NGHIỆP - HẠNH PHÚC - TÂM
His Holiness the Dalai Lama
Tuệ Uyển Việt dịch
---o0o---
Hàng tỉ năm trôi qua giữa thời khởi thỉ của thế
giới này và khi sự sống lần đầu tiên xuất hiện trên mặt đất
Sau đấy là khoảng thời gian dài lâu để cho sự sống hình
thành trở nên trưởng thành trong suy tư- trong sự phát triển
và hoàn thiện năng lực tuệ trí của chúng; và ngay cả từ
trong thời gian loài người đạt đến sự trưởng thành như hiện
tại, hàng nhiều nghìn năm đã trôi qua. Xuyên qua thời gian
bao la này thế giới đã chịu đựng những sự đổi thay không
ngớt, để nó có thể ở trong trạng thái tiếp diễn liên tục.
Ngay cả hiện tại, thuyết tương đối phát sinh gần đây cho
biết điều xuất hiện trong thời gian ngắn duy trì tĩnh tại
được thấy đã trãi qua sự thay đổi trong từng khoảnh khắc.
Người ta có thể tự hỏi điều gì đã được duy trì không thay
đổi khi mà mỗi loại vật chất và hiện tượng tâm linh dường
như là chủ thể lúc nào cũng thế cho chương trình chuyển biến,
của tính thay đổi. Tất cả những thứ ấy là mãi mãi khởi sinh,
phát triển và biến mất.
Trong cơn lốc của tất cả những sự thay đổi này, có một Sự
Thật đơn độc duy trì liên tục và không thay đổi được-trong
ngôn ngữ khác, đấy là, Sự Thật Chính đáng thì đi kèm với kết
quả lợi ích, và sự thật của những hành động xấu ác thì đi
kèm với kết quả tổn hại. Một nhân lành sẽ sinh quả lành, một
nhân xấu sẽ sinh quả xấu. Tốt hay xấu, lợi ích hay tổn hại,
mỗi kết quả tất yếu phải có một nhân. Nguyên tắc độc hành
này là vĩnh cữu, không thay đổi và liên tục. Điều này là một
sự thật đã hiện hữu lâu xa trước khi một người bước vào thế
giới này, trong thời điểm bình minh của sự hiện diện của
người ấy, trong thời gian hiện tại, và nó sẽ tiếp tục theo
đuổi với thời gian tương lai vô cùng tận.
Tất cả chúng ta khao khát hạnh phúc và né tránh
khổ đau cùng bất cứ thứ gì không hài lòng.Như chúng ta đã
biết, niềm vui thích và đớn đau sinh khởi từ một nguyên nhân.
Không kể là những hậu quả hiển nhiên nào đấy là do một
nguyên nhân hay bởi nhiều nguyên nhân đã được quyết định bởi
bản chất tự nhiên của hậu quả ấy. Trong vài trường hợp,
ngay cả nếu những nhân tố nguyên nhân không quá mạnh cũng
không quá áp đảo, nó vẫn có thể làm cho nhân tố kết quả xãy
ra. Bất cứ phẩm chất của nhân tố kết quả như thế nào, hoặc
là chúng tốt hay xấu, sự to lớn và cường độ của chúng tương
ứng một cách trực tiếp với số lượng và mãnh lực của nhân tố
nguyên nhân. Vì vậy, để thành công trong việc tránh những
điều khổ đau không mong đợi và gặt hái được những niềm vui
thích khát khao, vấn đề này tự nó không phải nhỏ, đấy là sự
từ bỏ một khối lượng lớn những thu thập nhân tố nguyên nhân
được yêu cầu.
Trong sự phân tích bản chất tự nhiên và trạng
thái của hạnh phúc, nó được biểu hiện rõ ràng qua hai phương
diện. Một là niềm vui tức thời (tạm thời); và thứ hai là
niềm vui tương lai (cơ bản). Niềm vui tạm thời bao gồm sự
nhàn hạ và thích thú , là những điều con người ao ước như
nơi cư trú tốt, vật dụng đáng yêu, thức ăn ngon miệng, hợp
tác tốt đẹp, đối thoại vui lòng, v.v và v.v... Nói một cách
khác, sự thoả mãn tạm thời là những điều mà con người vui
thích trong đời sống này. Câu hỏi là không biết sự hưởng thụ
của những hoan lạc và thỏa lòng này có nhận được một cách
trong sạch từ những (nhân tố) nhu cầu ngoại tại được thể
nghiệm trong ánh sáng của luận lý lôgic rõ ràng không. Nếu
nhân tố ngoại tại chịu trách nhiệm một mình để cho hưng khởi
những cảm hứng khoái lạc như vậy, một người sẽ vui sướng khi
những điều này hiện diện, và ngược lại họ sẽ buồn phiền khi
chúng vắng mặt. Tuy nhiên, điều này không phải như vậy. Bởi
vì, ngay cả trong khi vắng mặt những điều kiện ngoại tại đưa
đến sự khoái cảm, một người vẫn có thể vui vẻ và yên bình.
Điều này chứng minh rằng, những nhân tố ngoại tại không chịu
trách nhiệm một mình nó cho sự kích thích hạnh phúc con
người. Có đúng là những nhân tố ngoại tại duy nhất chịu
trách nhiệm hay chúng là toàn bộ điều kiện để cho sự hưng
khởi của hoan lạc và hạnh phúc không, nếu vậy một người sở
hữu một sự giàu có những nhân tố này sẽ có một sự hỉ lạc
hạn chế. điều này không luôn luôn có nghĩa như vậy. Điều
đúng là những nhân tố ngoại tại này thật sự công hiến một
phần để tạo nên sự hoan lạc trong đời sống con người. Tuy
vậy, nếu tuyên bố rằng những nhân tố ngoại tại là tất cả,
là cần thiết và vì vậy là nguyên nhân độc nhất của hạnh phúc
trong khoảng thời gian ngắn ngủi của đời sống con người là
phát biểu trì trệ và phi lý. Nó có nghĩa không chắc chắn là
sự hiện diện của những nhân tố ngoại tại như vậy sẽ tạo nên
sự vui thích. Trên phương diện ngược lại, căn cứ trên những
gì xãy ra như kinh nghiệm của hạnh phúc to lớn nội tại -mặc
dù vắng mặt toàn bộ những hoan lạc có được do những nhân tố
ngoại tại, và thường vắng mặt vui sướng mặc dù chúng (nhân
tố ngoại tại) hiện diện-, một cách rõ ràng chi cho thấy
nguyên nhân của hạnh phúc tuỳ thuộc trên một tập hợp khác
nhau của những điều kiện (nhân tố).
Nếu chúng ta bị lầm lạc rằng, bởi những điều
bàn luận về những (nhân tố ngoại tại) điều kiện được đề cập
ở trên là nguyên nhân duy nhất cấu thành của hạnh phúc
cho đến sự loại trừ bất cứ những điều kiện nào khác tạo ra ,
điều ấy hàm ý rằng (kết quả) hạnh phúc thì liên đới với
những (nhân tố) nguyên nhân bên ngoài một cách không thể
tách rời. Sự hiện diện hay vắng mặt của hạnh phúc được quyết
định độc quyền bởi chúng. Sự việc thực tế rõ ràng không đủ
chứng cớ chứng tỏ rằng nguyên nhân ngoại tại không cần
thiết hay hoàn toàn chịu trách nhiệm đến kết quả của (hiện
tượng) hạnh phúc.
Bây giờ, điều gì khác của tập hợp những nguyên
nhân nội tại? Chúng được giải thích như thế nào? Là những
Phật tử, tất cả chúng ta tin ở luật nghiệp báo- luật tự
nhiên của nhân và quả. Bất cứ những (điều kiện) nguyên nhân
nội tại của người nào đấy xuyên qua trong đời sống tiếp theo
là kết quả từ những tích tập từ những hành động của cá nhân
trong những đời sống trước đây. Khi năng lực nghiệp báu của
những hành vi quá khứ chín muồi, một người cảm nhận vui
thích hay ưu phiền. Chúng không gì khác hơn mà chỉ là hậu
quả của những hành động của người ấy trong quá khứ. Điều
quan trọng nhất để hiểu là, khi những kết quả thích đáng của
những nghiệp báu từ tất cả những hành động quá khứ xuất hiện,
những nhân tố ngoại tại của người ấy liên kết như những
thuận duyên. Điều xãy đến liên hệ với những điều kiện xuyên
qua hành động (nghiệp) và những nhân tố ngoại tại sẽ sản
sinh trạng thái tinh thần thoãi mái. Về mặt khác, nếu thiếu
vắng điều kiện thiết yếu cho kinh nghiệm vui thích nội tại
thì sẽ không có cơ hội cho những nhân tố bên ngoài thích ứng,
hay ngay cả nếu những nhân tố bên ngoài hiện diện, sẽ không
thể làm cho một người được kinh nghiệm vui thích. Điều này
chỉ cho thấy rằng nhân tố nội tại là căn bản trong những
điều này, và đấy là nhân tố chính quyết định hiện thực của
hạnh phúc hay ngược lại. Vì vậy, để đạt được những kết quả
khao khát, điều khẩn thiết cho chúng ta là phải tích tập
cùng lúc cả hai nguyên nhân-tạo nên nhân tố ngoại tại và
nguyên nhân-tạo nên nhân tố nội tại ( nghiệp ),( hay nguyên
nhân nội tại là nhân và nguyên nhân ngoại tại là duyên.)
Để phát biểu vấn đề một cách đơn giản hơn, cho
sự tích tập cuả nhân tố lành nội tại (thiện nghiệp), những
gì cần thiết chính như những phẩm chất như là một ít nhu
cầu, sự toại ý, sự nhún nhường, sự giản dị, và những đức
tính quý báu khác. Thực hành những nhân tố nội tại này sẽ
thuận tiện ngay cả chuyển biến những nhân tố ngoại tại đã
kể trước đây chúng sẽ biến đổi thuận tiện ngay cả chuyển hoá
những ích lợi đặc trưng cho sự sinh khởi của hạnh phúc. Sự
vắng mặt của những nhân tố nội tại thích đáng, như có một ít
nhu cầu của sự toại ý, nhẫn nại, tha thứ, v.v... sẽ ngăn trở
người ấy hưởng thụ sướng vui, hạnh phúc ngay cả khi tất cả
những nhân tố ngoại tại hiện diện. Bên cạnh điều ấy, người
ta còn phải có nguồn năng lực của công nghiệp và đức hạnh
tích tập trong những đời quá khứ. Nếu khác đi, những hạt
giống hạnh phúc không thể tạo thành quả phúc được.
Vấn đề có thể đặt ở một cách khác. Sự vui thích
và sự thất vọng, hạnh phúc và khổ đau kinh nghiệm bởi mỗi cá
nhân là những kết quả lợi ích không thể tránh được và hoặc
là những hành động xấu mà người ấy đã gây ra, vì vậy được
thêm vào tàng thức người ấy.
Nếu tại một thời điểm nhất định trong đời sống
hiện tại này những quả lành do những thiện nghiệp chín muồi
người ấy sẽ thể nhận được, nếu đấy là một người thông thái,
thì đấy là những quả phúc của những hành vi sáng suốt đáng
khen trong quá khứ. Điều này sẽ tưởng thưởng và khuyến khích
người ấy đạt thêm công nghiệp.
Một cách đơn giản, khi người nào xãy ra kinh
nghiệm khổ đau hay không hài lòng, người ấy có thể chịu đựng
một cách trầm tĩnh nếu người ấy duy trì một sự tin chắc
không giao động rằng, cho dù người ấy có nguyện ước hay
không, người ấy phải đau khổ và mang lấy những hậu quả của
chính những hành vi người ấy đã làm trong quá khứ, mặc dù sự
thật bình thường người ấy thường thấy rằng cường độ và mức
độ,của sự thất vọng thì rất khó để chịu đựng, hay mang lấy.
Bên cạnh, nhận thức rằng chúng không là gì nhưng chỉ là kết
quả của những hành động vụng về trong quá khứ sẽ làm người
ấy đủ thông minh chừa bỏ những hành động vụng về từ nay trở
đi. Giống như vậy, tư tưởng hài lòng rằng,- với sự chín muồi
của những nghiệp xấu trong quá khứ, và phần quả xấu bởi
những hành động xấu trong quá khứ đã hiện ra,- sẽ là niềm an
ủi, khích lệ lớn lao cho người ấy.
Một sự đánh giá đúng đắng tuệ trí này sẽ góp
phần hiểu thấu bản chất để đạt được yên bình cho thân và tâm.
Thí dụ, giả sử một người bất ngờ bị đau khổ với chấn thương
vật lý trầm trọng qua một nhân tố ngoại tại. Nếu, chỉ là
năng lực tuyệt đối của ý chí ( căn cứ trên sự tin chắc rằng
người ấy tự chịu trách nhiệm cho những bất hạnh và khổ đau
hiện tại), người ấy có thể vô hiệu hoá sự tăng gia khổ đau
rồi thì tâm tư người ấy sẽ thoãi mái và yên tĩnh.
Bây giờ để chúng tôi giải thích điều này trong
một trình độ khá hơn, cao hơn. Sự quan tâm, sự phấn đấu, và
thực thi này là điều có thể làm một cách có hệ thống để tiêu
huỷ những điều bất như ý và nguyên nhân của chúng.
Như đã nói ở trước, vui sướng hay khổ đau, hạnh
phúc hay bất như ý là kết quả của những hành động tốt hay
xấu của một người. Những hành động tốt hay xấu (nghiệp)
không là những hiện tượng ngoại tại. Chúng tuỳ thuộc một
cách có căn bản vào tình trạng của tâm. Làm những cố gắng
tích cực để tạo dựng mọi thứ có thể của thiện nghiệp và đẩy
xa chúng ta những vết tích của bất thiện nghiệp, là con
đường để sáng tạo hạnh phúc và tránh sự tạo đớn đau và khổ
sở. Đấy là điều vẫn thường thấy rằng một kết quả vui vẻ theo
sau một nhân lành và hậu quả xây dựng bởi nguyên nhân vụng
về là khổ đau.
Vì vậy, quan trọng nhất, chúng ta cố gắng mọi ý
nghĩa có thể để gia tăng phẩm chất và khối lượng của những
hành động thiện xảo và làm những hành động tương ứng cắt xén
bớt những hành động vụng về của chúng ta.
Làm thế nào để việc này được hoàn thành? Những
nguyên nhân đáng khen thưởng và ngược lại, kết quả hạnh phúc
và khổ đau không tương đồng với đối tượng bên ngoài. Thí dụ,
trong cơ thể con người hệ thống gồm những phần khác nhau như
phổi, tim, và những bộ phận khác có thể thay thế bằng những
bộ phận mới. Nhưng điều này không như vậy với những hành
động của nghiệp, điều tịnh hoá tâm. Sự thu thập công nghiệp
tươi tốt và sự tiêu huỷ những nhân xấu, là quá trình tịnh
hoá tâm linh. Chúng không thể đạt được với bất cứ sự giúp đở
nào ở bên ngoài. Phương pháp duy nhất để hoàn thành là bằng
sự kiểm soát và luyện tập tâm chưa thuần hoá (cho đến nay).
Cho điều này, chúng ta đòi hỏi một sự nhận thức đầy đủ hơn
yếu tố gọi là TÂM
Qua những cánh cửa của năm giác quan một chúng
sinh thấy, nghe, ngữi, nếm và dẫn đến sự tiếp xúc với các
hình sắc tiếp nhận bên ngoài, các đối tượng, ấn tượng. Hãy
để hình sắc, âm thinh, mùi hương, vị nếm, tiếp xúc(va chạm)
và những sự kiện tinh thần, những điều liên hệ với sáu thức
cảm giác được đóng lại. Khi điều này được hoàn tất sự thu
thập của những sự kiện quá khứ trên điều tâm hướng đến để
động não (suy nghĩ ủ ê, nghiền ngẫm), sẽ hoàn toàn bị đoạn
dửt và dòng chảy của ký ức bị cắt đứt. Một cách đơn giản,
những dự tính cho tương lai và sự dự định hành động tương
lai không được phép hưng khởi. Cần thiết phải tạo một không
gian, nơi tâm trở nên rỗng không với tất cả những trình tự
như vậy, trong nơi của tất cả những chương trình như vậy của
tư tưởng (dự tính,dự định,dự kiến).Tự tại với tất cả những
trình tự như vậy nơi ấy duy trì một tâm tinh khiết, trong
sáng, rõ rệt và tịch tĩnh. Bây giờ hãy để chúng ta kiểm
nghiệm những đặc điểm nào cấu thành "tâm" khi nó đạt đến
trạng thái này. Một cách chắc chắn rằng chúng ta sở hữu điều
gọi là "tâm", nhưng làm thế nào để chúng ta thể nhận được sự
hiện hữu của nó? Thực tế và bản chất của "tâm", điều được
tìm thấy khi toàn bộ gánh nặng của những điều trở ngại và
lầm lạc nói chung (nhận thức của các giác quan, ký ức suy
tư.v.v...) được làm sạch bóng. Thấy rõ, sâu sắc diện mạo
này của thật tâm, chúng ta sẽ khám phá rằng, không giống như
những đối tượng ngoại tại, thật tính bản nhiên của nó là xa
rời hình thức hay màu sắc, mà có thể chúng ta (cũng không)
tìm thấy bất cứ căn bản nào chính xác cho những điều sai lầm
và những khái niệm lừa dối như vậy như: "tâm" vốn dĩ từ
điều này hay điều kia, hay là "tâm" di chuyển từ nơi này
đến nơi nọ, hay là "tâm" được xác định vị trí ở nơi như vậy
và như vậy. Đến khi tiếp xúc được với không đối tượng tâm
giống như một điều trống không rộng rãi vô biên, hay như một
đại dương bình lặng, trong sáng và vô tận. Khi thình lình
chạm trán với một đối tượng nó lập tức nhận ra ngay đối
tượng của nó, như một tấm gương lập tức phản chiếu một người
đứng trước nó. Bản chất thật sự của tâm không chỉ gồm có
nhận thức rõ ràng đối tượng nhưng cũng truyền đạt kinh
nghiệm cụ thể của đối tượng đến người kinh nghiệm qua nó. (*
Đây là hai khía cạnh, thể nhận tri thức và truyền đạt kinh
nghiệm liên hệ để biết điều gì là đối tượng và cảm giác, nếm,
thấy,...thế nào). Một cách bình thường, những hình thức của
các tri giác của chúng ta như: nhận thức của mắt, nhận thức
của tai, v.v... diễn tả những chức năng trên những hiện
tượng bên ngoài trong thái độ liên hệ méo mó toàn bộ. Kiến
thức kết quả trên nhận thức cảm giác, căn cứ trên toàn bộ
những hiện tượng bên ngoài, cũng là toàn bộ thiên nhiên. Khi
toàn bộ kích thích loại này bị đóng kín và khi những kinh
nghiệm cụ thể và nhận thức trong sáng khởi lên từ trong ấy,
tâm thể hiện đặc tính trống không vô tận giống như không
gian vô biên. Nhưng cái "không" này không được xem như thật
tính tự nhiên của tâm. Chúng ta phải trở nên thật quen
thuộc với sự nhận thức đến hình thể và màu sắc của toàn bộ
những đối tượng, khi chúng ta tập trung sự tự quán sát bên
trong đến tính bản nhiên của tâm, nó là, như chúng tôi đã
nói, được tìm thấy là một sự trống không vô tận tự tại với
bất cứ sự u tối vô minh hay những chướng ngại nào khác. Tuy
vậy, điều này không có nghĩa là chúng ta đã thấy rõ thật
tính tinh tế bản nhiên của tâm. Những điều được giải thích ở
trên liên quan đến trạng thái của tâm trong sự liên hệ với
kinh nghiệm cụ thể và nhận thức trong sáng bởi tâm, những
điều là chức năng của nó, nhưng nhưng nó chỉ diễn tả tính
bản nhiên tương đối của tâm.
Thêm một vài khía cạnh và trạng thái khác của
tâm. Trong ngôn ngữ khác, thể nhận tâm ở mức độ căn bản nhất,
có nhiều thuộc tính liên hệ đến nó. Chỉ như củ hành bao gồm
những lớp chồng chất lên nhau và có thể bóc ra, vì vậy mỗi
một đối tượng có vô số lớp chồng chất; và điều này không
sai với tính bản nhiên của tâm được giải thích ở đây; nó
cũng vậy, có lớp này trong lớp nọ, trạng thái này trong
trạng thái kia.
Tất cả những sự, những vật được hợp thành là
những đối tượng để tan rã. Tự bao giờ, những kinh nghiệm và
kiến thức là vô thường và là đối tượng để tan rã, "tâm", của
điều là những chức năng (tự nhiên), không phải là điều gì ấy
được duy trì bất biến và vĩnh cữu. Từ từng khoảnh khắc nó
phải thay đổi và tàn hoại. Sự chuyển biến này của tâm là
khía cạnh tự nhiên của nó. Tuy vậy, khi chúng ta quán sát,
thật tính tự nhiên của tâm có nhiều khía cạnh, bao gồm những
nhận thức của những kinh nghiệm cụ thể và tri thức của những
đối tượng. Bây giờ chúng ta hãy thể nghiệm xa hơn để hiểu
thấu ý nghĩa tinh tế căn bản của một tâm như thế. Tâm hiện
hữu bởi nguyên nhân của chính nó. Để phủ nhận căn nguyên của
tâm tuỳ thuộc vào một nguyên nhân, hay nói rằng nó được
mệnh danh như một ý nghĩa được thừa nhận tự nhiên của tập
hợp tâm, thì không đúng. Với sự quán sát nông cạn của chúng
ta, tâm, điều có kinh nghiệm cụ thể và nhận thức rõ rệt như
tính tự nhiên của nó, xuất hiện như một thực thể toàn năng,
độc lập, thống trị một cách hoàn toàn ở khắp nơi. Tuy nhiên,
phân tích sâu hơn sẽ thấy rằng tâm này, sở hữu như nó làm
chức năng của kinh nghiệm và nhận thức, nó không là một thực
thể tự sáng tạo nhưng lệ thuộc vào những nhân tố khác cho sự
tồn tại của nó. Vì lý do này nó tuỳ thuộc vào những điều
khác hơn chính nó. Phẩm chất không độc lập này của căn bản
của tâm là thực tính tự nhiên của nó trong điều khiến đấy là
nền tảng thực sự của chính nó.
Ở hai khía cạnh này, thật tính cơ bản tự nhiên
của tâm và một kiến thức của thực tính cơ bản tự nhiên đấy,
điều trước là căn bản và điều kế tiếp là thuộc tính. Tâm (tự
nó) là căn bản và tất cả nhũng trạng thái khác nhau của nó
là những thuộc tính. Tuy vậy, căn bản và những thuộc tính,
điều căn bản-đầu tiên có cùng thể chất với từng đơn vị-những
thuộc tính. Sự sáng tạo vô ngã (tuỳ thuộc trên một nguyên
nhân khác chính nó) thực thể tâm (nền tảng căn bản) và bản
chất của nó, tính không, có sự tồn tại một cách không ngừng
như một thực chất , giống nhau, không thể tách rời từ khởi
nguyên vô thỉ. Tính tự nhiên của tính không toả khắp tất cả
mọi yếu tố. Bây giờ khi chúng ta và từ khi chúng ta không
thể hiểu thấu hay nhận thức thấu đáo sự bền bỉ, tự nhiên,
nền tảng thực sự (tính không) của tâm chúng ta, chúng ta
tiếp tục liên luỵ vào những sai lầm và những thiếu sót của
chúng ta vẫn cứ dai dẳng.
Nhận tâm như chủ thể và thực tại cơ bản của tâm
như đối tượng của nó, chúng ta sẽ đạt đến một sự lĩnh hội
thích đáng với bản chất thực tính của tâm... thực tại tột
cùng của tâm. Và khi, sau một thời gian dài kiên nhẫn thiền
định, chúng ta sẽ nhận biết và hiểu thấu thực tại tột cùng
của tâm, là điều lìa xa những đặc tính của nhị nguyên, chúng
ta sẽ dần dần có thể làm rỗng không ảo tưởng và những khiếm
khuyết của những tư tưởng trung tâm và phụ thuộc như giận dữ,
thích phô trương, ghanh ghét, thèm muốn, v.v...
Thất bại trong việc nhận diện tính bản nhiên của
tâm chúng ta sẽ mất cơ hội đạt được năng lực nhận biết thực
tại cơ bản của tâm. Điều này sẽ xoay việc nhỗ gốc của khát
dục và thù ghét và tất cả cội rễ của những vọng tưởng phụ
thuộc khác của chúng ta từ căn bản. Vì thế, không có chỗ để
tích tập những nghiệp không lành.
Theo những nghĩa này việc tạo những ác nghiệp
ảnh hưởng cho những đời sống tương lai sẽ bị loại trừ; chúng
ta sẽ có thể gia tăng chất lượng và số lượng của điều kiện
nguyên nhân công hạnh lành và để trừ tiệt gốc sự tạo tác
điều kiện nguyên nhân tổn hại ảnh hưởng những đời sống tương
lai-ngoài những nghiệp xấu tích tập trước đây ra.
Trong việc thực hành để đạt được kiến thức toàn
hảo của thực tính bản nhiên của tâm, đòi hỏi những cố gắng
tích cực và tập trung tinh thần để nhận biết thấu đáo đối
tượng. Trong những điều kiện bình thường của chúng ta như
hiện tại, khi tâm chúng ta tiếp xúc với bất cứ gì nó liền bị
lôi cuốn tức thì. Điều này khiến sự nhận hiểu bất lực. Vì
vậy, để đạt được năng lực tịch tĩnh to lớn của tinh thần, sự
nổ lực thật tối đa là đòi hỏi cấp thiết nhất. Thí dụ như,
một dòng sông lớn trôi chảy qua một vùng mở rộng sẽ có rất
ít năng lực, nhưng khi nó xuyên qua một dốc núi hẹp tất cả
nước tập trung trong một không gian hẹp và vì vậy nó tuôn
chảy với một mãnh lực lớn. Với một lý do đơn giản tất cả
những điều xao lãng của tinh thần, điều lôi cuốn tâm xa rời
với đối tượng quán chiếu được tránh và tâm duy trì kiên định
không chuyển trên đối tượng. Ngoại trừ điều này được hoàn
tất, sự thực hành để đạt được một sự thấu hiểu thích đáng
thực tính bản nhiên của tâm sẽ hoàn toàn thất bại.
Làm cho tâm thuần thục ngoan ngoản, là điều căn
bản cho chúng ta rèn luyện và kiểm soát nó tốt đẹp. Lời nói
và hành động của thân là điều tương ứng với trình tự của
tinh thần, tuyệt không cho phép nó diễn tiến trong chiều
hướng vô ý, thả lỏng, và bừa bãi. Chỉ như một huấn luyện
viên luyện tập và trầm tĩnh một con ngựa hoang bướng bỉnh
bằng khuất phục nó và sự rèn luyện dài lâu. Vì vậy những
hành động hoang dã, rong ruỗi, bừa bãi phải được thuần hoá
và làm chúng ngoan ngoản, chính đáng, và thiện xảo. Vì vậy
những lời Dạy của Đức Thế Tôn bao gồm trong ba chủ đề, đó là
giới (rèn luyện đạo đức cao thượng), định (rèn luyện thiền
định cao thâm) và tuệ trí (rèn luyện tuệ trí cao xa), tất cả
đấy là để dành cho rèn luyện tâm.
Bằng việc học tập, thiền định và thực hành tam
vô lậu học trong phương pháp này, chúng ta hoàn thành tiến
trình thực chứng. Một người luyện tập sẽ được phú cho phẩm
chất tuyệt vời của khã năng có thể chịu đựng một cách kiên
nhẫn những bất hạnh và khổ đau, những điều là kết quả những
nghiệp chướng quá khứ của người ấy.
Người ấy sẽ quan tâm sự bất hạnh của chính họ
như chuyện không may mà lại hoá may, làm cho người ấy sáng
tỏ ý nghĩa của nghiệp báo và làm cho người ấy nhận thức thấy
sự cần thiết để tập trung tiến hành duy chỉ những hành động
đạo nghiệp xứng đáng mà thôi. Nếu nghiệp xấu quá khứ của
người ấy chưa trổ quả, nó sẽ vẫn có thể được xoá sạch những
nghiệp chưa chín này bằng việc sử dụng sức mạnh của bốn năng
lực:
1- Quyết định đạt đến Phật quả;
2- Quyết định tránh làm những hành vi sai trái
lỗi lầm, ngay cả cái giá của một đời sống;
3- Tiến hành những hành vi tốt lành;
4- Sám hối.
Đấy là con đường để đạt được hạnh phúc trực
tiếp,tức thời, gần nhất, để mở đường cho đạt đến giải thoát
và giúp chúng ta tránh tích tập những lỗi lầm xa hơn.
07-01-2008 04:23:12