BÌNH GIẢI 13 CHƯỚNG NGẠI
SỰ TU TẬP CỦA NGƯỜI XUẤT GIA
HT. Thích Giác Quả
---o0o---
Trong quyển 48 của “Chánh pháp Niệm Xứ”
ghi mười ba việc chướng ngại cho sự tu tập đối với hàng
xuất gia như sau:
1- Nói nhiều.
2- Chữa bệnh.
3- Hội họa.
4- Đờn ca xướng hát, làm thơ ngâm vịnh.
5- Chiêm tinh (Xem thiên văn).
6- Đoán điềm triệu (Bói toán).
7- Tham ăn ngon.
8- Thích của báu (vàng bạc, ngọc ngà, đồ cổ
v.v…).
9- Thân cận quyền quí.
10- Hy vọng đđược mời, thỉnh.
11- Không cầu học Chánh pháp.
12- Xã giao rộng.
13- Ở chung với người xấu.
Dưới đây, chúng tôi sẽ lần lượt giải bình vắn
tắt các điểm ấy.
1- NÓI NHIỀU
Là diễn bày bằng lời nói mọi sự
việc phát xuất từ ba phạm vi được thấy, được nghe và được
suy nghĩ.
Theo giáo lý Nghiệp, hiện tượng nói nhiều thuộc
về Tập quán nghiệp. Tức là người có thói quen thích nói, nói
nhiều.
Thế thì, tại sao “nói nhiều” lại gây chướng ngại
cho người xuất gia?
- Theo kinh nghiệm nhân gian, người nói nhiều
thì sai lầm nhiều (đa ngôn đa quá).
- Theo Thiền Sư Đại Viên: “Người xuất gia là
muốn vượt đến phương trời siêu thoát, tâm niệm và hình tướng
khác với người thế tục, nối tiếp làm hưng thịnh dòng giống
của Phật, gây rúng động về nhiếp phục ma quân, để đền đáp
bốn ơn, cứu giúp ba cõi” (phù xuất gia giả, phát túc siêu
phương, tâm hình dị tục, thiệu long Thánh chủng, chấn nhiếp
ma quân, dụng báo tứ ân, bạt tế tam hữu) (1).
Nếu người xuất gia không lập hạnh như thế, mà
lại:
-
“Ăn rồi, xúm đầu chuyện trò náo nhiệt, chỉ nói toàn những
chuyện bậy bạ của thế gian” (Khiết liễu tụ đầu huyên huyên,
đản thuyết nhân gian tạp thoại) (2).
Những người này thì Thiền Sư gọi là:
-
“Người xuất gia nếu không lập hạnh như vậy, tức là Ma - Quỷ
trà trộn vào hàng ngũ chúng Tăng. Lời nói và việc làm sơ
suất, trống rỗng; thọ hưởng uổng phí phẩm vật của tín đồ;
lối đi năm cũ không thay đổi một tấc, một bước; quờ quạng
một đời, lấy gì nương tựa!”.
(Nhược bất như thử, lạm xí tăng luân, ngôn hạnh hoang sơ, hư
triêm tín thí, tích niên hành xứ, thốn bộ bất di, hoảng hốt
nhất sanh, tương hà bằng thị!) (3).
Thế nên, về nói phô, người xuất gia phải vận
dụng mọi cách để đạt được Chánh ngữ hữu lậu, kế đến thành
tựu viên mãn Chánh ngữ vô lậu. Đây là cứu cánh về sự nói phô
của hàng xuất gia. Cần nói thêm rằng, phản nghĩa của Chánh
ngữ là tà ngữ. Nội dung của tà ngữ rất phong phú, giả như,
một người nói đúng Pháp, đúng Luật; nhưng phát xuất từ tâm
niệm vì danh, vì lợi; hoặc nói không đúng thời, không đúng
chỗ v.v… cũng vẫn nằm trong nội dung của tà ngữ.
2- CHỮA BỆNH
Là khám xét rồi dùng thuốc Nam, thuốc Bắc, thuốc
Tây hay các phương tiện khác như Nhân điện v.v…để trị các
bệnh về tâm - sinh lý cho bệnh nhân.
“Chữa bệnh” là một thiện pháp, tại sao lại bảo
gây chướng ngại cho người xuất gia?
- Đúng thế, chữa bệnh (Y phương minh) là một
việc thiện được
Đức-Thế-Tôn
cho phép hàng xuất gia thực hành. Hơn thế nữa, Ngài còn cho
phép sử dụng ngôn ngữ văn chương (Thanh minh), công nghệ kỹ
thuật (Công xảo minh) và lý luận học (Nhân minh) để đem lợi
lạc đến cho nhân quần xã hội. Tuy nhiên, người được phép sử
dụng bốn phương tiện này phải là người có sở kiến, sở tu, sở
chứng về Kinh, Luật và Luận (Nội minh). Tức là người có kiến
giải chân xác sâu sắc về Tam tạng giáo điển, đã tinh tấn
hành trì nghiêm túc Giới-Định-Tuệ và đã ngộ đạo chứng quả.
Nói cách khác, người được phép thực hành bốn phương tiện
trên là người đã làm chủ được tâm ý của mình, không còn bị
những ô-uế của thế tục xâm nhiễm. Và đây chính là sự phát
tâm thực hiện hạnh Bồ-tát của vị ấy để tăng trưởng hai đức
tính Bi - Trí, nhằm chứng những đạo quả cao hơn của sự giải
thoát.
Điều kiện người xuất gia được sử dụng Thanh-minh,
Công-xảo-minh,
Nhân-minh
và Y-
phương-minh
phải là như thế, nên
Đức-Thế-Tôn
mới chế Luật để ngăn ngừa các Tỷ-kheo phàm phu tự tiện làm
quấy, như giới thứ 82 của Ba-dật-đề (4) v.v…
Do vậy, một Tỷ-kheo phàm phu làm nghề thầy thuốc
(chữa bệnh) được xem là việc tồi tệ, thấp hèn, thường bị các
Tỷ-kheo khác khinh bỉ. Tuy nhiên, đức Thế Tôn không cho phép
một Tỷ-kheo mà khởi vọng tâm như thế. Điều này được ghi ở
Kính pháp thứ ba, điểm “Nêu tội”, rằng: “Tỷ-kheo ni không
được nói tội Tỷ-kheo… nói rằng: Tỷ-kheo thầy thuốc… Tỷ-kheo
lẩm cẩm” (5).
3- HỘI HỌA
Là dùng các dụng cụ chuyên môn để vẽ các hình
ảnh về người, về cầm thú hay về phong cảnh. Nghệ thuật viết
chữ (thư pháp) cũng thuộc ngành hội hoạ này.
“Hội hoạ” là hoa hương làm cuộc sống con người
thêm tươi đẹp, tại sao lại bảo gây chướng ngại cho sự tu tập?
- Người làm nghề hội hoạ (họa sĩ), thứ nhất là
phát xuất từ lòng đam mê nghệ thuật, thứ đến là vì kinh tế.
Hai lý do này là tâm lý của người thế tục, không liên quan
đến nội dung sinh hoạt của người xuất gia. Với người xuất
gia thì họ thấy biết rõ rằng, tâm lý đam mê (tham ái) là
nguồn gốc của tội lỗi và đau khổ, cần phải được chế ngự và
đoạn tận. Còn kinh tế (tiền của) thì không quan trọng để
phải lao tâm khổ tứ; bởi lẽ, căn bản đời sống của người xuất
gia là một kẻ ăn xin (khất sĩ) với tư tưởng thiểu dục tri
túc. Vật chất chỉ là phương tiện tối thiểu nhằm trợ duyên
cho thân thể vật lý khỏi bị bệnh tật, gầy yếu để tấn tu đạo
nghiệp. Do thế,
Chư
Phật,
Chư
Tổ đều răn dạy hàng xuất gia không được học nghề hội họa,
chẳng
hạn:
-
“Không được học tập thi từ. Không được để tâm tập chữ cho
đẹp v.v…"(6)
4- ĐỜN CA XƯỚNG HÁT, LÀM THƠ NGÂM VỊNH
Là những sinh hoạt của giới nhạc sĩ, ca sĩ, nghệ
sĩ, thi sĩ, và các giới văn nghệ nghiệp dư, phong trào.
“Văn nghệ” là nghệ thuật làm thư dãn tâm - sinh
lý giúp con người thoải mái, tươi vui. Tại sao đạo Phật lại
bảo văn nghệ làm chướng ngại cho sự tu tập?
- Văn nghệ phát xuất từ tâm lý thế tục mang tính
ô-uế, tham ái (tìm cầu lạc thọ). Tham ái là một trong ba độc
tố (Tam độc) dẫn dắt con người trôi lăn trong sanh tử khổ
đau. Là người xuất gia, bằng mọi giá phải chế phục và đoạn
tận không chỉ tham ái mà cả sân nhuế lẫn si mê. Bởi lẽ, ngày
nào còn chất liệu của Tam độc thì ngày ấy vẫn còn khổ đđau,
bất an. Chính thế và vì thế, trong Kinh - Luật ghi lại rất
nhiều về lời
Đức-Thế-Tôn
ngăn cấm hàng xuất gia (kể cả tại gia) thực hành các trò văn
nghệ ấy.
Chẳng hạn, khi thọ Sa-di, người Sa-di phải giữ
giới thứ 7:
-
“Không được ca, vũ, hoà tấu, biểu diễn hay đi xem nghe” (Bất
ca vũ xướng kỹ, bất vãng quan thính) (7).
Còn Sa-di ni thì giữ giới thứ 8:
- “Không được ca, múa, tấu nhạc” (Bất ca vũ âm
nhạc giới.) (8)
Hoặc Tỷ-kheo ni thì giữ thêm giới thứ 79 của
Ba-dật-đề (9), người thọ giới Bồ-tát thì giữ thêm giới thứ
33 (10).
Và ngay đối với Kinh điển người xuất gia cũng
không được sử dụng sai mục đích, như:
- “Không được chọn Kinh ứng phó đạo tràng mà học
tập… Không được học tập cách xướng Kinh, họa Kệ v.v…”(11)
Về Kinh, nếu cần tham khảo thêm thì hãy đọc Tạp
A-hàm và Tương Ưng Bộ Kinh v.v…
5 & 6- CHIÊM TINH (xem thiên văn), ĐOÁN ĐIỀM
TRIỆU (bói toán)
Xem thiên văn và bói toán có cùng một mục đích
là tìm hiểu các sự kiện tốt hay xấu, chỉ khác nhau ở điểm,
thiên văn thì tìm hiểu những hiện tượng thiên nhiên như nắng
- mưa, bão - lụt v.v… Còn bói toán lại tìm hiểu mọi phương
diện tương quan đến đời sống con người như sức khoẻ, danh
vọng, mồ mả v.v… Do vậy, chúng tôi hợp lại để cùng giải và
bình một lượt.
“Xem thiên văn” và “bói toán” sẽ giúp con người
biết được những sự việc tốt - xấu xảy ra chung quanh cuộc
sống của mình, đó là một điều tốt, tại sao đạo Phật lại bảo
sẽ gây chướng ngại cho sự tu tập của người xuất gia?
- Cách nuôi sống của người xuất gia, hẳn phải là
chân chánh (Chánh mạng) được xây dựng trên lập trường thiểu
dục tri túc qua thực hành hạnh trì bình khất thực. Đó là
nhân duyên thuận lợi nhất cho sự tu tập tiến về giác ngộ
giải thoát. Ngược lại, nếu người xuất gia làm những nghề mà
Giới - Luật ngăn cấm để sinh sống là rơi vào đời sống tại
gia, tà mạng, đi vào con đường sanh tử, khổ đau.
Cuộc sống tà mạng ấy cố bốn thứ
(12):
1- Hạ khẩu thực: Làm nghề nông hay nghề thầy
thuốc để kiếm sống.
2- Ngưỡng khẩu thực: Làm nghề thuật số, ngước
lên trời xem tinh tú, mặt trời, mặt trăng, xem gió, mưa, sấm,
chớp để cầu cơm ăn áo mặc.
3- Phương khẩu thực: Luồn cúi nịnh bợ những nhà
quyền thế, giàu có để được họ sai làm việc này việc nọ, múa
mép ba hoa để mà sinh sống.
4- Duy khẩu thực: Duy là tứ duy (Bốn phương
trời), chỉ các Tỷ-kheo học các chú thuật, bói toán lành dữ
để cầu cơm áo mà sinh sống.
Trong các bộ Luật, chúng ta thấy
Đức-Thế-Tôn
đã chế nhiều giới để ngăn cấm người xuất gia chọn cách nuôi
sống theo các việc tà mạng, chẳng hạn:
“…Không được học tập Kinh điển ngụy tạo.
Không được học tập sách coi số, sách coi tướng, sách thuốc,
sách quân sự, sách bói, sách thiên văn, sách địa lý, sách
sấm truyền, cho đến những sách luyện đan, thần kỳ quỷ quái,
phù thuỷ v.v…”(13)
Hoặc trong Luật Tỷ-kheo có các giới số 117, 118,
169 và 170 v.v…(14).
Về giới Bồ tát thì có:
- “Giới 29: Không được sống bằng tà mạng".
Phật tử nếu vì độc ác và vụ lợi mà buôn bán dâm
nam, dâm nữ… Coi tướng nam nữ, đoán mộng tốt xấu, đoán thai
trai gái, làm các chú thuật, xảo thuật… Nếu cố ý làm thì
phạm tội khinh cấu.
- Giới 33: Không được tà tâm làm quấy.
Phật tử thì không được bằng tâm lý đen tối mà
xem sự đấu sức của nam nữ, của quân trận…
"Không
được xem nghe ca vũ, không được cờ bạc, không được bói toán,
không được làm liên lạc cho đạo tặc… Nếu cố ý làm thì phạm
tội khinh cấu".(15)
7- THAM ĂN NGON
Là tham cầu, thích thú ăn uống các thực phẩm hợp với bản
năng, hợp với khẩu vị.
“Tham ăn uống vị ngon món lạ” sẽ có nhiều chất
dinh dưỡng tốt cho cơ thể, tại sao đạo Phật lại bảo gây
chướng ngại cho sự tu tập?
- Theo quan niệm nhân gian:
“Ăn để sống, chứ không phải sống để ăn”,
cho
nên người nào tham ăn uống, thì đó là một thói xấu, đánh mất
một phần phẩm chất con người.
Vậy, theo quan điểm của đạo Phật thì thế nào?
- Thứ nhất:
tham ăn uống là thuộc phạm vi thế tục; bởi lẽ, nghĩa thấp
nhất của từ “xuất gia” là xuất thế tục gia. Một người xuất
gia mà tham ăn uống, trên nghĩa này, là đã “hoàn gia”. Tức
là đang sống cách sống của thế tục, đang bị trói buộc, nô lệ
bởi ngũ dục lạc (tài, sắc, danh, thực và thụy).
- Thứ hai:
tham ăn uống là vi bội tiêu chuẩn hay lập trường cách nuôi
sống của người xuất gia. Người xuất gia là “xả phú cầu bần,
xả thân cầu đạo”, luôn vận hành và an trú hỷ lạc trên tư
tưởng thiểu dục tri túc, Chánh nghiệp và Chánh mạng, để làm
nền tảng nhằm tấn tu thành tựu Chánh định và Chánh tuệ.
-
Thứ ba:
người xuất gia mà tham ăn uống là vi phạm Giới-luật đã thọ.
Thời
Đức-Thế-Tôn
tại thế, tại Ấn Độ về tám món:
tô,
dầu, mật, đường, sữa, lạc, cá và thịt, được xem là những món
ăn uống cao cấp vừa ngon vừa bổ dưỡng. Đức-Thế-Tôn
chế định rằng:
- "Nếu
Tỷ-kheo không bệnh mà đòi ăn uống các món ấy là phạm Hối quá
(Ba-la-đề đề-xá-ni) (16).
Thậm chí, ăn phi thời hay ăn đồ ăn cách đêm cũng
phạm Ba-dật-đề (giới 37, 38) (17).
Ngoài ra, những việc liên quan đến ăn uống, đức Thế Tôn cũng
chế định đến 36 điều (18),
trong đó có 11 giới của Ba-dật-đề, 4 giới của Ba-la-đề
đề-xá-ni và 12 điều của Pháp phải học.
Nơi đây, chúng tôi cần nói thêm một ý nhỏ rằng,
Tăng già thời
Đức-Thế-Tôn,
cách nuôi sống hoàn toàn tuân theo hạnh tu “trì bình khất
thực” và một ngày chỉ ăn một bữa (ngọ trai). Món ăn là “tuỳ
thí tuỳ thực” (cho gì ăn đó), không nhất thiết phải ăn chay
hay mặn. Riêng về món ăn mặn (cá, thịt) cần phải hội đủ ba
yếu tố (Tam tịnh nhục) thì được ăn mà không phạm giới. Ba
yếu tố đó là (19):
1- Kiến: Không thấy con vật bị giết và không
phải bị giết vì mình.
2- Văn: Không nghe tiếng đau đớn của con vật bị
giết và không phải bị giết vì mình.
3- Nghi: Không nghi ngờ người ta giết con vật vì
mình.
Hiện giờ, hệ phái Nam tông vẫn duy trì vấn đề ăn
mặn. Nhưng, phải chăng vẫn trung thực với tinh thần “tuỳ thí
tuỳ thực” như thời kỳ nguyên thuỷ?
Tuy nhiên, theo Phật giáo Bắc tông, ăn thịt cá
là tổn hại tâm từ bi. Đức-Thế-Tôn
khai ba thứ tịnh nhục chỉ là
"quyền
biến",
chứ nguyên tắc của Kinh - Luật Bắc tông là cấm chỉ vấn đề ăn
thịt cá. Điều này đã được ghi trong Tứ phần luật, quyển 42;
Thập tụng luật, quyển 37; Thủ Lăng Nghiêm nghĩa sớ chú kinh,
quyển 9; Phạm Võng kinh yếu giải, quyển 5; Niết Bàn kinh,
quyển 4 v.v…(20).
8-
THÍCH CỦA BÁO
Là yêu thích, tham cầu những vật dụng quý hiếm rất có giá
trị trên thị trường, như vàng - bạc, ngọc - ngà, đồ cổ v.v…
Tại sao “thích của báu” lại gây chướng ngại cho
sự tu tập của người xuất gia?
- Ở các điểm trên, chúng tôi giới thiệu nhiều
lần về lập trường sinh sống của người xuất gia mà Đức-Thế-Tôn
đã chế định,đó là lập trường “Thiểu dục tri túc” hay “Tam
thường bất túc”.
Do vậy, người xuất gia mà ham thích của báu là đi ngược lại
hướng sống của đạo Phật. Để trợ duyên hàng đệ tử xuất gia đi
đúng hướng,
Đức-Thế-Tôn
đã chế nhiều giới để ngăn cấm sự liên hệ đến của cải, vàng
bạc. Chẳng hạn, Sa-di thì phải:
-
“Mười là không được nắm giữ vàng bạc, bảo vật (Thập viết bất
tróc trì sanh tượng kim ngân, bảo vật). Còn Sa-di-ni
thì:
-
“Giới thứ chín là không được nắm giữ vàng ngọc” (Đệ cửu bất
tróc trì kim bảo giới) (21).
Với Tỷ-kheo thì phải giữ thêm giới 18, 19 thuộc Ni-tát-kỳ
Ba-dật-đề và giới 82 thuộc Ba-dật-đề (22).
Tỷ-kheo ni thì phải giữ thêm giới 9, 10 thuộc Xả-đoạ và giới
66 thuộc Đoạ (23).
Về giới Bồ tát, thì giới 17 dạy rằng:
-
“Không được ỷ thế ham cầu”. Tức là, “Phật tử nếu tự mình vì
đồ ăn… vì tiền của… thân cận với quốc vương… rồi ỷ thế làm
oai… chiếm đoạt tiền tài, sản vật của người… thì phạm tội
khinh cấu".
(24).
9 & 12-THÂN CẬN QUYỀN QUÝ và XÃ GIAO RỘNG
Điểm 9, là cố tình thân thiện với những người có
quyền lực, những người cao sang, giàu có. Điểm 12, là cố
tình quan hệ với mọi người đủ các giai cấp trong xã hội. Hai
điểm này được hợp lại bởi có điểm chung, là “cố tình làm
thân với người khác”.
“Thân cận quyền quý, xã giao rộng” tại sao lại
gây chướng ngại cho sự tu tập?
- Bổn phận người xuất gia là hành trì
Giới-Định-Tuệ để chế ngự và đoạn tận tham-sân-si nhằm chứng
đạt quả vị giải thoát tối hậu là quả Phật-đà. Điểm 9 và 12
chẳng liên quan gì đến nội dung tu tập của một hành giả.
Trên sự thật, việc thân cận với các nhà quyền quý, không vì
lợi thì cũng vì danh, vấn đề xã giao rộng cũng tương tự như
thế.
Chính hai điểm này gây chướng ngại cho sự tu tập,
nên
Đức-Thế-Tôn
đã chế các giới để ngăn cấm hàng xuất gia thực hành việc ấy.
Như giới Ba-dật-đề thứ 84, 85 (25)
và 99 (26),
hay giới thứ 17 của Bồ-tát.v.v…(27)
10- HY VỌNG ĐƯỢC MỜI, THỈNH
Là ao ước, trông mong được cá nhân hay tập thể
mời hoặc thỉnh. Như, ngày xưa là được tín đồ mời ngọ trai,
hay được Yết-ma cử đi giáo giới Ni. Ngày nay thì trông mong
được mời rất nhiều việc, như mời Ứng phó đạo tràng, mời trai
Tăng, mời làm Giáo thọ sư, mời vào Ban Trị Sự, mời làm Trú
trì, mời tham quan, mời xuất ngoại v.v…
Tại sao “hy vọng được mời, thỉnh” lại chướng
ngại sự tu tập?.
Bởi lẽ:
- Thứ
nhất
:
tâm trông mong được mời, thỉnh là vọng tâm, là tâm hướng
ngoại;
- Thứ
hai
:
vì vọng tâm nên dù được mời thỉnh tham dự những việc chân
chính đi nữa, thì việc ấy cũng trở thành “Ma sự” (Vong thất
Bồ đề tâm, tu chư thiện pháp, thị danh ma nghiệp)
(28).
11- KHÔNG CẦN HỌC CHÁNH PHÁP
Là không có tâm mong cầu học hỏi Kinh, Luật và
Luận, là Chánh pháp được
Đức-Thế-Tôn
và
Chư
Thánh Tăng chỉ dạy.
Tại sao “không cầu học Chánh pháp” là chướng
ngại sự tu tập?
- Nói đơn giản, người xuất gia gọi nôm na là
người đi tu. Nghĩa của từ “Tu” là sửa đổi, sửa chữa. Vậy
người đi tu sửa chữa cái gì? - Là sửa chữa cái tâm ý tại gia
(uế trược) trở thành cái tâm ý xuất gia (thanh tịnh). Vậy
nương vào cái gì để sửa chữa? - Nương vào Giới-Định-Tuệ (Chánh
pháp) để sửa chữa. Cho nên, tu tập mà không học hỏi Chánh
pháp gọi là “Tu mù”.
Vì thế, Đức-Thế-Tôn đã chế nhiều giới để sách
tấn những người xuất gia mà xem thường việc học tập Chánh
pháp. Chẳng hạn, như giới Ba-dật-đề số 71, 72, của Tỷ-kheo
(29),
giới Ba-dật-đề số 56, 130, 131 của Tỷ-kheo ni
(30),
hay như giới Khinh số 6, 7, 22, 44 và 114 của Bồ tát giới
(31).
Về Kinh, thì có nhiều Kinh
Đức-Thế-Tôn
dạy về vấn đề này. Như kinh Cầu Pháp (Trung A-hàm), kinh
Thừa Tự Pháp (Trung Bộ Kinh), trong đó Ngài dạy các Tỷ-kheo
rằng:
-
“Các thầy hãy thừa tự pháp, chứ đừng là những người thừa tự
ẩm thực”.
Hoặc như kinh A-lê -tra (Arittha – Trung A-hàm), kinh Ví Dụ
Con Rắn (Trung Bộ Kinh), Ngài lại dạy hàng Tỷ-kheo về phương
pháp học tập. Đó là, người học Phật pháp phải thông qua tiến
trình “Văn-Tư-Tu” một cách niêm mật để thành thục Chánh pháp
đã được học, nếu không như vậy, thì sẽ rơi vào kiến chấp để
đón nhận những phiền luỵ, khổ đau. Không nghiêm túc, thiện
xảo học tập Chánh pháp thì tương tợ như kẻ bắt rắn ở đuôi,
sẽ bị rắn cắn hoặc bị khổ sở hay bị tử thương.
Hiện nay, Tăng - Ni, Phật tử có thiện duyên lớn,
nên đa phần đều được học Phật pháp. Nhưng thái độ học thuộc
loại nào dưới đây?
- Thứ nhất, “không nghe nên
không nghe”: Là những người đến đạo tràng để nghe Pháp mà
ngủ gà ngủ gật, không nghe tiếng, không nghe Pháp mà tâm
cũng không nghe.
- Thứ hai, “nghe mà không nghe”:
Chỉ nghe âm thanh chứ không nghe Pháp, nghe tiếng nói đạo lý
của tâm.
- Thứ ba, “nghe mà nghe”: Tức vừa
nghe rõ ràng từng tiếng, vừa nghe Pháp, lại vừa hội lĩnh sâu
sắc đạo lý của Pháp. Đây là cách nghe trọn vẹn nhất.
- Thứ tư, “không nghe mà nghe”:
Không nghe âm thanh mà chỉ nghe tiếng nói của tâm.
13- Ở CHUNG VỚI NGƯỜI XẤU
Người xấu tại đây là chỉ những người xuất gia;
bởi lẽ, người xuất gia thì không được phép sống chung với
người tại gia. Do vậy, nghĩa của câu ấy là sống chung, sinh
hoạt chung với những người đồng tu cùng một chùa, cùng một
tổ chức (trường lớp, ban ngành), mà tâm ý của những người ấy
chứa chất nhiều mùi vị thế tục.
Tại sao “ở chung với các đạo bạn xấu ác” lại gây
chướng ngại cho sự tu tập?
Trong câu hỏi đã hiển lộ khá rõ đáp án rồi; vì
lẽ, ai cũng biết “gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Đại để,
căn cứ bốn loại xuất gia (Tứ loại xuất gia), thì người xuất
gia được gọi là xấu ác là loại “thân xuất gia mà tâm không
xuất gia”. Nếu căn cứ vào bốn hạng Tỷ-kheo, thì Tỷ-kheo xấu
ác là hạng “nội thân có cấu uế mà không biết như thật mình
có cấu uế” (32).
Thời
Đức-Thế-Tôn
tại thế, thành phần người xuất gia xấu ác rất tối thiểu, về
hàng Tỷ-kheo thì có nhóm “Lục quần Tỷ-kheo”, gồm Xiển-đà,
Ca-lưu-đà-di, Tam-văn-đạt-đa, Ma-kê-sa-đạt-đa, Mã-sư,
Mãn-túc; và nhóm “Thập thất quần Tỷ-kheo”, là 17 người bạn
thân của nhau, lớn nhất là 17 tuổi, nhỏ nhất là 12 tuổi,
đứng đầu là Upli. Về hàng Tỷ-kheo ni thì có nhóm “Lục quần
Tỷ-kheo ni”, gồm Thâu-la-nan-đà, Sai-ma, Uỷ-thứ, Tô-ma,
Bà-phả-di và Di-đa-la (33).
Bây giờ là thời đại Mạt-pháp, đã mạt trên một
ngàn năm; vì thế, thành phần xấu ác trong hàng xuất gia hẳn
nhiên chiếm đa phần. Tuy vậy, phải thấy như thật rằng, Phật
pháp suy mạt là trách nhiệm của mỗi người xuất gia, như
“Phạm Võng kinh, Bồ tát giới bổn” đã xác chứng:
-
“Như con sâu trong thân Sư tử ăn thịt Sư tử, chứ không
phải con sâu bên ngoài: Chính những kẻ Phật tử tự phá hoại
Phật pháp, chứ không phải ngoại đạo, quỷ thần mà phá được.”
(Như
Sư tử thân trung trùng, tự thực Sư tử nhục, phi dư ngoại
trùng. Như thị Phật tử tự phá Phật pháp, phi ngoại đạo thiên
quỷ năng phá).
Tóm lại, mười ba điểm mà “Chánh pháp Xứ Niệm”
giới thiệu, chỉ là các điểm tiêu biểu tối thiểu. Trên thực
tế, trong đời sống của người xuất gia có vô số việc gây
chướng ngại cho sự tu tập. Đại để, bất cứ hành động gì của
người xuất gia mà thiếu tỉnh giác, thì chính hành động ấy
làm chướng ngại cho sự tu tập của đương sự. Thế nên, để sự
tu tập được thuận duyên, thì tối thiểu, người xuất gia phải
sống trên lập trường thiểu dục tri túc và luôn có tâm niệm
tàm quý. Nếu nói đủ, thì phải hoàn thiện ba yếu tố, là Chánh
kiến, Trì giới và hành Oai nghi.
Tỳ kheo Thích Giác
Quả
Chú thích:
1- Văn Cảnh Sách.
2- Văn Cảnh Sách.
3- Văn Cảnh Sách.
4- Xem Ma-ha Tăng kỳ luật - Tập IV – TT. Thích
Phước Sơn dịch – 2003 (Vì đức Thế Tôn dạy rằng, chỉ có
Tỷ-kheo mới được đọc giới Tỷ-kheo, nên người viết không dám
ghi cụ thể).
5- Ma-ha Tăng kỳ luật - Tập IV – TT. Thích Phước
Sơn dịch – 2003.
6- Sa-di giới v Sa-di ni giới - Tập II - Phần
phụ oai nghi thứ 8 – HT. Trí Quang dịch.
7- Sa-di giới Sa-di ni giới - Tập I – HT.Trí
Quang dịch.
8- Sa-di giới Sa-di ni giới - Tập I – HT.Trí
Quang dịch.
9- Xem Tỷ-kheo ni giới – HT. Trí Quang dịch.
10- Xem Bồ-tát giới – HT. Trí Quang dịch.
11- Sa-di giới và Sa-di ni giới - Tập II - Phần
phụ oai nghi thứ 8 – HT. Trí Quang dịch.
12- Từ điển Phật học Hán - Việt – NXB Khoa học X
hội H Nội, 1998.
13- Sa-di giới và Sa-di ni giới - phụ oai nghi
thứ 8 - Tập II – HT. Trí Quang dịch.
14- Xem Tỷ-kheo ni giới – Thiên Ba-dật-đề - HT.
Trí Quang dịch.
15- Bồ tát giới – HT. Trí Quang dịch.
16-
Xem 8 giới Ba-la-đề-đề-xá-ni của Tỷ-kheo ni giới – HT. Trí
Quang dịch.
17- Xem Tỷ-kheo giới – HT. Trí Quang dịch.
18- Xem Tỷ-kheo giới – HT. Trí Quang dịch.
19- Thập tụng luật, quyển 37.
20- Theo Từ điển Phật học Hán - Việt – NXB Khoa
học Xã hội Hà Nội, 1998.
21- Sa-di giới v Sa-di ni giới, tập I – HT. Trí
Quang dịch.
22- Xem Tỷ-kheo giới – HT. Trí Quang dịch.
23- Xem Tỷ-kheo ni giới – HT. Trí Quang dịch.
24- Bồ tát giới – HT. Trí Quang dịch.
25- Xem Ma-ha Tăng kỳ luật, tập IV, TT. Thích
Phước Sơn dịch.
26- Xem Tỷ-kheo ni giới – HT. Trí Quang dịch.
27- Bồ tt giới – HT. Trí Quang dịch.
28- Kinh Hoa Nghiêm.
29- Xem Tỷ-kheo giới – HT. Trí Quang dịch.
30- Xem Tỷ-kheo giới ni – HT. Trí Quang dịch.
31- Bồ tát giới – HT. Trí Quang dịch.
33- Kinh Uế Phẩm – Trung A-hm.
34- Theo Ma-ha Tăng kỳ luật.
Người gửi bài: Tâm Minh
07-1-2008 12:23:12