Ý NGHĨA HOÁ THÂN PHẬT THUYẾT PHÁP
HT. Thích Trí Quảng
---o0o---
Khi Đức Phật Thích Ca thành đạo tại Bồ Đề Đạo
Tràng, Ngài thấy biết chân lý và nghĩ rằng chân lý đó Ngài
không thể trao truyền cho bất cứ người nào.
Ý này được kinh Pháp Hoa diễn tả rằng "Duy Phật
dữ Phật, nãi năng cứu tận chư pháp thật tướng", nghĩa là chỉ
có chư Phật hiểu được những gì Đức Phật Thích Ca chứng ngộ,
còn từ hàng Bồ tát trở xuống không thể hiểu được. Bấy giờ
chư Phật mười phương đã hiện ra trong thế giới trang nghiêm
thông nhau thành một cõi gọi là Hoa Tạng thế giới; còn chúng
ta vì bị vướng mắc ngũ ấm thân nên không thông được với chư
Phật. Và tất cả các Đức Phật đó thỉnh Phật Thích Ca thuyết
pháp giáo hóa chúng sinh ở Ta bà.
Các Đức Phật nói rằng Phật Thích Ca chứng chân
lý thì chư Phật mười phương cũng thấy đúng như vậy, nên giữa
chư Phật không cần nói nữa; nhưng Đức Phật Thích Ca nên nói
pháp cho chúng sinh Ta bà vì chư Phật ở Hoa Tạng giới không
mang thân ngũ uẩn nên không nói được với họ. Đức Phật Thích
Ca mới khởi tâm đại từ bi thương xót chúng sinh mà Ngài mang
thân tứ đại ngũ ấm, làm thái tử Sĩ Đạt Ta, rồi xuất gia tu
hành, nhận ra mình là Phật. Nhờ chư Phật mười phương tác
động, Đức Phật Thích Ca thấy được sự tính ưu việt của Ngài
so với các Đức Phật khác; vì các Ngài có Pháp thân Phật,
nhưng thiếu sanh thân, đây là điểm quan trọng mà chúng ta
phải nhận thấy.
Thật vậy, các Đức Phật vào Niết bàn, bỏ thân tứ
đại ngũ uẩn, chì còn Như Lai thân, hay Bồ tát Pháp thân thì
không nói được cho chúng sinh. Ví dụ như bây giờ Bồ tát
Quảng Đức muốn nói chuyện với chúng ta, nhưng không được
Ngài phải mang lại thân tứ đại ngũ uẩn mới nói được cho
chúng ta nghe. Nhưng khi Bồ tát mang lại thân tứ đại ngũ uẩn
là trở lại con người bình thường, thì Đức Phật dạy rằng Bồ
tát còn mê khi cách ấm. Thực tế cho thấy các vị Lạt ma đắc
đạo xả thân và tái sinh trở thành hài nhi không biết kiếp
trước cúa mình, phải nhờ thầy khai ngộ mới nhớ lại được tiền
kiếp tu hành.
Chúng ta cũng vậy, trải qua nhiều kiếp tu hành
và đời này mang thân tứ đại, bị ngũ ấm ngăn che, chúng ta
quên kiếp trước của mình; nhưng tâm sáng suốt của chúng ta
vẫn còn. Vì vậy, trên bước đường tu, có sự định vị rõ ràng,
tuy cũng là nguời như nhau, nhưng có người thông minh, hiền
lành, có người hung ác, mê muội; đó là sự khác nhau vê tâm,
về nghiệp của tất cả mọi người trên đời này. Nếu là Như Lai,
Bồ tát hay La hán hiện thân 1ại, bị ngũ uẩn ngăn che nên bị
cuộc đời làm quên mất tiền kiếp, nhưng tâm các Ngài vẫn bất
nhiễm:
- "Từ chơn tánh hiện thân Đại sĩ
Giữa hồng trần không
nhiễm bụi trần".
Vì Đại sĩ hiện thân lại thì khác với người đời
hiện thân. Giống nhau, nhưng cốt lõi là Như Lai, Bồ tát, La
hán hay là phàm phu thì khác. Đức Phật Thích Ca mang thân
người, bị ngũ uẩn ngăn che; nhưng cốt lõi của Ngài là Phật,
nên Ngài nhìn cuộc đời khác, Kinh Pháp Hoa gọi là "Bất như
tam giới kiến ư tam giới", nghĩa là người nhìn cuộc đời
không giống người đời, tâm và hành động khác với người đời
mới tu được. Còn tu hành mà suy nghĩ, nhìn đời giống y như
người đời, cũng ham thích, tính toán, buồn phiền, tranh
giành, sát phạt là người đời mặc áo tu.
Cách nhìn đời của Đức Phật Thích Ca y hệt như
một Đức Phật, rõ ràng Ngài thấy cuộc đời này là vô thường,
mong manh, giả tạm và thấy rõ đây không phải là nhà của Ngài,
không phải là cuộc sống của Ngài, Ngài không có ý ưa thích,
tranh chấp nên Ngài đã từ bỏ một cách dễ dàng cuộc sống
vương giả để đi tìm đời sống vĩnh hằng bất tử. Nhờ cốt lõi
bên trong là Phật, nên thời gian nhập định của Ngài rất ngắn,
chỉ trong 49 ngày và thời gian Ngài hành đạo cũng ít, chỉ có
sáu năm. Ngày nay, tất cả Hòa thượng, Thượng tọa đều hành
đạo qua thời gian nhiều hơn Phật, riêng tôi đã 60 năm hành
đạo, nhưng đạo vẫn thấy lờ mờ, chỉ dùng niềm tin để thấy
biết, không phải thấy hoàn toàn chính xác như Phật.
Đức Phật tu sáu năm đắc đạo, thành tựu quả vị Vô
thượng Chánh đẳng giác. Cốt lõi bên trong Ngài là Phật và
mặc áo phàm phu bên ngoài, nên khi Ngài xả bỏ ngũ uẩn thân,
là thành Phật. Xả bỏ thủ uẩn thân không phải là diệt thân
ngũ uẩn, vì phải có thân ngũ uẩn mới tu được, diệt bỏ thân
này, sẽ bị đọa.
Đức Phật khuyên chúng ta xả bỏ sự cố chấp vào
thân này, nói chung là không chấp ngã và không chấp pháp,
tâm chúng ta thanh tịnh và trí tuệ theo đó phát sinh. Tuy
nhiên, sau khi Phật Niết bàn, người ta thường chấp ngã và
chấp pháp cao, nên khó có người đắc đạo. Thực tế cho thấy vì
chấp ta và chấp pháp môn tu của ta, nên nghĩ người này tu
Đại thừa, người nọ tu Tiểu thừa, người này theo Nam tông,
người nọ là Bắc phái,v.v... và bắt đầu xem thường nhau,
chống phá nhau, thậm chí hại nhau, trong khi tất cả những
người này đều là đệ tử Phật, chân tánh đều là một.
Kinh Pháp Hoa nói rằng Thường Bất Khinh Bồ tát
là tiền thân của Đức Phật Thích Ca hành đạo trong thời kỳ
mạt pháp của Đức Phật Oai âm Vương có nhiều chúng tăng
thượng mạn Tỳ kheo. Họ chấp ngã, chấp pháp môn tu, chấp sở
hữu, chấp chùa, ai động đến cái chấp đó là họ sẵn lòng sống
chết. Bồ tát Thường Bất Khinh thấy vậy thương xót họ, Ngài
hiện thân làm Bồ tát kính trọng, lễ bái những vị tăng thượng
mạn này, nhằm lễ bái Phật tánh của họ để giúp họ thức tỉnh,
nhận ra được Tăng đoàn phải hòa hợp, tứ chúng phải đồng tu.
Cùng sinh hoạt trong Tăng đoàn mà không chấp
nhận nhau, không nhìn nhau được và chấp càng cao, càng rời
xa chân lý, chắc chắn phải bị đọa. Điều cốt lõi quan trọng
này của đạo Phật, chúng ta cần suy nghĩ và áp dụng trong đời
sống tu hành.
May mắn là đất nước chúng ta thống nhất, Giáo
hội chúng ta thống nhất, anh em chúng ta mới có điều kiện
sinh hoạt chung, cùng trao đổi với nhau kinh nghiệm hành đạo.
Trước năm 1980, phải nói là mạnh ai nấy tu, không chống nhau
là may mắn rồi, đừng nói là ngồi chung lại để cùng chia sẻ
kinh nghiệm.
Chúng ta được may mắn cùng chung nhau thảo luận
phương hướng smh hoạt, nhận thấy được việc tốt của nhau mà
kính trọng nhau. Tôi thấy việc tốt của chư tôn đức và các
Ngài cũng thấy việc tốt của tôi, mới chia sẻ kinh nghiệm
hành đạo cho nhau; thiết nghĩ đó là niềm hạnh phúc nhất của
nguời tu. Tôi rất sung sướng được đến đây nói pháp và được
quý vị lắng nghe trong niềm hoan hỷ, gợi cho tôi nhớ đến bài
kệ:
- "Hạnh phúc thay Đức Phật giáng sinh
Hạnh phúc thay giáo pháp
xương minh
Hạnh phúc thay chư Tăng
hòa hợp
Hạnh phúc thay tứ chúng
đồng tu".
Dù chùa cao Phật lớn, cúng dường đầy đủ cũng
không bằng thương kính nhau và chia sẻ kinh nghiệm giúp nhau
tu hành. Hạnh phúc của chúng ta là được sống trong một Giáo
hội và tất cả các pháp môn biệt truyền được trân trọng, nói
rõ là tôn trọng nhau, thể hiện tinh thần lục hòa, kiến hòa
đồng giải, không phải khống chế nhau.
Người khác có hành động tốt, ta phải công nhận
và tập theo, không nên tự ái mà cố giữ điều sai lầm của mình.
Hòa hợp trên tinh thần vô ngã, không chấp ta, không chấp sở
hữu của ta, chỉ thấy điều tốt để ta thực tập.
Tuy nhiên, khi chúng ta được hạnh phúc nhờ Giáo
hội thống nhất thành một khối, lại bắt đầu có sự cọ xát
khiến chúng ta không vừa lòng, thấy như mình bị mất tự do.
Theo tôi, điều này cũng giúp chúng ta tu hành đạt giải thoát.
Lúc tôi cảm thấy bị hạn chế, không được tự do, tôi liền nhớ
đến Tề Thiên mang vòng kim cô trên đầu. Mình làm gì cũng kẹt
Hiến chương của Giáo hội, kẹt luật pháp của Nhà nước ví như
chiếc vòng kim cô bóp đầu mình, cảm thấy khổ. Thí dụ như có
một số tu sĩ đi không được, ở không xong vì kẹt hộ khẩu, nên
phiền não phát sinh. Lâu nay chúng ta tưởng lầm mình tu đắc
đạo nay phiền não tung lên, bực bội, buồn phiền, phải coi
lại quá trình tu của mình đã phạm sai lầm gì mà nghiệp khởi
như vậy.
Lúc trước tu, không chấp ngã, không có nghiệp;
nhưng được lên Thượng tọa thì lại chấp ngã nặng. Tôi nhớ
trong buổi họp Mặt trận, có một Thượng tọa nói với tôi rằng
ông buồn quá. Tôi bảo đã là Thượng tọa mà còn buồn hay sao
và buồn việc gì. Ông nói lúc trước Phật tử thấy mình chắp
tay, kính trọng chào, không dám ngồi ngang hàng; nay vô
phòng họp, phải ngồi sau đàn bà! Thiết nghĩ đây là sự chấp
ngã, chấp pháp quá nặng. Tôi nhớ một câu của Ô Sào Thiền sư
dạy Đường Tam Tạng rằng ngũ uẩn tứ đại giai không, thì đâu
có đàn bà ngồi trước mặt mình.
Chúng ta tu cả đời , nhưng chỉ phạm một sai lầm nhỏ là bị
tổn hoại công đức. Giống như trường hợp Lương Khoan giữ vị
trí quốc sư quá lớn đến cái tên của ông, người ta còn không
dám gọi, nhưng vì chấp ngã quá lớn, tự ái quá cao, nên khi
nghe ngài Nhật Liên lập giáo khai tông nói rằng tất cả quốc
sư, đại sư phạm sai lầm bị đọa địa ngục, ông tức giận, chống
gậy vào triều, bảo tướng quân phải tìm diệt ông sư đó, ngày
nào ông sư đó còn sống thì tôi ăn không ngon, ngủ không yên.
Làm Hòa thượng quốc sư mà còn muốn diệt người và muốn ăn
ngon, ngủ yên, là khởi sân tâm, chấp ngã nặng, không còn
biết gì. Người ta nói gì thì mặc người ta, làm gì mà nói gì
thì mặc người ta, làm gì mà phải cuồng giận như vậy.
Theo tôi, chúng ta có thời gian cọ xát với thực
tế sẽ giúp chúng ta tỉnh ngộ và tiến tu rất tốt. Tôi đi họp
khắp nơi, thấy thanh thản vô cùng, ngồi đâu cũng được, thiên
hạ gọi mình là gì cũng xong, khi ta vô ngã thì chẳng có gì
phải thắc mắc.
Chúng ta nên tập sống thanh thản trên tinh thần
vô ngã Đức Phật đã dạy và tập tâm vị tha, thương người, họ
vô tình hay cố ý xúc phạm, ta thương xót họ, đừng giận họ,
ta sẽ được Phật hộ niệm, sẽ không gặp điều gì đáng sợ trên
cuộc đời này. Và ta chỉ lo sợ cho họ sẽ bị người ghét bỏ, bị
quán thán chê trách và họ sẽ gặp nhiều khó khăn trong cuộc
sống.
Nếu trải qua thời gian sinh hoạt chung, có sự cọ
xát, mà không chịu đựng được, có người bỏ áo tu, hoàn tục
thì cuộc sống cũng chẳng tiến được. Trái lại, người cố gắng
chịu đựng và nhận thức sâu sắc việc tu hành thì từng bước
cũng đi lên.
Theo kinh nghiệm của riêng tôi, đất nước chúng
ta từng thời kỳ có sự đổi mới; đời sống tu hành của chúng ta
cũng từng bước có tốt đẹp. Đặc biệt năm nay, Lễ Vesak Liên
Hiệp Quốc được tổ chức tại Việt Nam và tôi được phân công
phụ trách Ban Nội dung. Từ Phật sự này, tôi đã có cái nhìn
liên tưởng đến phẩm Hiện bảo tháp thứ 11 của kinh Pháp Hoa,
tôi cảm thấy rất sung sướng và muốn chia sẻ với quý vị pháp
hỷ lạc này.
Chúng ta đã đọc tụng nhiều lần phẩm Hiện bảo
tháp, nhưng khó hiểu ý nghĩa sâu xa của phẩm này. Tụng kinh
là một việc, hiểu được kinh lại là việc khác và thực tập lời
dạy của kinh rồi thể nhập được cốt tủy của kinh lại khác nữa.
Trong phẩm Hiện bảo tháp, khi Đức Phật Thích Ca nói kinh
Pháp Hoa, từ dưới đất có tháp Đa Bảo vọt lên và trụ trong hư
không. Chúng ta hiểu thế nào về hiện tượng này? Điều này
thoạt nghe có vẻ giống như ảo thuật; tôi đã suy nghĩ rất
nhiều yếu nghĩa mà kinh muốn ẩn dụ qua hình ảnh này. Đến khi
Lễ Vesak năm nay diễn ra, tôi chợt nhận được nghĩa sâu sắc
mà mỉm cười sung sướng.
Đức Phật Đa Bảo đã nhập diệt từ lâu, nay Đức
Phật Thích Ca nói kinh Pháp Hoa ở Ta bà, tháp của Phật Đa
Bảo hiện ra làm chứng tín. Điều này gợi cho tôi nhận thức
rằng Đức Phật Thích Ca đã nhập diệt từ lâu, nay chúng ta
biết Kinh Pháp Hoa, tức Phật Thích Ca sẽ hiện ra, hay Phật
Đa Bảo hiện ra cũng là một. Nghĩ đến Phật Đa Bảo là nghĩ đến
nhiều thứ báu, nhưng đối với người tu, chỉ có Tam bảo: trí
tuệ là Đức Phật, chân lý là Pháp và hòa hợp là Tăng, là quý
báu nhất; ngoài ra, những thứ báu theo thế gian không đáng
quan tâm. Chính Đức Phật Thích Ca của chúng ta cũng từ bỏ
cuộc sống thế nhân chỉ để đi tìm ba thứ báu là trí giác,
chân lý và cuộc sống thanh tịnh hòa hợp.
Trên bước đường tu, đối với tôi, làm sao hòa hợp
được với Tăng Ni Phật tử, được nhiều người thương mến, hỗ
trợ là quý. Còn của báu mang vào thân dễ bị tai họa, biết
bao nhiêu người chết vì của cải. Sư Thông Kham bị giết cũng
vì có nhiều vàng. Của báu vật chất tác hại cho mình hơn,
người đời tham lam mới quý nó. Người tu lấy trí tuệ làm của
quý báu nhất, thú hai là chân lý, tức chúng ta sống hài hòa
với thiên nhiên và xã hội. Cuộc sống chúng ta sáng đẹp vì
không phạm pháp, thể hiện đạo đức, được người thương mến,
quý trọng. Đức Phật dạy rằng Tỳ kheo vào làng không chống
trái việc người, đó là chân lý. Chúng ta sống trong tịnh xá
không làm mất lòng đại chúng, mọi người coi ta là bạn tốt,
đó là chân lý. Và thứ ba là chùa lớn hay nhỏ không quan
trọng, nhưng quan trọng là hòa hợp, chấp nhận nhau. Hai
người không hòa hợp, tranh giành chức trụ trì, không ăn
chung, không nói chuyện với nhau thì tốt đẹp gì.
Mở tháp Đa Bảo trong Kinh Pháp Hoa, hay Đức Phật
nhập diệt để lại cho chúng ta kho báu vô giá. Yếu nghĩa này
thể hiện rõ nét khi Liên Hiệp Quốc biểu quyết chấp nhận Đức
Phật là bậc vĩ nhân được loài người kính trọng và lời dạy
của Đức Phật chẳng những thích hợp với thời đại của Ngài mà
còn có lợi ích trong thời đại của chúng ta. Đức Phật và lời
dạy của Ngài mà còn có lợi ích trong cuộc sống của chúng ta.
Đức Phật và lời dạy của Ngài được cả nhân loại công nhận thì
đó chính là kho báu rồi.
Chúng ta tu hành lâu, ôm kho báu này, nhưng tự
nghèo khổ, không thấy của quý báu này. Liên Hiệp Quốc mở kho
báu này bằng nghị quyết của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc năm
1999 khiến chúng ta sáng mắt ra. Vì mặc dù chúng ta nhân
danh Phật giáo, nhân danh đệ tử Phật, nhưng chúng ta có
hưởng thụ được kho báu này đâu, chỉ biết hơn thua phải trái
một cách vô lý.
Muốn người khác chấp nhận mình, quý vị phải làm
sao? Đức Phật dạy chúng ta phải thực hành Đồng sự nhiếp
trong Tứ nhiếp pháp; nói cách khác, phải lấy ý người làm ý
mình, lấy ý mình áp đặt cho người thì ai nghe theo được? Ở
Việt Nam, tôi thấy Hòa thượng Minh Châu đã nhận ra ý này,
ngài tu hành gốc Bắc tông, nhưng sang Ấn Độ học, khoác áo
Nam tông để các sư Nam tông không thấy ngại khác với họ. Hòa
thượng đắp y va ăn một bữa, đồng với họ, nên không bị chê
trách gì. Nhờ lại Hòa thượng thân cận được các sư Nam tông
từ Ấn Độ sang Miến Điện, đến Thái Lan, làm nhịp cầu gắn liền
Phật giáo Nam truyền và Bắc tông; trong khi trước đó, cả hai
không nhìn nhau thân quý. Phật giáo Khất sĩ có được ưu việt
là tương đồng với cả Phật giáo Nam và Bắc tông về việc ăn
chay và vấn y, nên không bị phê phán.
Hòa thượng Minh Châu còn làm được một việc quan
trọng nữa, ngài dịch kinh Pàli sang tiếng Việt, nên Trường
Đại học Phật giáo Mahachulalongkorn, Thái Lan đã cấp bằng
Tiến sĩ Danh dự cho ngài. Có thể nói từ nhịp cầu này đã gắn
kết được Phật giáo Thái Lan và Phật giáo Việt Nam. Từ sự gắn
kết ban đầu này, tất cả tu sĩ Đại thừa mới có điều kiện kết
nối với giới Phật giáo Nam tông, chúng ta mới tham dự Hội
nghị Thượng đỉnh Phật giáo, tham dự diễn đàn Phật giáo thế
giới và mới có Lễ Tam hợp Vesak của Liên Hiệp Quốc.
Mười năm trước, sang Thái Lan, họ không coi
chúng ta là người tu; nhưng nay tôi sang nước đó; họ coi tôi
là cao Tăng, tức có cái nhìn khác, cái nhìn tốt đẹp về Phật
giáo chúng ta. Điều này đồng nghĩa với việc chúng ta tu hành
tiến gần chân lý, nên kết hợp được suy nghĩ và sinh hoạt của
những tông phái Phật giáo khác. Trong phẩm Hiện bảo tháp,
Đức Phật Thích Ca cho biết Đức Phật Đa Bảo có lời nguyện
rằng ai muốn mở tháp Đa Bảo thì phải tập trung phân thân
Phật thuyết pháp trong mười phương lại. Nghĩa là Đức Phật
Thích Ca đã nhập diệt cả ngàn năm, xưa kia, giáo pháp của
Ngài chỉ lưu truyền ở Ấn Độ, nhưng nay Phật giáo được truyền
bá sang năm châu lục và tất cả đệ tử Phật đều tu hành theo
nhiều pháp môn phương tiện khác nhau; vì chúng ta phải tùy
thuận theo từng nơi, từng thời kỳ mà có pháp môn tu thích
hợp để hướng dẫn mọi người được lợi lạc. Thí dụ điển hình
như Hòa thượng Thíền sư Nhất Hạnh sang Pháp xây chùa cũng
sơn xanh đỏ như nhà thờ, cũng có hình Đức Chúa Kytô đứng
nhìn Đức Phật để những người chưa theo đạo Phật thấy pháp tu
của Hòa thượng không xa cách với họ. Một số người phê bình
rằng cách tu của ngài ở Âu Châu không giống ở Việt Nam,
nhưng người Tây phương thì lại chấp nhận được. Tôi gặp người
Thụy Sĩ, Đức, Tây Ban Nha... tu theo Hòa thượng đạt được kểt
quả tốt đẹp. Điều này thể hiện ý nghĩa phân thân Phật thuyết
pháp. Cũng vậy, tất cả các sư đầu đà vào làng khất thực độ
được người; tôi vào trường giảng dạy hoặc đi thuyết pháp
cũng độ được nguời.
Tất cả các đệ tử Phật ở khắp năm châu hành đạo
theo pháp Phật đều tiêu biểu cho hóa thân của Phật và đều sử
dụng vô số phương tiện khác nhau, mới có pháp môn Thiền,
Tịnh độ, Mật tông, v.v... để đáp ứng yêu cầu của quần chúng,
mới có thể cứu độ họ, dẫn dắt họ đển bờ giác ngộ giải thoát.
Vì tu pháp phương tiện, không phải là pháp chân
thật, mà lại cố chấp vào phương tiện này để chỉ trích nhau,
chống phá nhau là càng xa rời chân lý hơn nữa. Vì vậy, kinh
Pháp Hoa nhắc nhở chúng ta rằng tu pháp phương tiện, nhưng
đắc đạo thì phải bỏ phương tiện. Ý này được thiền diễn tả là
qua sông, lên bờ thì phải bỏ thuyền. Đến bờ giác mà còn ôm
phương tiện, làm sao lên bờ giải thoát được.
Bỏ phương tiện nghĩa là tôi bỏ ý thức Bắc tông
của tôi là nhất và các Hòa thượng Thái Lan bỏ ý thức chỉ có
Phật giáo Nguyên thủy đúng nhất. Tẩt cả mọi người tu theo
Phật đều là đệ tử của Phật, thực hành giáo pháp của Phật
trong cuộc sống và đều hưởng được hương vị giải thoát giác
ngộ; cốt lõi của đạo Phật là như vậy.
Lễ Tam hợp Vesak Liên Hiệp Quốc tổ chức tại Việt
Nam năm nay đã quy tụ được bạn bè khắp năm châu cùng ngồi
chung, trao đổi sự hiểu biết và thể nghiệm giáo lý Phật được
lợi lạc như thế nào. Đó chính là ý nghĩa sâu sắc rằng tất cả
đệ tử Phật đã mở kho tàng giáo lý Phật Thích Ca để hiến dâng
cho cuộc đời những gì tốt đẹp nhất cho sự sống của con người
và muôn loài trên trái đất này. Những thành tựu quý báu này
chúng ta cùng dâng lên cúng dường Đức Từ phụ Thích Ca Mâu Ni
trong mùa Phật đản Phật lịch 2552-2008.
HT. Thích Trí Quảng
(Bài giảng tại trường hạ Trung Tâm tịnh xá ngày
24-05-2008)
Báo Giác Ngộ - Số 437 & 438
Người gửi bài: phatphap.wordpress.com &
phatphapnhiemmau.com
06-26-2008 09:23:46