có an lạc giải thoát. Thực tế
cho thấy chúng ta lăn xả vào đời vì thương chúng sinh, muốn
cứu giúp họ; nhưng rõ ràng chúng ta bị thiệt thòi rất nhiều,
vì chúng ta dễ bị trần ai làm ô nhiễm.
Tóm lại, học kinh Pháp Hoa, chúng ta cần có cái
nhìn tổng quát, nhận ra Tứ Thánh đế, giáo pháp cốt lõi ban
đầu của Đức Phật chỉ dạy, cũng chính là kinh Pháp Hoa với
tên gọi là ẩn mật Pháp Hoa, vì đã tiềm ẩn những hạt nhân cần
thiết để dẫn dắt tất cả hàng đệ tử Phật vượt qua 500 do tuần
đường hiểm, từng bước đến cứu cánh vô thượng Bồ đề.
HT.Thích Trí Quảng
(Bài giảng tại trường hạ chùa Vĩnh Phước ngày
7-6-2008)
Nguồn: Báo Giác Ngộ số 439 & 440
Người gửi bài: Tịnh Tú: phatphap.wordpress.com &
phatphapnhiemmau.com
07-13-2008 11:12:46