CẦU NGUYỆN và TỤNG KINH
Tâm Diệu
---o0o---
Đạo Phật trên ý nghĩa thiết yếu là “biện chứng
giải thoát” hay là con đường gỉai thoát. Gỉai thoát khỏi khổ
đau, sinh tử luân hồi. Tuy cùng đi trên một con đường, nhưng
vì con người có nhiều tâm tính, trình độ, khả năng và căn cơ
khác nhau, lại vì tùy hoàn cảnh, tùy phong tục, tập quán,
luật lệ thay đổi theo từng địa phương và tùy thời điểm, cho
nên Ðức Phật đã đưa ra vô số phương tiện khác nhau, thường
được tiêu biểu bằng con số 84 nghìn pháp môn, để hướng dẫn
mọi người đạt đến cứu cánh giác ngộ, giải thoát. Cầu nguyện
và tụng kinh, tuy không phải là cứu cánh, nhưng cũng là một
trong 84 nghìn pháp môn.
CẦU NGUYỆN
Thời Đức Phật tại thế, có chàng trai trẻ đến xin
Phật làm lễ cầu siêu cho người cha vừa quá vãng. Biết rằng
chàng trai trẻ tràn ngập nỗi đau khổ chắc khó có thể hiểu
được những lý lẽ trong lúc này, nên Ðức Phật đã phải dùng
phương tiện bằng hình ảnh cụ thể với những đặc tính đối lập,
một hòn đá và một lon dầu, cả hai được ném xuống hồ, đá nặng
chìm xuống và dầu nhẹ nổi lên. Đức Phật trả lời, như một
hòn đá nặng được thả chìm xuống đáy hồ, cho dù với sức cầu
nguyện của số đông, hòn đá vẫn không thể nổi lên mặt nước.
Qua đó, Đức Phật khẳng định nếu con người tạo nghiệp xấu thì
chịu quả báo xấu và tạo nghiệp tốt thì được hưởng quả báo
tốt, cầu nguyện không thể làm thay đổi được nghiệp lực, nhất
là khi nghiệp đã chín muồi. Rõ ràng, cầu nguyện để mong giải
tội, xóa sạch ác nghiệp đã tạo, phó thác hoàn toàn vào tha
lực như các Bà la môn hằng tin tưởng là một việc làm vô ích
(33) .
Tuy nhiên, trong một vài trường hợp khác, cũng
trong kinh Pali, Đức Phật cho thấy sự cầu nguyện có ảnh
hưởng đến người khác và môi trường sống chung quanh. Điển
hình là trường hợp Tỳ kheo Angulimāla, ông vốn là một tay
cướp giết người nổi tiếng, nhưng Angulimāla được Phật hoá độ,
trở thành Tỳ kheo. Một hôm, Angulimāla đi khất thực, gặp một
người đàn bà sắp lâm bồn đang rên siết đau đớn bên đường.
Không biết làm thế nào, Angulimāla trở về hỏi Ðức Phật. Ðức
Phật khuyên Angulimāla đem lời sau đây nói với người đàn bà:
"Này cô, từ ngày được sanh vào Thánh tộc (nghĩa là từ ngày
tôi xuất gia), tôi chưa hề có ý tiêu diệt đời sống của một
sinh vật nào. Do lời chân thật này, ước mong cô được vuông
tròn và con của cô được bình an vô sự."(34) Angulimāla học
thuộc lòng bài kinh, rồi đi đến nơi, ngồi cách người phụ nữ
một bức màn che, đọc lại. Người mẹ đau đớn liền sanh được dễ
dàng.
Đến nay bài kinh Angulimāla Paritta (35) này
vẫn còn được lưu hành ở một số quốc gia Phật giáo Nam Truyền.
Điều này cho thấy năng lực nội tại (qua tâm từ và giữ
giới) của hành giả có thể có tác dụng đến ngoại giới,
đến môi trường chung quanh và ảnh hưởng ấy lại được chuyển
tải bởi ngôn ngữ (lời kinh). Sức mạnh của tâm từ và
năng lực trì giới của Tôn gỉa Angulimāla đã chuyển hoá
tai họa của sản phụ, khiến cho mẹ con được an lành.
Cũng vào thời Phật, có một số tỳ kheo sống trong
rừng sâu bị rắn độc cắn bị thương nhiều có khi gây tổn hại
đến sinh mệnh, nên Phật đã dạy các tỳ kheo ấy hãy rải tâm từ
đến các loài rắn độc thì sẽ tránh khỏi. Phật dạy bài kệ. Nội
dung bài kệ không phải là những câu thần chú bí hiểm, mà chỉ
là những lời ước nguyện, mong cho tâm từ của hành giả lan
toả đến chúa tể các loài rắn độc, các sinh vật không chân,
hai chân và bốn chân; ước nguyện chúng sinh các loại đều
được an lành, không làm hại đến tỳ kheo. Văn ước nguyện này
được gọi là “hộ chú“ (parittam)(36) .
Trong thời cận đại, một vị bác sĩ người Pháp
qua Việt Nam làm các việc từ thiện ở những năm đầu thập niên
thế kỷ 20 cũng xác nhận rằng nhờ “tâm từ” mà ông đã thoát
được nạn rắn độc. Đó là trường hợp bác sĩ Yersin: “Năm 1894
bác sĩ Yersin đi từ cao nguyên Lang Bian đến Darlac rồi từ
Darlac đến Attopeu, một bữa nọ bác sĩ đang đi trong rừng,
mắt chăm chú nhìn lên các ngọn cây cao, thì bỗng nghe sau
lưng có tiếng động. Quay lại thì ngó thấy một con rắn hổ
mang to lớn đứng thẳng lên trên đuôi, phùng mang le nọc độc.
Bác sĩ Yersin đứng yên, thái độ hoàn toàn bình thản. Rắn lắc
lư chiếc đầu dẹp muốn nhảy đến chụp, nhưng lại trù trừ. Hồi
lâu hạ mình xuống vụt phóng vào bụi rậm rồi đi mất. Nghe
được câu chuyện, có người đến hỏi bác sĩ có phải nhờ thuật
thôi miên mà thoát nạn chăng? Bác sĩ cười đáp: “Rắn độc cũng
như thú dữ, cắn người chỉ để tự vệ. Chúng đều có linh tính.
Một khi nhận biết rằng mình không có ác tâm, ác ý đối với
chúng thì không bao giờ chúng làm hại mình”(37) .
Trên đây là một số trường hợp cầu an cứu hộ có
tính cách cá nhân cho mình hoặc cho người, nương nhờ vào
năng lực từ tâm và trì giới. Trong trường hợp số đông
chúng sinh như các vùng bị thiên tai, bão lụt làm mất tích
và chết nhiều người, dẫn đến các bệnh dịch tàn phá khác.
Phật giáo, ngoài những nỗ lực cứu giúp bằng các phương tiện
vật chất còn có biện pháp cứu hộ khác bằng năng lực cầu
nguyện của số đông với tâm từ bi, với chánh tín và chánh
kiến qua việc đọc tụng kinh Châu Báu (38) như tại các quốc
gia theo truyền thống Phật giáo Nam truyền thường áp dụng.
Như thế có thể nói rằng ngoài tự lực, trong Phật
giáo còn có tha lực và cầu nguyện, vẫn là một trong 84 ngàn
pháp môn tu tập trong đạo Phật. Sự cầu nguyện có thể được
giải thích như là một ý lực mạnh mẽ muốn chuyển hóa nghiệp
lực đối với tự thân đồng thời hỗ trợ cho tha nhân chuyển hóa
nghiệp lực của chính họ, mà chủ yếu là sức mạnh
của tâm từ bi và giữ giới luật.
TỤNG KINH
Tụng kinh là cách hành trì rất phổ biến của cả
hai trường phái Phật giáo Nam Truyền và Bắc Truyền.
Kinh có nghĩa là những lời Phật dạy, bao gồm
những bài thuyết pháp của Đức Phật từ buổi thuyết pháp đầu
tiên tại Ba La Nại cho đến lúc Phật nhập Niết Bàn.
Tụng kinh là để ôn lại những lời Phật dạy và để
tự nhắc nhở mình ứng dụng lời của Phật dạy vào cuộc sống
hằng ngày là không làm các việc ác, làm các việc lành và
tự thanh lọc tâm ý. Khi tụng kinh, do chú tâm vào lời
kinh nên cả ba nghiệp là thân, khẩu và ý không có cơ hội tạo
tác. Do đó xa lìa được các gốc rễ của khổ đau như tham lam,
sân hận, si mê, đem lại lợi lạc cho mình và người.
Nhiều bài kinh quan trọng từ giáo lý căn bản của
Đức Phật được chọn ra từ các bộ kinh. Tên những bộ kinh
nguyên thủy bằng chữ Pali được chọn ra là: Trường Bộ Kinh (Digha
Nikaya), Trung Bộ Kinh (Majjiima Nikaya), Tương Ưng Bộ Kinh
(Samyutta Nikaya), Tăng Chi Bộ Kinh, (Anguttara Nikaya) và
Tiểu Bộ Kinh (Khuđaka Nikaya). Các Kinh nguyên thủy bằng
chữ Sanskrit gồm có các bộ A Hàm (Agamas) như Trường A Hàm,
Trung A Hàm, Tăng Nhất A Hàm, và Tạp A Hàm (tương đương với
các bộ Trường Bộ Kinh, Trung Bộ Kinh, Tương Ưng Bộ Kinh,
Tăng Chi Bộ Kinh, và Tiểu Bộ Kinh thuộc văn hệ Pali). Ngoài
ra còn có các kinh thuộc Phật giáo Bắc Truyền như: Kinh Diệu
Pháp Liên Hoa, Kinh Hoa Nghiêm, Kinh Kim Cang, Kinh Đại Bát
Nhã, Kinh Đại Bát Niết Bàn, Kinh Đại Bảo Tích, Kinh Lăng
Nghiêm, Kinh Viên Giác, Bát Nhã Ba La Mật Đa Tâm Kinh, Kinh
Duy Ma Cật, Kinh A Di Đà, và còn rất nhiều nữa.
Những kinh mà người Phật tử tụng trong truyền
thống Phật giáo Nam Truyền để cầu an là Kinh
Châu Báu và Kinh Phật Lực. Cầu siêu là
Kinh Vô Ngã Tướng và Kinh Hồi Hướng Vong
Linh. Đối với Phật giáo Bắc truyền kinh Cầu an là
Kinh Phổ Môn và cầu siêu là Kinh A Di Đà
và Kinh Địa Tạng.
“Cầu An” có nghĩa là ước nguyện cho chính chúng
ta hay cho người khác tránh khỏi các hình thái của ma quỷ,
bất hạnh, đau ốm, và ảnh hưởng xấu của những sự thay đổi môi
trường sống trong hệ thống hành tinh cũng như để đặt tin
tưởng nơi tự tâm bằng chính tâm từ bi, chánh tín, chánh kiến
và năng lực giữ giới hạnh của chúng ta. Còn “Cầu Siêu” là
nguyện cầu cho những người thân quá cố hoặc bạn bè quen hay
không quen của chúng ta, nhưng vì tâm từ, vì họ mà làm những
việc từ thiện để hồi hướng cho họ được nương vào phước lành
đó mà vượt thoát khỏi ba đường ác.
Việc tránh ác, làm thiện và giữ giới của mỗi cá
nhân và của số đông, hợp với sức mạnh gia hộ của thanh tịnh
đại hải chúng Bồ Tát, của chư Phật và các vị thiện thần có
thể đem lại kết quả, đạt được mục đích cầu an như ý lực mong
muốn. Sự gia hộ mà trong kinh sách thường nói đến như là một
tha lực, là điều rất khó giải thích, chỉ có thể cảm nhận
được bằng kinh nghiệm bản thân.
Chú Thích:
(33) HT. Thích Minh Châu, Kinh Tương Ưng Bộ Tập
IV Thiên 6 xứ Ch.8 Đoạn 6
(35) HT. Thích Minh Châu, Kinh Trung Bộ,
Angulimala Sutta, kinh thứ 86
.
http://www.thuvienhoasen.org/u-trung86.htm
(36) Suzuki - TT. Thích Tuệ Sỹ, Thiền và Bát
Nhã, Viện CĐPH Hải Đức, 2004.
(37) Quách Tấn, Xứ Trầm hương. Hội Văn học
nghệ thuật Khánh Hòa tái bản 2003.
(38) HT. Thích Minh Châu, Kinh Tiểu Bộ Tập I
Kinh Tập, (I) Kinh Châu Báu (Ratana Sutta) (Sn 39)
Bản dịch Việt:
07-10-2008 04:12:34